Người phụ trách Văn Việt:

Trịnh Y Thư

Web:

vanviet.info

Blog:

vandoanviet.blogspot.com

Danh ngôn

Trong mọi cộng đồng, chúng ta cần một nhóm thiên thần gây rối.

We need, in every community, a group of angelic troublemakers.

(Bayard Rustin – trích bài phát biểu tại New York City 1963)

Trong mọi trường hợp, chắc chắn rằng sự thiếu hiểu biết, đi kèm với quyền lực, là kẻ thù tàn bạo nhất có thể có của công lý.

It is certain, in any case, that ignorance, allied with power, is the most ferocious enemy justice can have.

(James Baldwin - No Name in the Street 1972)

Các cuộc cách mạng và các cá nhân có thể bị giết hại, nhưng bạn không thể giết chết các ý tưởng.

While revolutionaries and individuals can be murdered, you cannot kill ideas.

(Thomas Sankara, một tuần trước khi bị ám sát, 1987)

Không có cảm giác nào cô đơn hơn việc bị chính đất nước mình trục xuất.

There's not a more lonely feeling than to be banished by my own country.

(Kiyo Sato – Kiyo’s Story 2009)

Ban Biên tập

Địa chỉ liên lạc:

1. Thơ

tho.vanviet.vd@gmail.com

2. Văn

vanviet.van14@gmail.com

3. Nghiên cứu Phê Bình

vanviet.ncpb@gmail.com

4. Vấn đề hôm nay

vanviet.vdhn1@gmail.com

5. Thư bạn đọc

vanviet.tbd14@gmail.com

6. Tư liệu

vanviet.tulieu@gmail.com

7. Văn học Miền Nam 54-75

vanhocmiennam5475@gmail.com

Tra cứu theo tên tác giả

Chủ Nhật, 10 tháng 8, 2025

Bút kí của Leonardo da Vinci (3)

 Hà Vũ Trọng dịch

Nguyên văn: The Notebooks of Leonardo da Vinci do Irma A. Richter biên tuyển, Ấn quán Đại học Oxford, 1991.

CHƯƠNG II

 

VŨ TRỤ

Trong thời đại của Leonardo, vũ trụ được nhận thức như là tác phẩm của đấng sáng tạo toàn năng và có mục đích. Bên trong một khối cầu bao la vạn tượng, bốn nguyên tố có những vùng đồng tâm được ấn định. Mặt đất chiếm tại trung ương. Bao quanh nó là nước; tiếp đến một tầng không khí; và rồi, bao vây toàn bộ, là lửa. Bốn nguyên tố này không yên nghỉ trong cõi riêng của chúng và không ngừng dao động và lấn vào những khu vực lân cận; và chính đặc tính của chúng cuốn hút chúng trở về nơi gốc – có thể gọi đó là định luật hấp dẫn. Leonardo đã lớn lên với quan niệm này dựa trên những truyền thống cổ đại và đã chấp nhận nó hoàn toàn; và vì ông đã tự học nên đôi lúc khó phân biệt ra đâu là những ghi chú biểu hiện tư tưởng độc sáng của ông hay đâu là những sao chép từ những sách tìm được trong suốt những cố gắng liên túc của ông đến với giác ngộ.

Tuy nhiên, khi lí giải hiện tượng, ông không tham khảo những tác nhân mang tính giả thuyết xa lạ, mà bằng chính những hoạt động của tự nhiên. Mặc dù đồng ý với một số lí thuyết ổn cố, ông bác bỏ những lí thuyết khác bằng phương pháp kinh nghiệm và thực nghiệm nghiêm nhặt của ông.             

Ông khởi sự kiểm tra những tương tác của bốn năng lực tự nhiên: tức là, trọng lực và cường lực, vận động và chấn động. Ông quan sát những năng lực này khi dòng tác động bên trong bốn nguyên tố, trong nhiệt mặt trời, và trong lửa, trong gió, trong sóng và dòng nước, trong hình thành vỏ quả đất, trong sinh trưởng của thực vật, trong năng lượng cơ bắp của người và động vật.

Ông xúc tiến việc thiết lập những quy luật điều hành sự giải phóng năng lực và truyền lực. Tại sao không kiểm soát năng lực này và lợi dụng nó vào công việc cơ giới.

Ông đã thí nghiệm với lực bẩy, lực kéo, lực đẩy, và va chạm. Những phát minh đa dạng là kết quả từ những nghiên cứu của ông. Tuy nhiên, điều ông nghĩ tới là con người có thể lạm dụng đặc quyền của mình để gây nên sự huỷ diệt. Hơn nữa, Thiên nhiên lẽ nào không nổi dậy phản kháng và gây ra tai hoạ hay sao? Phần đầu chương này gồm việc mô tả về thế giới vật lí theo hình dung của Leonardo. Trong phần 2, một số ghi chú của ông về năng lực và về cơ học lí thuyết được phối hợp. Phần 3 đưa ra một vài trong nhiều ghi chú của ông bàn về cơ học ứng dụng: về ma sát, về những dụng cụ cân, ròng rọc, bánh xe, đinh ốc, v.v. Những nỗ lực của ông muốn kiến tạo một máy bay được mô tả trong Chương III.  

I. BỐN LOẠI NGUYÊN TỐ

Anaxagora

Mọi vật đều từ mọi vật, mọi vật được tạo từ mọi vật, mọi vật có thể chuyển thành mọi vật khác; bởi vì cái tồn tại trong những nguyên tố được hợp thành bởi những nguyên tố ấy.

Cấu hình những nguyên tố

Về cấu hình những nguyên tố; đầu tiên, tôi phản đối những ai phủ định lối kiến giải của Plato, họ cho rằng nếu những nguyên tố này thâm nhập nhau trong hình thức mà Plato [trong Timaeus] đã quy cho, thì một khoảng chân không hẳn được tạo nên giữa nguyên tố này và nguyên tố kia. Tôi cho rằng điều này không đúng, vậy tôi chứng minh dưới đây, nhưng trước tiên tôi muốn đề xuất một số kết luận. Không cần thiết cho rằng những nguyên tố thâm nhập phải có kích thước tương xứng với mọi thành phần thâm nhập và bị thâm nhập. Chúng ta thấy rằng thuỷ cầu rõ ràng có độ sâu khác nhau từ bề mặt tới đáy; và nó không chỉ thâm nhập đất trong hình khối lập phương, mà còn trong hình bát giác, như Plato đưa ra; thế nhưng, khi nó thâm nhập và đất có vô số góc cạnh của đá và những lồi lõm khác nhau, thế nhưng lại không có khoảng chân không nào phát sinh giữa đất và nước; cũng vậy, không khí bao vây thuỷ cầu cùng sơn cốc vốn nhô trên phạm vi đó, và không có khoảng chân không nào còn lại giữa mặt đất và không khí, vì vậy hễ ai nói rằng một khoảng chân không phát sinh ở đó, thì nói một cách ngớ ngẩn..

