Người phụ trách Văn Việt:

Trịnh Y Thư

Web:

vanviet.info

Blog:

vandoanviet.blogspot.com

Danh ngôn

Trong mọi cộng đồng, chúng ta cần một nhóm thiên thần gây rối.

We need, in every community, a group of angelic troublemakers.

(Bayard Rustin – trích bài phát biểu tại New York City 1963)

Trong mọi trường hợp, chắc chắn rằng sự thiếu hiểu biết, đi kèm với quyền lực, là kẻ thù tàn bạo nhất có thể có của công lý.

It is certain, in any case, that ignorance, allied with power, is the most ferocious enemy justice can have.

(James Baldwin - No Name in the Street 1972)

Các cuộc cách mạng và các cá nhân có thể bị giết hại, nhưng bạn không thể giết chết các ý tưởng.

While revolutionaries and individuals can be murdered, you cannot kill ideas.

(Thomas Sankara, một tuần trước khi bị ám sát, 1987)

Không có cảm giác nào cô đơn hơn việc bị chính đất nước mình trục xuất.

There's not a more lonely feeling than to be banished by my own country.

(Kiyo Sato – Kiyo’s Story 2009)

Ban Biên tập

Địa chỉ liên lạc:

1. Thơ

tho.vanviet.vd@gmail.com

2. Văn

vanviet.van14@gmail.com

3. Nghiên cứu Phê Bình

vanviet.ncpb@gmail.com

4. Vấn đề hôm nay

vanviet.vdhn1@gmail.com

5. Thư bạn đọc

vanviet.tbd14@gmail.com

6. Tư liệu

vanviet.tulieu@gmail.com

7. Văn học Miền Nam 54-75

vanhocmiennam5475@gmail.com

Tra cứu theo tên tác giả

Thứ Hai, 25 tháng 8, 2025

Trò chuyện với nhà văn Nguyễn Lệ Uyên

 

 Từ trái: Nguyễn Lệ Uyên - Trần Doãn Nho - Hoàng Dũng

(Hình: NLU)

 

 

Trần Doãn Nho (TDN): Anh viết văn từ trước 1975. Sau 1975, anh vẫn tiếp tục viết, khi đăng chỗ này, khi đăng chỗ kia. Có khi nào anh tự hỏi anh thuộc về "nền" văn học nào không? Văn học miền Nam? Văn học hải ngoại? Văn học trong nước? Ở giữa?

Nguyễn Lệ Uyên (NLU): Trước ngày đứt gãy, đoạn trường tôi cũng có năm, mười truyện ngắn đăng trên các tạp chí văn học ở Sài Gòn như một sự thôi  thúc để giải tỏa nhu cầu, cảm xúc trong đầu chớ không nghĩ mình là nhà văn nhà viết gì cả. Cụ Jean-Paul Sartre có phân biệt (giữa) écrivan và écrivain!

Đứt quãng hơn 10 năm mới rị mọ cầm bút trở lại y như sự đòi hỏi sinh lý, không nín nhịn được, nhưng chẳng đâu vào đâu:  truyện gửi đi khi báo biếu gửi về, lật ra đọc lại thì thấy một nửa của mình, nửa kia của ai đó, y như khuôn mặt các cô gái sau khi make up, đến tẽn tò!

Miền Nam, Hải ngoại, trong nước… chỉ là cách phân định nơi cư trú cho người viết do lịch sử đưa đẩy; còn khi viết là vì nghệ thuật, vì cái đẹp từ những đam mê không thể dứt bỏ chứ không vì chủ nghĩa này nọ như tiêu chí dưới logo báo Văn nghệ Việt Nam! Khái niệm Miền Nam, Trong nước, Hải ngoại chưa bao giờ hiện hữu trong đầu  khi ngồi viết. Nhưng nghĩ và viết chàng hảng như vài ba ông nhà văn cũ đang chơi trò nhí nhố cỏ lau (chữ của Phạm Ngọc Lư) thì tôi không chịu nổi. Tôi nghĩ chỉ có dòng văn học Việt nam duy nhất chia hai nửa: tự do và cung đình. Anh nào thích tung hê, ca ngợi sự lừa bịp, dối trá thì cứ việc; còn sống và tự do viết theo cảm xúc riêng tư như một giá trị nội tại thì anh cứ việc, dẫu trong hay ngoài nước. Tôi luôn tự hỏi mình viết được gì chứ chưa bao giờ nghĩ mình thuộc về dòng văn học nào.

Trần Doãn Nho (TDN): Écrivan và écrivain, anh nhắc lại một chuyện khá lý thú, một đề tài nho nhỏ đã từng được đề cập đâu đó trên một vài tạp chí văn chương miền Nam thời trước 1975. Đại khái, Sartre cho rằng “écrivan” là người viết chỉ để mà viết và “écrivain” là nhà văn, là người nhập cuộc, dấn thân, viết để thay đổi xã hội. Dù không nói ra, tôi đoán là anh khiêm tốn tự nhận mình là “écrivan”, không phải “écrivain”. Nhưng nhắc nhở để nhớ một thời cho vui thôi, xin không dám lạm bàn về chuyện này, vì nằm ngoài đề tài.

Chỉ xin anh nói rõ thêm ý của Phạm Ngọc Lư về cái gọi là “viết chàng hảng” và “nhí nhố cỏ lau” để chỉ một số nhà văn nào đó. Có phải Phạm Ngọc Lư muốn nói về thái độ “hàng hai” của những nhà văn này?

NLU: Có một thời gian khá dài, Phạm Ngọc Lư sống và dạy học tại Tuy Hòa, nơi anh viết những tác phẩm để đời, tiêu biểu là bài thơ Biên cương hành, cùng lúc với Y Uyên, đã thành danh với gần mươi tác phẩm về chiến tranh lấy bối cảnh tại vùng đất  này. Lư luôn trân trọng tất cả các bạn văn cùng thời. Nhưng sau ngày đứt gãy, tan tác… có một số quay sang làm “nhà văn 75” viết những bài thơ, truyện ngắn sặc mùi tụng ca, cùng lúc phủ nhận những gì mình viết trước đó. Tới khi Internet tràn vào Việt Nam, đám người này lại vừa viết những tác phẩm ca ngợi những điều không thật đến lố bịch cho các báo văn nghệ địa phương; Và cũng con người đó, lại thấy xuất hiện những bài thơ, truyện ngắn trên các trang mạng Hải ngoại, quay thẳng 180 độ! Phạm Ngọc Lư gọi hiện tượng này là “nhí nhổ cỏ lau”, là “chàng hảng”, hàng hai không chút liêm sỉ, khó chấp nhận!

TDN: Cách anh phân chia hai dòng văn học Việt Nam hiện nay, “tự do” (ám chỉ văn học haỉ ngoại) và “cung đình” (ám chỉ văn học trong nước), tuy không hẳn là mới, nhưng lạ. Tôi hoàn toàn đồng ý với anh, khi viết, ta viết về cuộc sống y như là cuộc sống chứ không viết cho bất cứ một “nền” văn học nào. Tuy nhiên, viết xong, nhà văn phải chọn lựa chỗ thích hợp để công bố tác phẩm của mình chứ?

NLU: Tất nhiên, mỗi một nhà văn đều có một thái độ lựa chọn nơi tương xứng với những “đứa con tinh thần” của mình, đó là cách hành xử của riêng từng cá nhân. Đã là nhà văn, người luôn xiển dương cái Đẹp đến cho độc giả thì luôn có nhân cách cao đẹp; vì vậy họ tự biết phải đặt tác phầm đã dốc hết tâm huyết của mình vào nơi nào thích hợp. Cái liêm sỉ của người cầm bút là thái độ lựa chọn đúng đắn chứ không thể đánh đổi bằng những câu hô hào, lừa mị để bảo toàn cuộc sống. Tôi rất kính trọng nhân cách nhà thơ Hữu Loan, nhưng thỉnh thoảng ngồi nhấm nháp lại “Chén trà trong sương sớm” của cụ Nguyễn Tuân sao thấy có chút gì nghèn nghẹn từ những ám ảnh trong tập bút ký “Hà Nội ta đánh Mỹ giỏi” của cụ!