Với Plato, tôi đáp rằng bề mặt những cấu hình nguyên tố theo ông, không thể nào tồn tại. Mọi nguyên tố uyển chuyển và lỏng thì cần thiết có bề mặt hình cầu. Điều này được chứng minh bằng thuỷ cầu. Chúng ta hãy bắt đầu bằng việc đưa những quan niệm và những kết luận nhất định. Rằng vật thể càng cao thì càng xa khỏi trung tâm thế giới, và vật thấp hơn thì gần hơn với trung tâm. Nước không di chuyển tự thân trừ phi nó hạ xuống và nó hạ xuống khi lưu hành. Bốn khái niệm này, kết hợp theo từng cặp, dùng để chứng minh rằng nước không tự thân lưu hành và có bề mặt cách đều nhau so với trung tâm của thế giới. Chúng ta nói về đại khối và không nói về giọt hay tiểu khối hấp dẫn nhau như mạt thép.

Các thể nguyên tố đều thống nhất và bên trong chúng không có trọng lực hoặc khinh lực. Trọng lực và khinh lực được sản sinh từ hỗn hợp các nguyên tố.

[Với bản vẽ về bốn vòng tròn hướng tâm bao quanh bốn nguyên tố và một quả cân đặt bên trên.]

Tại sao quả cân không giữ nguyên vị trí của nó?

Nó không giữ nguyên vị trí bởi nó không có vật đỡ.

Nó sẽ di chuyển tới đâu? Nó sẽ di chuyển tới trung tâm. Tại sao không bằng những đường khác? Bởi trọng lượng không được nâng đỡ sẽ rơi xuống bằng đường ngắn nhất tới điểm thấp nhất là trung tâm thế giới. Và tại sao trọng lượng biết cách tìm ra đường ngắn như thế? Bởi nó không đi giống như một vật vô cảm giác và không đi quanh những hướng khác nhau.

Nguyên tố nước sẽ bị ngăn giữ trong những bờ sông đắp ụ và bờ biển. Vì thế, không khí bao quanh sẽ phải vây kín và tạo chu vi một kết cấu thổ nhưỡng gia tăng và càng phức tạp; và đại khối lượng đất này treo giữa nguyên tố nước và lửa sẽ bị cản trở và bị tước đi nguồn cung cấp độ ẩm cần thiết. Vì thế, những dòng sông sẽ cạn nước; đất tốt sẽ không còn nảy nở xum xuê; ruộng đồng không còn tô điểm bằng đám lúa nhấp nhô; tất cả động vật, không tìm thấy cỏ tươi đề ăn, sẽ bị diệt vong; thực phẩm sẽ thiếu đối với lũ sư tử và chó sói háu ăn cùng những thú săn mồi khác; và con người sau nhiều di dời tuyệt vọng sẽ buộc phải bỏ rơi sinh mạng mình, và nhân loại ngừng tồn tại. Theo cung cách này, mặt đất phì nhiêu và hoa lợi sẽ bị khô cằn và vô sinh; nhưng nhờ nước chứa trong lòng đất, và nhờ hoạt tính của thiên nhiên, nó sẽ duy trì trong một thời gian ngắn nữa theo quy luật sinh trưởng, cho tới khi không khí lạnh và loãng biến mất. Và rồi trái đất sẽ buộc phải chấm dứt với nguyên tố lửa và bề mặt của nó bị cháy thành than, và việc này sẽ kết liễu mọi thiên nhiên trên mặt đất.

  1. NƯỚC

Nước đối với Leonardo là mối hấp dẫn lớn. Ông xem nước như là động lực của vũ trụ và cho rằng có lẽ ông đã giải được những mầu nhiệm sáng tạo bằng việc nghiên cứu những quy luật vận động của nó qua đất và không khí.

Những bản vẽ và bản ghi nhớ rải rác trong khắp những thủ bản đề ngày tháng khác nhau cho thấy rằng chủ đề này thu hút sự chú tâm của ông ít nhiều có tính liên tục. Chúng ta có thể thấy ông đang đi dạo, bút kí trong tay, dọc bờ biển và đang trầm tư trước những đợt thuỷ triều lên và xuống, gió gợn mặt nước, sóng trào, cát xô dạt; hoặc có thể ông đang đứng bên bờ sông nhìn những dòng nước và xoáy nước, đang xem xét những lớp phù sa hai bên bờ sông; hoặc đang nấn ná bên ao tù nhìn vào những phản chiếu, ánh lấp lánh trên thảo mộc, và xem cá đùa ở dưới. Ông sẽ ném một viên đá vào nước lặng và so sánh những vòng tròn mãi lan rộng trên bề mặt với những sóng âm vang dội trong không trung. Lúc khác, có lẽ ông đang leo lên một sơn cốc để truy tìm nguồn một con suối trong khi quan sát thác nước và sự tán nghiền không ngừng của đá và sỏi. Những vỏ sò và những hoá thạch của biển tồn tại trong nội địa ở độ cao với tầng đất, đá khác nhau đem ông tới nhận thức về những dòng nước là những tác nhân chính trong việc hình thành bề mặt quả đất, và ông đã báo trước khái niệm về sự tiến hoá từng bước. Là một kĩ sư, ông khởi sự những đồ án về kênh đào, thuỷ lợi, hệ thống thoát nước và đưa sức nước vào những việc bơm, cưa, và xay nghiền. Là một kiến trúc sư, ông thiết kế các vòi nước phun và vườn cảnh. Là nhà nghệ thuật, ông thích đem vào trong bối cảnh những dòng suối quanh co qua những hình thành nham thạch, vì ông cho rằng người hoạ sĩ có thể miêu tả vừa hình tượng người vừa cảnh tự nhiên vô sinh, và con người phải được hình dung như là bộ phận hình thành của cuộc sáng tạo. Sự mô tả đầy tưởng tượng về trận Hồng thuỷ vẽ nên bức tranh về sức huỷ diệt của nguyên tố này. Ông cũng viết một cuốn sách luận về Tính chất của nước, và nó nằm trong phòng của ông khi Hồng y xứ Aragon tới thăm ông tại Amboise năm 1517. Một thủ cảo nhan đề “Luận về tự nhiên, trọng lượng và vận động của nước” hiện nay được bảo tồn dưới danh mục Leicester Codex (trong Sưu tập Bill and Melinda Gates).        

Nước là kẻ thúc đẩy của tự nhiên.

Nước, vốn là khí chất sinh động của bộ máy địa cầu, tự thân lưu động bằng nhiệt lượng tự nhiên.

Trước tiên hãy viết về tất cả nước, trong từng chuyển động, rồi mô tả tất cả tầng đáy của nó và những chất liệu khác nhau của chúng, luôn tham chiếu tới những mệnh đề liên quan tới những dòng nước được nhắc tới; và hãy sắp xếp tốt trật tự, nếu không, công việc này sẽ bị hỗn loạn. Hãy miêu tả mọi hình dạng mà nước khoác lấy từ hình sóng cực lớn tới hình sóng cực nhỏ, và những nguyên nhân của chúng.

Những phân chia của cuốn sách

Cuốn 1 về tính chất của nước

Cuốn 2 về biển

Cuốn 3 về sông ngầm

Cuốn 4 về sông

Cuốn 5 về tính chất của nước sâu

Cuốn 6 về những chướng ngại vật

Cuốn 7 về sỏi

Cuốn 8 về mặt nước

Cuốn 9 về những vật thể vận động trên mặt nước

Cuốn 10 về việc chỉnh đốn sông

Cuốn 11 về đường dẫn nước

Cuốn 12 về kênh đào

Cuốn 13 về máy thuỷ lực

Cuốn 14 về việc đưa nước lên

Cuốn 15 về những thứ bị nước tiêu huỷ

Từ trình tự cuốn sách về nước

Thuỷ triều lên và xuống có được gây ra do mặt trăng hay mặt trời hay không, hoặc do sự phá tan của bộ máy trái đất. Thuỷ triều lên xuống giữa các quốc gia khác với nhau ra sao.

Cuối cùng núi bị san bằng bởi nước ra sao, nhìn chúng gội rửa địa cầu che phủ và để lộ nham thạch, rồi bắt đầu vỡ vụn và nguôi dịu vừa bằng nhiệt lượng vừa bằng băng giá liên tục biến đổi thành đất trồng trọt. Nước xói mòn nền tảng và núi non sụt lở dần dần sụp đổ xuống sông... chính vì nguyên nhân sụp đổ này, những dòng nước dâng lên thành trận lụt và hình thành những biển lớn.

Trong bão tố mãnh liệt, những đợt sóng quăng xuống mọi vật thể nhẹ ra sao và cuốn hút thật nhiều đất vào lòng biển, làm cho nước biển đục khắp một phạm vi lớn.

Bằng cách nào mà những khối đá rời ở dưới chân thung lũng rộng và dốc, khi chúng bị những đợt sóng nhồi đã trở nên những viên tròn nhẵn, và nhiều vật thể cũng vậy khi bị sóng xô hay hút vào lòng biển.

Bằng cách nào mà sóng yên và trải rộng khắp những vùng nước lặng sóng trên đại dương khi mà những luồng gió phản hướng gặp nhau.

Trình tự của cuốn sách đầu tiên về nước

Trước tiên định nghĩa trọng lượng và độ sâu nghĩa là gì; và một nguyên tố này được định vị bên trong một nguyên tố khác ra sao. Tiếp đến, trọng lượng đặc và trọng lượng lỏng nghĩa là gì; nhưng trước tiên, trọng lực và khinh lực tự thân chúng là gì. Sau đó miêu tả tại sao nước chuyển động, và tại sao chuyển động của nó ngừng lại; rồi mô tả tại sao dòng nước trở nên nhanh hoặc chậm hơn.

Trong bốn nguyên tố thì nước đứng hàng thứ hai về trọng lượng và về tính lưu động. Nó không bao giờ yên cho đến khi hoà vào biển, nơi đó, khi không bị gió quấy nhiễu, tự nó tạo lập và duy trì bề mặt cách đều với trung tâm thế giới.

Nước sẵn sàng bốc lên bởi khí nóng trong màn hơi nước mỏng qua không trung. Khí lạnh khiến nó đóng băng. Tức là, khí nóng khiến nước vận động, khí lạnh khiến nó đóng băng, tính bất động làm hư thối nó.

Nước là sự khuếch trương và khí chất của mọi cơ thể cần thiết cho sự sống. Thiếu nó, không gì bảo trì được hình thể. Bằng sự lưu nhập, nước kết hợp và tăng cường những cơ thể.

Nước nhận vào mọi mùi, màu, và vị mà bản thân nó không có.

Nước, bằng trọng lượng của nó, là nguyên tố thứ hai bao quanh địa cầu, và một bộ phận của nó nằm ngoài thuỷ cầu sẽ nhanh chóng tìm cách quay về nơi gốc. Và nó càng dâng cao trên vị trí nguyên tố của nó thì sẽ hạ xuống nơi gốc với tốc độ càng nhanh. Những phẩm chất của nó là ẩm và lạnh. Chính vì tính chất của nó là luôn tìm những nơi nằm thấp khi không bị kiềm chế. Nó sẵn sàng bốc lên cao bằng hơi nước và sương, và biến thành mây, lại thành mưa rơi xuống bằng những thành phần li ti của mây tập hợp và tạo thành những giọt. Ở những cao độ khác nhau, nó mang nhiều hình dạng khác nhau, đó là nước hoặc tuyết hoặc mưa đá. Nó không ngừng bị nhồi do không khí chuyển động, và nó tự gắn liền với vật thể nào đã dễ bị khí lạnh tác động nhất, và nó mang mùi và vị dễ chịu.

Không thể mô tả tiến trình vận động của nước trừ phi người ta trước tiên định nghĩa trọng lực là gì và nó được sản sinh và tiêu tan như thế nào...

Nếu toàn bộ biển nằm lên và tự nó chịu sức nặng lên đáy biển, thành phần của biển nằm trên thành phần của đáy biển; và khi nước có trọng lượng từ nguyên tố của nó sẽ đè nén và ép lên những vật thể nằm dưới đáy biển. Chúng ta thấy ngược lại; vì khi rong biển và cỏ mọc dưới những độ sâu đều không bị cong oằn hoặc bị nghiền nát dưới đáy này mà chúng rẽ qua nước một cách mau mắn như thể chúng đang mọc trong không khí.

Vì thế, chúng ta đi tới kết luận này: tất cả những nguyên tố, dù chúng không có trọng lượng trong phạm vi của chúng, nhưng có trọng lượng ở ngoài phạm vi của chúng, nghĩa là, khi chuyển động hướng lên bầu trời, mà không phải hướng xuống trung tâm địa cầu. Bởi vì nếu một nguyên tố di chuyển tới trung tâm này, nó gặp một nguyên tố khác nặng hơn chính nó, mà thành phần mỏng nhất và nhẹ nhất đang tiếp xúc một nguyên tố nhẹ hơn chính nó, và thành phần nặng hơn được đặt gần nguyên tố cũng nặng hơn chính nó.

Năng lực đó tự cho thấy lớn hơn đối tượng bị đè nén ở mức đề kháng nhỏ hơn.  Kết luận này là phổ quát và chúng ta có thể ứng dụng đối với việc thuỷ triều lên xuống để chứng minh rằng mặt trời hay mặt trăng có sức đè nén mạnh hơn lên đối tượng của nó, tức là, trên thuỷ lưu, khi những dòng này độ sâu kém hơn. Do đó, những đầm nước cạn phải phản ứng mạnh với nguyên nhân của thuỷ triều hơn là những nơi cực kì sâu của đại dương.