TDN: Đâu chỉ có Nguyễn Tuân, anh. Và cũng không mấy ngạc nhiên khi có những nhà văn miền Nam 54-75 biến mình thành "nhà văn 75" để được tồn tại. Có lẽ (nói như Sartre) họ chọn làm những "écrivans" chăng?

Cũng may, cuộc cách mạng kỹ thuật, với Internet, đã xuất hiện kịp thời, đúng lúc, tạo cơ hội cho những nhà văn (và độc giả) trong nước phá vỡ được thế trận "cung đình". Từ chỗ chỉ biết chịu đựng hoặc làm lơ, họ có chỗ chọn lựa để đọc hoặc để viết. Anh đã "lựa chọn nơi tương xứng với những ‘đứa con tinh thần’ của mình" như thế nào? Và vào lúc nào?

NLU: Internet xuất hiện tại Việt Nam, với tôi như một giấc mơ… rồi sau đó vớ được cái máy tính đời 2.0 hay 3.0 gì đó là chiếc phao cho người sắp chìm dưới bùn đất: lập email, liên lạc với bạn bè; mày mò tìm kiếm có, bạn gửi cho địa chỉ các trang mạng có. Giữa  đám mây mênh mông kia, mọi thứ diễn ra ngoài sự mong đợi, Tây Ta đủ bộ. Như anh Mán trên rừng lần đầu được ngậm cục đá trong miệng, có khi đọc quên bữa; gặp lại người viết cũ, mới… Được một thời gian ngắn thì số lớn các trang (nước ngoài) bị chặn vì các trang này bị cho là thế lực thù địch, tuyên truyền chống phá Nhà nước… Lại phải khổ sở vất vả cầu cứu cách trèo tường, y chang mấy nhóc hồi xưa trộm ổi, me chua…. Đúng lúc các người anh em Khăn Rằng lao máy bay đánh sập hai tòa tháp ở Nữu Ước ngày 11/9/2001 khiến cả thế giới bàng hoàng, thì bất ngờ Phạm Văn Nhàn, Trần Hoài Thư và chị Nguyễn Ngọc Yến (bà xã anh Thư), kẻ trước người sau gọi thăm hỏi sau hơn 30 năm mất dấu! Khởi từ bữa đó, tôi bắt đầu gửi những gì viết được cho tạp chí “Thư Quán Bản Thảo” và các tạp chí khác, từ tạp văn ba trợn đến truyện, đến các tác giả  Miền Nam tôi yêu thích… kết nối được với các bạn văn cũ, mới; biết thêm các ông nhà văn Miền Nam tha hương nhưng không đoạn trường, cắt đứt dòng văn học 54-75, làm sống dậy những Văn, Văn Học, Khởi Hành, Văn Nghệ,  Hợp Lưu, Thế Kỷ XXI… trên đất khách. Đọc mà ứa nước mắt, bồi hồi nhớ lại thuở vàng son của dòng văn học Miền Nam bị thanh đao Bát Lê băm lìa oan nghiệt!

Những tờ báo (giấy) văn học lần lượt đình bản, nhưng các trang mạng (văn học) thì vẫn hiên ngang tồn tại, có mòi ngày càng nhiều, càng khởi sắc kiểu “bách hoa tề phóng xuân mãn viên” (trăm hoa đua nở xuân đầy vườn), nên cũng cuốn theo, hăng say viết, gửi. Có trang còn dành độc quyền: bản thảo gửi cho A làm ơn không gửi cho B hay các trang khác… Có khi Ban Biên Tập thực hiện một chuyên đề nào đó thì hối thúc, cuống cuồng làm nhớ lại bầu không khí mấy ông viết feuilletons cho các tờ nhựt trình ở Sài Gòn ngày nào: hối hả phóng xe mang bản thảo giao cho các tòa soạn để kịp dàn trang, bỏ quên gói thuốc, ly bia uống dở trên bàn!