Nước làm suy mòn những đỉnh núi cao. Nước vừa làm trơ trụi vừa di chuyển sơn thạch. Nước còn di đời những hải ngạn cổ khi nó nâng nền đáy biển lên bằng việc vun đất nó mang theo. Nước làm vỡ lở và phá huỷ những bờ cao. Ở đây, không sự ổn định nào có thể thấy được mà tính chất của nó lại không lập tức dẫn tới số không. Nước tìm kiếm qua những dòng sông ở mọi thung lũng dốc từ đó nó cuốn đi hoặc tích tụ thổ nhưỡng mới. Do đó, có thể nói rằng có nhiều sông ngòi qua đó tất cả nguyên tố nước này đã đi qua và đã nhiều lần trả biển về cho biển. Và không có bộ phận nào của mặt đất là quá cao vì biển đã ở ngay nền tảng của nó, và không có đáy biển nào là quá thấp vì những núi cao nhất đều có móng ở đó. Vì thế, nước khi thì đột ngột khi thì nặng nề, khi chua khi đắng, khi ngọt khi dày hoặc mỏng, có khi nó mang lại thiệt hại hoặc bệnh dịch, và rồi đem tới sức khoẻ, và cũng cả chất độc. Vì vậy, ta có thể nói rằng nước biến đổi thành nhiều tính chất tuỳ theo những địa phương khác nhau mà nó kinh qua. Như tấm gương biến hoá theo màu sắc vật thể, cũng thế nước biến hoá theo tính chất của nơi nó đi qua: ban sức khoẻ, gây tai hại, nhuận tràng, cầm máu, lưu huỳnh, muối, huyết tinh, ưu uất, ác liệt, giận dữ, đỏ, vàng, lục, đen, lam, trơn trượt, dày, mỏng. Khi thì mang tới hoả hoạn rồi dập tắt; khi ấm khi lạnh; khi mang đi xa rồi dìm xuống, khi đào trũng khi vun lên, khi giật xuống khi củng cố, khi đổ đầy rồi làm cạn, khi dâng cao và rồi đào sâu thêm, khi tăng tốc lực và rồi nằm im, có khi là nguyên nhân sống khi là nguyên nhân chết, khi sản sinh khi tước đoạt, khi nuôi dưỡng và có khi ngược lại, có khi mặn có khi nhạt, và có khi với những trận hồng thuỷ nhận chìm những thung lũng rộng lớn. Với thời gian, mọi thứ biến đổi. Có khi nó hướng lên phía bắc làm xói lở chân những bờ sông; khi thì lật nhào vào bờ sông đối diện phía nam; có khi nó chuyển hướng tới địa tâm để chiếm ngự ở dưới đáy vốn nâng đỡ nó; khi thì nó vọt lên sủi bọt và sùng sục hướng lên trời. Có khi nó hợp dòng cuộn thành vòng tròn, và có khi nó trải ra phía tây và cướp đoạt công lao trồng trọt của người nông dân, và rồi nó bồi đất lên bờ phía đông. Và như vậy, đôi lúc nó đào sâu và đôi lúc nó đổ đầy, cũng như khi thì lấy đi và khi thì bồi thêm. Như vậy, không ngừng nghỉ, nó mãi di dời và tiêu hao bến bờ của nó. Đôi khi nó cuồn cuộn và gầm lên cuồng nộ, đôi khi nó trong trẻo và thanh thản với dòng chảy hiền lành vui chơi giữa những đồng cỏ xanh tươi. Có khi nó từ trời rơi xuống bằng mưa hoặc tuyết hoặc mưa đá, có khi tạo thành những đám mây lớn đầy sương mù li ti. Có khi nó tự di chuyển, có khi bằng lực của những thứ khác; có khi nó nâng đỡ sự vật sinh ra nhờ độ ẩm có sinh khí, có khi hôi thối hoặc đầy mùi thơm tho. Không có nước, không gì tồn tại được. Có khi nó tắm trong khí nóng, hoà vào hơi nước để hỗn hợp với không khí, và được hút lên bởi nhiệt, nó lên cao tới vùng lạnh rồi nén lại với nhau do tính chất tương phản của nó, và những hạt li ti kết lại với nhau. Giống như bàn tay dưới nước bóp một miếng bọt bể đẫm nước khiến cho nước trong đó vuột qua những kẽ hở và xua phần còn lại ra khỏi vị trí bằng đợt sóng của nó, cũng thế với khí lạnh bị nén do độ nhiệt ẩm. Vì khi giảm thiểu sang hình thức cô đặc thì không khí bị nén trong nó thoát ra bằng lực thì bộ phận yếu nhất rồi xì ra như thể nó phát ra từ những ống bễ bị nén bởi một trọng lực không thể chịu nổi. Và như vậy, những đám mây nhẹ hơn trong những vị trí khác nhau hình thành những chướng ngại trong dòng theo luồng bị cuốn trôi.

Sóng

Sóng là sự thoái hồi của va đập và nó sẽ lớn hơn hoặc kém hơn về tỉ lệ tuỳ vào sức va đập lớn hơn hoặc kém hơn. Một đợt sóng không bao giờ chỉ một mình mà trộn lẫn với nhiều đợt sóng khác không đều lên trên bờ là  nơi sóng sản sinh...

Nếu bạn ném một viên đá vào trong cái ao với những bờ lồi lõm khác nhau, tất cả những đợt sóng sẽ đánh vào những bờ này đều thoái hồi hướng về điểm nơi viên đá va vào; và khi gặp những đợt sóng khác chúng không bao giờ ngăn cản dòng của nhau... một đợt sóng sinh ra trong cái ao nhỏ sẽ đi và nhiều lần trở lại vị trí nó phát sinh... chỉ có ở ngoài khơi, sóng tiến tới mà không cuộn lại. Trong những ao nhỏ thì cùng một đả kích sẽ sản sinh ra nhiều chuyển động tiến và thoái. Đợt sóng lớn hơn được bao trùm vô kể những đợt sóng khác vận động theo những hướng khác nhau; và những đợt sóng này sâu hay nông tuỳ theo lực phát sinh ra chúng... nhiều đợt sóng xoay theo những hướng khác nhau có thể được tạo nên giữa bề mặt và đáy tầng của cùng khối lượng nước đồng thời... mọi ấn tượng gây nên bởi những vật thể đập lên mặt nước có thể xâm nhập lẫn nhau mà không bị tiêu tan. Một đợt sóng không bao giờ xâm nhập vào một đợt sóng khác; mà chúng chỉ cuộn lại từ chỗ mà chúng va chạm.