Bài viết là những hữu thể có hình hài, tay chân, mắt mũi, mập mạp ốm o đủ cả…   Nhưng các trang mạng giúp nó sinh ra trên các đám mây chỉ có thể dùng thị giác mà đọc chớ không rờ mó được, không ngửi được mùi mực in, không thấy những chỗ bôi đen, đục trắng! Có điều, nhịp điệu sinh hoạt văn nghệ đó diễn ra cũng nhộn nhịp, tưng bừng; cũng háo hức chờ đợi khi cuối bài mở đóng ngoặc đơn còn tiếp, y chang như độc giả chờ ông Hàn Giang Nhạn dịch từng kỳ truyện kiếm hiệp của Kim Dung ngày trước!

TDN: Như thế, mãi đến đầu thế kỷ 21, anh mới biết đến văn học hải ngoại. Một số trong bọn tôi, nhờ chương trình H.O, nên may mắn được tiếp cận sớm hơn, khoảng đầu thập niên 1990. Dù muộn màng, nhưng anh thật hăng say. Các bài viết của anh xuất hiện khá đều đặn trên các tạp chí văn học hải ngoại. Tôi còn nhớ đã từng tham gia một cuộc thảo luận bàn tròn về 20 năm Văn Học Miền Nam mà anh là điều hợp viên, sau được in trên tạp chí “Thư Quán Bản Thảo” số 63 (2/2015), khiến có người tưởng anh đang sinh sống ở hải ngoại.

Thật cảm động khi được anh cho biết, “nhịp điệu sinh hoạt văn nghệ [ở hải ngoại] đó diễn ra cũng nhộn nhịp, tưng bừng”, khiến anh “đọc mà ứa nước mắt, bồi hồi nhớ lại thuở vàng son của dòng văn học Miền Nam…”, để rồi từ đó, anh “hăng say viết, gửi”.

Văn học hải ngoại, như thế, là sự “nối dài” hay là sự “tái hiện” Văn Học Miền Nam hay là một “nền” văn học hoàn toàn khác, theo anh?

NLU: “Nối dài” và “tái hiện”? Nội hàm của hai khái niệm này vừa giống nhưng cũng có chút khác biệt.

Cứ theo nguyên nghĩa thì nối dài là làm liền lại những vật, sự vật bị đứt lìa, gãy khúc; trong khi tái hiện gần giống với tái chế, tức chế  tạo lại những sản phẩm bị hư hỏng, phế  thải; nhưng đồng thời cũng có thể hiểu là làm cho một sự vật, sự việc, hình ảnh, cảm xúc, hoặc một trạng thái đã từng tồn tại xuất hiện lại một lần nữa. Nó có thể hiểu là sự khôi phục, làm sống lại, hoặc tái tạo một thứ gì đó đã từng diễn ra hoặc đã từng tồn tại trong quá khứ. Hiểu theo cách giải thích này, thì tái hiện là khôi phục lại, làm sống lại, tạo ra một phiên bản mới. Cụ thể là làm lại, phục chế lại cái đã mất. Vì vậy, tôi nghĩ, từ tái hiện gần với hoạt động trên bề mặt trạng thái tĩnh, thụ động; trong khi nối dài là một hoạt động cụ thể, sống động, ngay trước mắt.

Nói rằng văn học Hải ngoại là sự tái hiện của văn học Miền Nam không sai. Nhưng theo tôi văn học Hải ngoại là sự nối dài của văn học Miền Nam (VHMN) như một sự tiếp nối liên tục, không bị gãy gập khi chia phân kỳ do biến cố lịch sử 75 để lại. Vì rằng, nền văn học Miền Nam giai đoạn 54-75 chỉ bị gián đoạn chứ không hề biến mất để các anh chị em cầm bút vì điều kiện chính trị, kinh tế, nhân phẩm…khi định cư ở nước ngoài, phải khôi phục, tái hiện nó (VHMN), tạo ra dòng văn học hải ngoại?

Trong lịch sử Việt Nam thời chia đôi đất nước năm 1954, các văn nghệ sĩ miền Bắc di cư vào Nam đâu có khôi phục, tái hiện lại dòng văn học giai đoạn 1930 – 1954? Họ chỉ mang hồn cốt của Tự Lực Văn Đoàn, Hàn Thuyên, Tân Dân, Xuân Thu… tạo dựng một nền văn học mới mẻ hơn, tiếp cận với các khuynh hướng, trào lưu nghệ thuật phương Tây. Nhóm Sáng Tạo với Mai Thảo, Mặc Đỗ, Thanh Tâm Tuyền, Nguyễn Sỹ Tế… tiên phong cho sự thay da đổi thịt này trên cái nền cũ của dòng văn học trước 54.

Rồi đến giai đoạn tan tác gãy đổ 75, hầu hết các văn nghệ sĩ miền Nam bỏ nước ra đi vì nhiều nguyên do khác nhau, mà tiêu biểu là tự tìm cho chính mình và cộng đồng di tản, bầu không khí thật sự tự do, nhân văn với mọi khuynh hướng sáng tạo nghệ thuật mà không bị câu thúc, ràng buộc, chỉ đạo một chiều.

Như vậy, theo tôi, dòng văn học hải ngoại là sự TIẾP NỐI cho dòng văn học Miền Nam bị bức tử. Dòng văn học mới này, với sự sáng tạo đa chiều, đa khuynh hướng, làm mới, cách tân cả nội dung lẫn hình thức, tiếp cận với văn học phương Tây mà không đánh mất bản sắc Việt, tạo dựng một sinh hoạt phong phú từ thơ, văn, hội họa, nghiên cứu phê bình… Nhiều tác giả trẻ khi định cư ở nước ngoài chỉ mới mươi, mười hai tuổi, cách biệt với bầu không khí đậm sắc màu Việt Nam, thậm chí nói tiếng mẹ đẻ còn chưa sõi, nhưng bước vào thế giới văn chương, trong sự phát triển chung, họ đã có cái riêng, viết nên những tác phẩm gây tiếng vang lớn trên văn đàn thế giới. Đọc họ, ta không tìm thấy kiểu ông Tây bà Đầm viết văn Việt, ngược lại vẫn phảng phất mùi khói đồng, cá kho... đó là trường hợp của Nguyễn Thanh Việt, Ocean Vuong, Linda Lê, Kim Thúy, Mai Ninh, Ninh Kiều... làm cho nền văn học Việt Nam rực rỡ, bề thế hơn.

TDN: "Nối dài" xuất hiện trong một số bài viết ở hải ngoại để chỉ sự "tiếp nối" (chữ của anh) nền văn học bị "bức tử" của miền Nam. Hai chữ này là "thuật ngữ" do sử gia Tạ Chí Đại Trường đẻ ra trong hồi ký cải tạo “Một khoảnh VNCH nối dài” của ông.

"Tái hiện" là chữ chợt đến với tôi khi nghĩ đến công trình của Trần Hoài Thư mà một số anh em, kể cả tôi, đã dùng để mô tả nỗ lực không ngưng nghỉ của Trần Hoài Thư cho đến khi anh ấy từ giã cỏi đời: “Phục hồi di sản văn học miền Nam”. Qua hơn hai thập niên, Trần Hoài Thư cùng với bà xã là chị Ngọc Yến và một số nhà văn khác đã cất công sưu tầm trong các thư viện Hoa Kỳ rồi xuất bản hay đăng lại tác phẩm của những tác giả miền Nam, đồng thời phục dựng/giới thiệu lại các tạp chí văn chương miền Nam.