Khi đợt sóng cuốn tới bờ biển bởi lực gió, nó hình thành một cái mô để đặt phần trên của nó vào đáy và xoay lại cho tới khi nó vươn tới vị trí nơi nó bị nhồi trở lại bởi một đợt sóng kế tiếp đến từ bên dưới rồi xoay và lật nó lại, và như thế lật đổ cái mô và đánh lưng lần nữa lên bờ biển như đã nói trên, và cứ thế tiếp tục nhiều lần, và giờ đây lăn lên bờ bằng chuyển động phần trên còn phần dưới thì nó rút ra khỏi bờ... Nếu nước biển trở về với đáy biển sau việc va đập lên bờ, vậy bằng cách nào nó mang theo được các con sò, các loài nhuyễn thể, ốc, và những thứ tương tự được vớt lên từ đáy biển rồi để chúng lại trên bờ? Chuyển động của những thứ này hướng tới bờ biển bắt đầu khi sự va đập của đợt sóng đang trút xuống gặp đợt sóng phản xạ, bởi vì những vật thể dâng lên từ đáy biển thường nhảy vọt vào trong đợt sóng theo hướng tới bờ, và những thể rắn được đưa lên trong cái mô rồi kéo chúng trở xuống biển; và cứ  thế chuỗi này tiếp tục cho tới khi bão bắt đầu yếu đi, và chúng được để lại từng bước một mỗi khi những đợt sóng lớn hơn vươn tới và kí gửi những chiến lợi phẩm mà chúng mang theo, và những đợt sóng sau không thể truy tới cùng dấu vết đó. Vì thế lưu lại những vật thể do biển cả ném lên.

Một đợt sóng biển luôn vỡ tan ngay trước chân sóng, và thành phần đó của ngọn sóng sẽ thấp hơn so với trước đó là cao nhất.

Chuyển động trôn ốc hoặc quay tròn của mọi thể lỏng thì nhanh hơn về tỉ lệ khi nó gần hơn tới trung tâm xoáy của nó. Đây là một thực kiện đáng chú ý, bởi vì vận động quay tròn thì chậm hơn nhiều khi nó tới gần với trung tâm của vật thể đang xoay quanh...

[Với bức vẽ cho thấy nước giống hình dạng làn tóc.]

Hãy quan sát chuyển động của mặt nước, nó tương tự như thế nào với chuyển động của tóc gồm hai vận động – một đàng phụ thuộc vào trọng lượng của tóc, một đàng phụ thuộc vào hướng theo lôn tóc; như vậy, nước hình thành những xoáy tròn, một phần thuận theo động lực của dòng chủ lưu, và phần khác thuận theo chuyển động ngẫu nhiên và hồi lưu.

Trung tâm của một thuỷ cầu cá biệt hình thành những hạt sương li ti, thường thấy trong dạng cực tròn rơi xuống trên lá cây; hạt sương nhẹ tới mức nó không bị dẹp ra trên địa điểm nó đậu, và nó gần như được không khí bao quanh hỗ trợ, vì thế bản thân nó không dùng bất cứ áp lực nào hoặc hình thành bất cứ cơ sở nào; và bởi điều này, bề mặt của nó hướng tới trung tâm với lực bằng nhau từ mọi phía; và như thế mỗi phần tìm gặp nhau với dẫn lực bằng nhau và chúng trở nên hấp dẫn nhau, với kết quả là mỗi giọt cần thiết trở thành hình cầu hoàn hảo, hình thành trung tâm của nó ở giữa, cự li đều nhau từ mỗi điểm của bề mặt và chúng hút nhau như nam châm, và khi nó bị kéo cùng mức độ bởi mỗi phần trọng lực, nó luôn đặt bản thân nó vào trung điểm giữa những phần đối ngịch với trọng lượng bằng nhau. Nhưng khi trọng lượng của hạt nước này tăng lên, trung tâm của bề mặt hình cầu lập tức rời bỏ thành phần nước đặc thù này, và di chuyển tới trung tâm chung của hình cầu; và trọng lượng giọt nước này càng tăng, thì trung tâm của đường cong tiếp cận hướng tới trung tâm của thế giới.

Nếu một giọt nước rơi vào biển khi biển lặng, nó nhất thiết phải tuân theo toàn bộ mặt biển là dâng cao một cách tinh vi, bởi vì nước không thể bị nén vào như không khí.

  1. NƯỚC VÀ ĐẤT

Bề mặt của thuỷ cầu không ra khỏi chu vi của nó quanh trung tâm của thế giới vốn bao vây ở cự li đều. Và nó sẽ không di chuyển khỏi sự cách đều này nếu địa cầu, vốn chống đỡ và là bình chứa nước, không dâng lên ở trên nó, và xa khỏi trung tâm thế giới.

Địa cầu được di chuyển khỏi vị trí bằng trọng lượng của một con chim nhỏ đậu xuống nó.

Bề mặt của thuỷ cầu được di chuyển bằng một giọt nước nhỏ rơi vào nó.

Nước thiết yếu phải có nhiều hơn đất, và thành phần của biển nhìn thấy được không cho thấy điều này; vì thế ắt phải có nhiều nước nằm trong lòng đất, ngoài ra, còn có cái bốc lên khí thấp và cái chảy qua sông, qua suối.

Trong mọi nguyên nhân huỷ diệt tài sản của con người, đối với tôi, những dòng sông giữ vị trí quan trọng nhất vì những tràn ngập quá độ và cuồng bạo. Nếu có ai muốn dùng lửa để chống cự cơn giận dữ của những trận hồng thuỷ, tôi cho rằng, y hẳn là thiếu sức phán đoán, vì lửa sẽ suy yếu và tắt khi nhiên liệu cạn, nhưng chống cự lại sự tràn ngập không thể vãn hồi  gây ra do những dòng sông dâng lên và cao mạn thì không còn giải pháp tiên liệu nào của con người có thể hữu hiệu; vì một loạt những đợt sóng dữ và cuồn cuộn làm sạt lở những bờ cao, trở nên đục ngầu do đất từ ruộng đồng đã cày xới, phá huỷ nhà cửa và bật rễ những cây cao, nó mang theo những thứ này cùng với nạn nhân của nó ra biển vốn là nơi ẩn trốn của nó, mang theo con người, cây cối, động vật, nhà cửa và đất đai, quét sạch mọi đê điều và mọi loại rào chắn, và mang theo những vật nhẹ, tàn phá và huỷ diệt những vật nặng, gây ra sự lở đất lớn từ những rãnh nứt nhỏ, lũ lụt ngập những thung lũng thấp, và ồ ạt ập đến với khối lượng nước phá huỷ và không thể ngăn chặn. Kẻ nào cận kề thì chỉ cần có cánh là bay lên!

Ôi, bao nhiêu thành phố, bao nhiêu đất đai, lầu đài, dinh thự, và nhà cửa bị tiêu tán!

Bao nhiêu công lao của nông dân bất hạnh trở nên vô ích và vô lợi! Bao nhiêu gia đình tan nát và chìm ngập! Tôi biết nói gì về những đàn gia súc chết đắm và mất tích! Và thường thường từ những đáy biển cổ đại lởm chởm đá phun ra và quét đi ruộng đồng đã trồng trọt...