Dựa theo các ý kiến anh đã phát biểu ở trên, có thể tạm nêu lên mấy tính cách của văn học hải ngoại như sau:

-  tiếp nối và phục hồi văn học miền Nam (54-75) là nền văn học bị nhà cầm quyền tìm cách tiêu diệt ở trong nước

-  sáng tạo, cách tân văn chương cả nội dung lẫn hình thức, vừa tiếp nhận văn học phương Tây vừa giữ gìn bản sắc Việt.

Phải vậy không anh?

NLU: “Tiếp nối” thì chính xác, bởi sinh hoạt này đa dạng, đa chiều. Bất cứ nơi nào có cộng đồng người Việt cư trú là nơi đó có người viết, có báo giấy, báo mạng thậm chí có cả nhà in, nhà xuất bản, phát thanh, truyền hình… bùng nổ, rầm rộ như thập niên 60, 70 (thế kỷ 20) của Sài Gòn thủ đô văn nghệ! Có phải đây là dòng máu di truyền của người Việt chăng? Vì, hiện tượng  này cũng khá giống với  dân Do Thái thời thế chiến II, với dòng máu tài chánh ăn sâu vào tận huyết quản nên nơi nào có độ năm, bảy người Do Thái là nơi đó có chuyện cho vay, mua bán đổi chát tiền tệ? So sánh này quả là  khập khiễng, nhưng để thấy rằng  người Việt mình mê văn chương hò hát đến cỡ nào? Những năm còn sống ở Nam bộ, tối tối tôi vẫn nghe các bà mẹ ru con bằng cách đọc thơ Lục Vân Tiên, Phạm Công-Cúc Hoa, Thoại Khanh-Châu Tuấn  cùng những điệu hò trải dài trên các kênh rạch… Nó ăn sâu vào từng vi ti huyết quản rồi, như truyện “Bài ca vọng cổ” của Tiểu Tử viết về cậu thanh niên lai Tây đen, sống ở Côte d’Ivoire, giữa trưa  nắng cháy da ở phi trường Touba, bỗng nổi cơn nhớ nhà nhớ quê da diết bèn cất giọng hát một câu vọng cổ nghe đến cháy lòng “Mấy nếp nhà tranh ẩn mình sau hàng tre rủ bóng… đang vươn lên ngọn khói…á…lam…à…chiều…”

https://www.namkyluctinh.org/tuyen-tap/tieu-tu/tuyen-tap/bai-ca-vong-co.html

Riêng khoảng phục dựng các di sản Văn Học Miền Nam tôi thấy chưa thật đồng đều, đa phần dưới dạng flipbook, đọc không mấy thoải mái, như khi đọc flipbook Nam Phong tạp chí, Bách Khoa, tìm cho ra bài cần đọc, trích dẫn vô cùng mất thời gian. Nhưng trước vụ flipbook thì Talawas đã cho đánh máy và post lại hàng loạt tác phẩm văn học, các tư liệu quý của văn học Miền Nam, của thời Nhân Văn Giai Phẩm; rồi đến Trần Hoài Thư ngồi vá lại những tác phẩm văn học, các tờ báo văn nghệ (Bách Khoa, Văn, Khởi Hành, Tình Thương, Sáng Tạo , Giữ Thơm Quê Mẹ… bị (VC) tiêu hủy thì đúng là kỳ công, như vị cứu tinh cho độc giả và các nhà nghiên cứu! Một vài năm gần đây chưa thấy cá nhân, tổ chức nào ta tay phục dựng lại các tác phẩm trước 75 một cách bài bản?

Về sáng tạo, cách tân, tiếp nhận và gìn giữ, ngoại trừ dòng thơ Tân Hình Thức tôi không tài nào bắt cái đầu mở ra những dây thần kinh để hiểu và cảm xúc; còn lại đa phần các bộ môn khác mới mẻ hơn, hiện đại hơn, đang tiến gần với điểm phát triển của văn học phương Tây. Ví dụ mới đây tiểu thuyết Thuyền của Nguyễn Đức Tùng đang làm “dậy sóng” cả trong và ngoài nước. Khoảng gần 20 bài (tôi đọc được) viết về Thuyền! Chuyện gì đang xảy ra vậy? À, thì ra là  một câu chuyện kể về chuyến vượt biển; và chiếc Thuyền như nhân vật chính, mang theo bao nhiêu là cay đắng cuộc đời? Câu chuyện phi tuyến tính; hiện tại và quá khứ đan xen nhau, chính xác là hiện tại đang diễn ra luôn cõng quá  khứ trên lưng trong gần 370 trang giấy. Không có chương hồi, chỉ phân mảnh như những truyện nhỏ ghép lại, liên kết với nhau bằng những cảm xúc lặn sâu dưới tầng đáy não bộ để lắng nghe mùi hương, những thổn thức, những mất mát, sự cô đơn, dằn vặt, đau xé cõi lòng… một cách lặng lẽ, không ồn ào; chữ tiếp chữ, câu tiếp câu như đường bay của một bài thơ đẹp, như những bức tranh siêu thực.  Nguyễn Đức Tùng thành công ở chỗ xây dựng tác phẩm mới lạ về cấu trúc, sắp xếp trật tự thành hình tháp ngược, càng xa càng rộng. Rồi đến Kim Thúy với “Ru”  hay Linda Lê với “Vượt sóng”, Ocean Vuong với tiểu thuyết “On Earth We're Briefly Gorgeous” (xuất bản ở Việt Nam với tựa “Một thoáng ta rực rỡ ở nhân gian”)… mỗi tác giả xây dựng tác phẩm theo phong cách riêng,  ngôn ngữ riêng, nhưng thảy đều toát ra hơi ấm của văn hóa Việt trong từng chương, đoạn… như một bài thơ của Ocean Vuong viết bằng tiếng Anh, tôi đọc được trên mạng:

Ngoại tôi hôn      

như thể bom đang nổ ở sân sau nhà,

nơi bạc hà và hoa lài thả hương

qua cửa sổ bếp…

ngoại hôn như thể để hít lấy

bạn vào bên trong bà, mũi ép vào má

để mùi của bạn được biết đến

và mồ hôi bạn đọng lại thành những giọt vàng

trong phổi,

 Một cậu bé đến Mỹ chỉ mới hai tuổi, cách ly hoàn toàn với đời sống văn hóa, phong tục tập quán Việt Nam, bập bẹ tiếng Việt Như trẻ lên ba, thơ truyện đều viết bằng tiếng Anh, nhưng từng câu chữ đều toát ra cái hồn rất Việt Nam, rặt “mùi Việt Nam”, lấy lại tựa đề một truyện ngắn của Trần Doãn Nho! Chắc phải nhờ đến các nhà nhân chủng, di truyền học giải thích mới rõ ràng hơn?

TDN: Nhân câu hỏi của anh, “Một vài năm gần đây chưa thấy cá nhân, tổ chức nào ta tay phục dựng lại các tác phẩm trước 75 một cách bài bản?”, tôi xin nói rõ, văn học hải ngoại hoàn toàn là một “nền” văn học miễn phí, hiểu từ mọi khía cạnh. Làm chủ biên các tạp chí văn học (giấy cũng như mạng), đứng ra xuất bản sách hay viết lách, sáng tác, phục dựng văn học vân vân, chỉ trừ một số trường hợp rất hiếm hoi, còn thì gần như một trăm phần trăm đều xuất phát từ nỗi đam mê văn chương của từng cá nhân, “ăn cơm nhà vác lá ngà cho quan”: không ai tài trợ, không lương, không nhuận bút, không bán lấy lời…

Xin trở lại với đề tài chính. Theo anh, “có thể nào” hay “có cần thiết không” khi ta nói đến chuyện hai nửa rất khác biệt nhau của dòng văn học Việt Nam hiện nay, “tự do” và “cung đình”, cùng nhập lại? Hay nói một cách khác, khi nào thì dòng “cung đình” hết cung đình và dòng “tự do” được thong dong đi vào trong nước một cách thoải mái?