(a)               Hồng thuỷ và vỏ sò

Bởi vì sự vật cổ xưa hơn văn tự, nên không lấy làm lạ nếu trong thời đại chúng ta không có ghi chép nào tồn tại về những vùng biển này đã bao bọc nhiều xứ sở như thế nào; vả lại, nếu loại ghi chép như thế từng tồn tại, thì chiến tranh, hoả hoạn, hồng thuỷ, những thay đổi về ngôn ngữ và pháp luật, đã tiêu huỷ mọi vết tích của quá khứ. Nhưng chúng ta lại có đủ chứng từ về sự vật đã sản sinh trong nước mặn và tìm thấy lại trong những núi cao, xa khỏi những vùng biển ngày nay.

Trong tác phẩm này của bạn, đầu tiên bạn phải chứng minh rằng những vỏ sò ở độ cao một ngàn thước Ý (braccia) đã không được mang lên đó bởi cơn Hồng thuỷ, bởi chúng được thấy ở một mức độ và cùng mức độ, và nhiều quả núi được thấy lên cao trên mức độ đó một cách đáng kể; và muốn điều tra rằng trận Hồng thuỷ là do mưa gây ra hay do biển dâng lên; và sau đó bạn phải cho thấy bằng cách nào, không phải do mưa khiến sông dâng lên, cũng không phải do sự ngập lụt của biến khiến cho vỏ sò, là những vật nặng, được biển cuốn lên núi hoặc do sông mang lên đó ngược với những dòng chảy của chúng.

Giờ đây bạn phải chứng minh rằng vỏ sò không thể phá sinh nếu không ở trong nước mặn, mà hầu như tất cả thuộc loại đó; vỏ sò ở Lombardy đều ở bốn mức độ, và như vậy nó ở mọi nơi, được làm ra vào những thời đại khác nhau. Và chúng tất cả phát sinh trong những thung lũng mở hướng ra biển.

Vỏ sò và nguyên nhân hình dạng của chúng 

Sinh vật trú bên trong vỏ sò tạo căn nhà của nó bằng những khớp, đường nối và mái che cùng những bộ phận khác nhau, giống như con người trong ngôi nhà của mình; và sinh vật này mở rộng căn nhà và lợp mái dần dần khi thân thể tăng trưởng vì nó gắn với những cạnh của vỏ. Do đó, độ sáng và độ nhẵn của những con sò này ở bên trong hơi bị mòn ở điểm chúng gắn với sinh vật trú trong đó, và khoảng hốc thì nhám, để tiếp nhận việc những cơ bắp đan chặt chẽ với nhau là phương tiện nhờ đó sinh vật tự thu mình ở trong khi nó muốn đóng căn nhà lại. Còn nếu bạn muốn nói rằng vỏ sò được thiên nhiên sản sinh nơi những quả núi này nhờ chịu ảnh hưởng của tinh tú, vậy bạn sẽ phải cho thấy với cách nào mà ảnh hưởng này sản sinh ra ở cùng một địa điểm những vỏ sò có kích thước và thời đại khác nhau, và có nhiều loại?

Sỏi 

Và bạn sẽ giải thích ra sao với tôi sự kiện đá sỏi tất cả đều cùng tập trung và nằm nhiều lớp ở những độ cao khác nhau trên núi cao?  Vì đây đó có thể thấy sỏi từ những bộ phận khác nhau cho tới cùng địa điểm bên những dòng sông chảy theo dòng; và loại sỏi này không gì khác ngoài là những mảnh đá vốn đã mất đi góc nhọn khi lăn lóc suốt một thời gian dài, và từ những cơn bão và thác nước khác nhau mà chúng đã kinh qua trong hành trình của những dòng thuỷ lưu đã đem chúng tới địa điểm này.

 Nếu Hồng thuỷ đã đem vỏ sò có cự li khoảng ba và bốn trăm dặm từ biển vào, hẳn là đã mang theo hỗn tạp với những vật thể tự nhiên khác và chồng chất tất cả lên nhau; nhưng ngay cả ở cách xa biển như thế, chúng ta thấy những con trai và cả loài giáp xác cùng cá mực và mọi loài sò khác tập hợp lại, tất cả đều đã chết; và những vỏ sò đơn độc tìm thấy đã lìa khỏi nhau như chúng ta thấy chúng hàng ngày trên bãi biển.

Và chúng ta phát hiện những con trai tập trung thuộc nhiều chi họ, trong số đó, có thể thấy những vỏ vẫn còn dính khớp, biểu thị rằng chúng bị biển ở lại đó và chúng vẫn còn sống khi eo Gibraltar đã bị cắt qua. Trong vùng núi Parma và Piacenza, vô số vỏ sò và san hô với các lỗ có thể thấy vẫn còn dính vào nham thạch.

Dưới lòng đất và dưới những tầng khai quật sâu từ những mỏ đá là những xà gỗ được phát hiện đã hoá thành than. Chúng được phát hiện trong thời của tôi trong những cuộc đào xới ở Castel Fiorentino. Và những xà gỗ này bị chôn vùi trong những địa điểm sâu trước khi dòng Arno lắng cát trong biển và rồi bao phủ bình nguyên rồi nâng lên tới độ cao như thế, và trước khi bình nguyên Cassentino hạ thấp xuống rất nhiều do sự di dời của mặt đất và dòng Arno không ngừng cuốn trôi đi từ đó...

Đá đỏ của núi Verona được phát hiện thấy toàn bộ pha trộn với vỏ sò đã hoá thành loại đá này; miệng của một số vỏ sò đã bị xi-măng bịt kín vốn là chất liệu của đá; và ở một số bộ phận chúng vẫn giữ tách biệt với khối lượng đá mà chúng bao bọc; bởi vì lớp bọc ngoài của vỏ sò đã xen vào và ngăn trở chúng kết hợp; còn ở những địa điểm khác, loại xi-măng này đã hoá thạch lớp bọc ngoài.

Và nếu bạn có cho rằng những vỏ sò này đã được tạo ra và vẫn còn không ngừng được tạo ra ở những nơi như thế do tính chất địa phương ảnh hưởng và qua thần lực của các tầng trời tại các địa điểm này, lối kiến giải đó không thể nào tồn tại trong những bộ óc nào có năng lực lí tính, bởi vì qua bao năm tăng trưởng được đếm bằng những lớp bọc bên ngoài vỏ sò; và những lớp bọc lớn và nhỏ có thể thấy và chúng hẳn là không thể tăng trưởng mà thiếu thức ăn và không thể nào được nuôi dưỡng mà thiếu vận động, và ở đây, hẳn là chúng không thể vận động.

Và nếu bạn nói rằng chính Hồng thuỷ đã mang những vỏ sò này xa khỏi biển cả hàng trăm dặm, điều này không thể xảy ra vì Hồng thuỷ gây ra bằng mưa; bởi vì mưa dĩ nhiên buộc những dòng sông chảy ra biển và mang theo những vật thể, và chúng cũng không đưa lên núi những vật chết từ bờ biển.