NLU: Một câu hỏi quá khó cho người được/bị hỏi, mà lẽ ra nên hỏi cho các vị ở “Trên”, trên cả chủ tịch và ban chấp hành Hội Nhà văn Việt Nam nữa kìa? Họ luôn hô hào hòa giải hòa hợp, họ luôn yêu quý và mong ngóng Khúc ruột Ngàn dặm, nhưng nhân tài ngày càng tìm đến Chốn xa xôi để an trú, thi thố sở học; bỏ lại phía sau một khoảng mênh mông  cho các vị có học hàm học vị cao ngất, nói giỏi làm dốt trong mọi lĩnh vực!

Trên hiện thực quá nhiều vị mặn và đắng chát kia thì anh hỏi cái vụ “cùng  nhập lại” như một giấc mơ có ngày được ôm thân thể kiều diễm Hằng Nga trong vòng tay, đặt nụ hôn bỏng cháy trên đôi môi thơm ngọt của nàng!

Tôi nhớ, không lầm, thì khoảng thập niên 90 (thế kỷ 20), tuần báo Văn nghệ của hội Nhà Văn  Việt Nam có đi một số truyện, thơ của các nhà văn thời danh miền Nam trước 75 như bước mở đường cho sự hòa nhập kia. Mười mấy năm sau, ông Hữu Thỉnh, được sự chỉ đạo của “Trên” mở một hội nghị hòa hợp văn học tại Hà Nội, chủ yếu là mời các nhà văn Việt Nam ở nước ngoài về dự. Anh Phan Nhật Nam đã phản hồi thư mời của ông Hữu Thỉnh với  lời lẽ rất “Mùa hè đỏ lửa”. Không ai về nước dự, chỉ lèo tèo vài ba ông và nhớ có một vị viết “huyên thiên” về triết học, một vị khác – có một bài “đấu tố” cha mình trên Văn Nghệ – lên đọc tham luận nhưng nhạt nhẽo, vô vị hơn nước ốc! “Hội nghị Hòa hợp Dân tộc về Văn học” (6/4/2017) đã thất bại ngay từ trứng nước!

Anh hỏi: “khi nào thì dòng “cung đình” hết cung đình và dòng “tự do” được thong dong đi vào trong nước một cách thoải mái?” Xin thẳng thắn thưa ngay rằng: khi nào thực sự tự do theo đúng nghĩa, khi nào nhân phẩm của con người được tôn trọng, khi nào “Đệ tứ quyền” không bị dán băng keo và Tam Quyền phân lập rạch ròi, dù cho thể chế có là cộng sản, cộng hòa, xã hội hay dân chủ chi chi nữa… thì ngoài trong không còn là vấn đề mà, chỉ có MỘT DÒNG VĂN HỌC VIỆT NAM DUY NHẤT.

 

TDN: Cám ơn anh Nguyễn Lệ Uyên.

8/2025

 ______________________

Nguyễn Lệ Uyên sinh trưởng ở Tuy Hòa, Phú Yên, tốt nghiệp Ðại Học Sư Phạm Cần Thơ, nhập ngũ Khóa 6/70 Sĩ Quan Trừ Bị Thủ Ðức. Trước năm 1975, viết trên các tạp chí văn nghệ Sài Gòn như Văn, Bách Khoa, Khởi Hành, Thời Tập, Nhà Văn, Chính Văn, Ý Thức, Tuổi Ngọc. Sau 1975, cộng tác với một số tạp chí văn học ở hải ngoại.

Đã xuất bản: Ba tập biên khảo (Trò Chơi Dân Gian, Truyền Thuyết Và Huyền Thoại, Bài Chòi); hai tập nhận định văn học (Trang Sách và Những Giấc Mơ Bay tập I (2010), tập II (2012) tập III (2018); bốn tập truyện (Mưa Trên Sông ĐăkBla, Mùa Hè Sang Trọng, Sông Chảy Về Núi, Chân Dung Tự Vẽ, Nguyệt Tận; một truyện dài (Nhật Ký Thằng Điên).