Và nếu bạn nói rằng Hồng thuỷ dâng nước lên trên núi, vận động của nước biển theo hành trình của nó ngược dòng với sông hẳn là chảy rất chậm tới nỗi không thể mang theo, hoặc trôi nổi trên đó những vật thể nặng hơn bản thân nó; và thậm chí nếu có nâng đỡ chúng, thì sau đó khi Hồng thuỷ rút xuống sẽ để lại chúng rải rác khắp nơi khác nhau. Chúng ta phải giải thích thế nào đây với đám san hô thấy hàng ngày về hướng Monferrato ở Lombardy với những lỗ sâu ăn trên chúng, và dính chặt lên những tảng đá do những dòng sông để lại? Những tảng đá này bao phủ toàn bộ những giống và họ hàng của loài trai, như ta biết chúng không di động, mà luôn bám cố định bằng một trong những van của chúng vào đá, và mặt khác, chúng há ra nuôi những vi sinh vật bơi trong nước mong tìm thấy lương thảo, trở thành lương thực cho những loại sò này.

Ở đây, một nghi vấn phát sinh: trận Hồng thuỷ xảy ra trong thời Noah có mang tầm mức toàn thế giới hay không. Và dường như là không, vì những lí do sẽ nêu ra đây: Kinh Thánh nói rằng trận Hồng thuỷ liên tục 40 đêm ngày và mưa lớn khắp thế giới, và trận mưa này dâng cao mười cubit trên cả quả núi cao nhất thế giới. Tuy nhiên, nếu đúng như vậy thì trận mưa có tính toàn thế giới này hẳn là hình thành một lớp bọc quanh hình thể địa cầu. Và bề mặt hình cầu này trong mọi thành phần cách đều trung tâm của khối cầu; và các dòng nước của khối cầu tự tìm thấy điều kiện như đã nói trên thì không thể nào cho nước trên bề mặt di chuyển được; bởi vì nước không di chuyển tự ý trừ phi chảy dốc xuống. Vậy làm sao mà lượng nước lớn của trận hồng thuỷ rút lui được, nếu có chứng minh rằng nó không có năng lực vận động? Và nếu nó rút lui được, nó đi bằng cách nào trừ phi đi lên trên? Vậy ở đây, những lí do tự nhiên không lí giải được với chúng ta; do đó, để giải quyết nghi vấn này chúng ta phải cần tới hoặc là cầu cứu tới một phép lạ, hoặc cách khác, nói rằng nhiệt mặt trời đã làm bốc hơi trận nước này.

(b)               Sông ngòi và địa tầng

Về những tỉ lệ khác nhau của tốc độ dòng chảy từ mặt nước xuống đáy.

Về những độ nghiêng cắt ngang giữa mặt nước và đáy.

Về những dòng chảy khác nhau trên mặt nước.

Về những dòng chảy khác nhau trên mặt lòng sông.

Về những độ sâu khác nhau của sông.

Về những dạng khác nhau của núi bao phủ bởi nước.

Về những dạng khác nhau của núi để lộ ra bởi nước.

Nơi nước chảy xiết dưới đáy mà không ở bên trên.

Nơi nước chảy chậm dưới đáy và chảy xiết ở bên trên.

Nơi nước chảy chậm ở dưới và bên trên và chảy xiết ở giữa.

Nơi nước trong sông tự khoáng trương và nơi nó thu rút. Nơi nó uốn khúc và nơi nó tự duỗi thẳng.

Nơi nó lưu nhập đều trong những nơi trong cả mặt sông và nơi không đều. Nơi nó thấp ở giữa và cao ở hai bên.

Nơi nó cao ở giữa và thấp ở hai bên.

Nơi thuỷ lưu chảy thẳng ở giữa dòng. Nơi thuỷ lưu xoáy, tự phân ra cảc phía khác nhau.

Về những độ nghiêng khác nhau trong những dòng chảy dốc của nước.

Thuỷ lưu là gì?

Thuỷ lưu là sự hợp tụ của những phản xạ dội lại từ bờ sông hướng về trung tâm của nó, trong đó hợp tụ của hai dòng nước dội lại từ hai bờ sông đối diện gặp nhau; và những dòng nước này khi chúng gặp nhau sản sinh ra những đợt sóng lớn nhất của sông, và khi những đợt sóng này rơi trở vào dòng nước thì chúng xâm nhập và đánh xuống lòng sông như thể chúng là chất thể nặng hơn phần còn lại của nước, rồi cọ sát xuống đáy, xới lên, làm tiêu hao, rồi mang theo và chuyển những vật liệu mà chúng đã đánh bật ra. Vì thế, độ nước sâu nhất của một dòng sông thì luôn ở bên dưới dòng thuỷ lưu lớn nhất.

Tôi nhận ra rằng bề mặt địa cầu từ cổ xưa được hoàn toàn đổ đầy và bao phủ lên bằng những tầng bình nguyên nước mặn, núi là xương cốt của địa cầu với nền móng rộng, đã xâm nhập, vượt trội lên không trung, rồi phủ lên và bọc bằng lớp đất rất cao. Tiếp theo, những cơn mưa không ngớt đã khiến cho những dòng sông càng dâng nước lên và bởi việc trôi chảy luôn tái diễn đã lột trần bộ phận những đỉnh cao ngất ngưởng của những quả núi này, vì thế nham thạch tự tìm cách phô bày ra ngoài trời, và đất lìa khỏi những địa điểm này. Và đất từ những sườn và những đỉnh núi cao cũng đã hạ xuống chân núi, và nâng đáy biển vốn bao quanh những chân núi này, và làm cho bình nguyên lộ xuất, và ở một số bộ phận đã đẩy biển ra rất xa.

Trong mỗi hốc lõm trên đỉnh núi chúng ta luôn tìm thấy những phân đoạn địa tầng trong nham thạch.

Trước kia, đại bộ phận thung lũng bị các hồ bao phủ như thế nào, bởi vì thổ nhưỡng của chúng luôn hình thành những bờ sông, và bởi biển, rồi sau đó, qua tác dụng kiên trì của những dòng sông... đã cắt ngang qua núi; và những dòng sông trong dòng chảy lãng đãng đã cuốn trôi những bình nguyên cao bị núi bao vây; và những đường cắt ngang núi hiển thị bằng địa tầng trong nham thạch tương ứng với những vệt cắt tạo ra bởi những dòng chảy của sông đã nói ở trên.

Một dòng sông chảy từ núi đã để lại khối lượng lớn những cự thạch dưới đáy sông, và những cư thạch này vẫn còn bảo lưu một số góc và cạnh; và khi nó tiếp tục dòng chảy thì nó mang theo những khối đá nhỏ hơn với những cạnh và góc bị mòn, và vì thế những khối đá lớn làm thành những khối nhỏ hơn; và cứ thế đầu tiên nó để lại sỏi thô nhám và rồi láng mịn, và như vậy tiếp tục dòng nước đục với cát và sỏi ra tới biển.

Cát lắng đọng lên bờ biển là do sự vỗ lại của sống biển, cho đến khi cát trở nên thanh mịn gần như nước. Và cát sẽ không ở lại trên bờ biển mà về lại với những đợt sóng bởi vì độ nhẹ của nó, bao gồm lá cây mục và những vật thể rất nhẹ khác. Và do đó, như đã nói, gần như mang tính chất của nước, rồi thì, khi thời tiết yên tĩnh, cát rơi xuống và nằm yên dưới đáy biển, và nhờ độ thanh mịn, nó nén lại và đề kháng lại những đợt sóng vượt qua nó vì độ trơn tru của nó; và ở đây ta thấy những vỏ sò; và đây là loại đất trắng thích hợp để làm đồ gốm.

Mọi nguồn nước tuôn ra từ núi rồi chảy ra biển và cuốn theo đá núi trôi ra biển; và do sự dội lại của nước biển vỗ vào núi cho nên những hòn đá này bị trả về núi, và vì những dòng nước hướng ra biển và trả về những hòn đá lật cùng với chúng và trong khi chúng lăn thì những góc của chúng va mạnh vào nhau; còn những bộ phận ít đề kháng thì bị xói mòn bằng những cú va đập nên bị mòn nhẵn, những hòn đá không còn góc cạnh đã trở nên hình tròn, như chúng ta thấy trên bờ biển Elba. Còn những khối đá lớn hơn ở lại vốn ít di chuyển khỏi địa điểm bản địa của nó; còn những khối càng nhỏ thì càng bị mang đi xa hơn khỏi địa điểm đó; vì thế trong quá trình chúng biến thành những viên sỏi nhỏ và rồi thành cát và cuối cùng thành bùn. Sau khi biển đã rút xuống khỏi những quả núi đã nói trên, thì nó để muối đọng lại bằng hơi ẩm khác từ mặt đất kết hợp với sỏi và cát này, do vậy sỏi biến thành đá và cát biến thành đá vôi. Và chúng ta thấy ví dụ này ở Adda, nơi nó xuất hiện từ những quả núi vùng Como và ở Ticino, Adige, Oglio và Adria từ rặng Alps nước Đức, và cũng vậy ở Arno từ Monte Albano gần Monte Lupo và Capraia nơi những tảng đá lớn nhất đều hình thành từ sỏi rắn lại từ những viên đá khác nhau và màu sắc khác nhau.

Điều đầu tiên và thiết yếu nhất là tính ổn định. Giống như với những nền móng gồm những thành phần của đền đài và những công thự, mà những độ sâu của chúng có cùng tương quan với nhau, tuỳ theo trọng lượng đặt trên chúng. Mọi thành phần thuộc độ sâu của đất trong một địa điểm nào đó được kết hợp bằng những tầng, và mỗi tầng được kết hợp bằng những thành phần nặng hơn và nhẹ hơn; tầng thấp nhất là tầng nặng nhất. Và nguyên nhân ở đây là những tầng này được hình thành từ sự trầm tích từ nước thải ra do thuỷ lưu của sông chảy vào nó. Thành phần nặng nhất của lớp trầm tích này là thành phần đã thải ra đầu tiên và cứ thế theo các mức độ: ở đây là tác động của thuỷ lưu khi nó trở nên cố định, mặc dù đầu tiên khi nó di chuyển nó mang theo. Những tầng đất này có thể thấy trên bờ sông mà những dòng chảy liên tục của chúng đã cắt ngang và chia quả đồi này ra khỏi quả đồi khác bằng một kẽm sâu, nơi những dòng nước đã rút lui khỏi đá cuội từ những bờ sông;  và điều này đã khiến chất liệu này trở thành khô cạn và thành đá cứng, đặc biệt là đất bùn thuộc kết cấu mịn nhất như thế.

(c)               Địa trung hải

Mọi sơn cốc đều do những dòng sông hình thành, và tỉ lệ giữa những sơn cốc cùng tỉ lệ giữa sông và sông. Sông lớn nhất trong thế giới chúng ta là sông Địa trung hải, nó chảy từ những nguồn sông Nile tới Đại Tây Dương.

Lòng Địa trung hải, như một biển lục địa, đón nhận những dòng nước chính từ châu Phi, châu Á, và châu Âu chảy về nó; và những dòng thuỷ lưu của nó chảy tới chân những ngọn núi và bao quanh rồi hình thành nên những bờ sông.

Và những đỉnh Apennines dựng đứng trong vùng biển này như những hải đảo bao quanh bởi nước mặn. Cho đến nay Châu Phi cũng chưa như thế, đằng sau rặng Atlas của nó, phơi mở ra mặt đất gồm những bình nguyên rộng lớn lộ thiên trong phạm vi khoảng ba ngàn dặm. Và Memphis dựng trên bở biển của vùng biển này, và ở trên những bình nguyên của Ý, nơi những đàn chim trời đang bay ngày nay, lũ cá vẫn còn bơi trong những vũng lớn.

Về sự tiêu thoát hay bốc hơi của nước Địa trung hải

Địa trung hải, một dòng sông bao la toạ lạc giữa châu Phi, châu Á, và châu Âu, tập hợp trong bản thân nó khoảng 300 dòng sông chính, và ngoài ra, nó tiếp nhận lượng mưa rơi trên nó suốt một không gian ba ngàn dặm. Nó trả về cho đại dương hùng vĩ lượng nước của nó và lượng nước mà nó nhận; nhưng không hồ nghi, nó trả về cho đại dương ít hơn những gì nó nhận; vì từ nó truyền xuống nhiều mạch suối chảy dưới lòng đất và tạo thêm sức sống cho cỗ máy của đất. Như vậy là do bề mặt của Địa trung hải xa trung tâm của thế giới hơn là bề mặt của đại dương... và ngoài ra, hơi nóng mặt trời liên tục làm bốc hơi một bộ phận nước của Địa trung hải, và do đó, lượng biển này có thể tiếp thu nhưng lại ít tăng thêm từ những cơn mưa nói trên.

Thuỷ triều lên xuống không đều ra sao, vì trên bờ biển Genoa không có gì biến động; ở Venice chỉ biến động 2 thước Ý; giữa Anh và Pháp biến động 18 thước Ý. Bằng cách nào dòng thuỷ lưu chảy qua những eo Sicily rất mạnh, bởi vì mọi dòng nước sông qua những eo này, chúng tự chảy vào biển Adriatic.

Dòng Danube hay Donau chảy vào Hắc Hải, vốn trước kia mở rộng gần như tới Áo và bao phủ tất cả bình nguyên nơi Danube chảy qua ngày nay. Bằng chứng cho thấy những con trai và vỏ sò, điệp và xương của những loại cá lớn vẫn còn thấy ở nhiều nơi trong những sườn cao của những quả núi ấy: và biển này đã được thành hình bằng việc đổ đầy những đỉnh núi nhọn của rặng Adula vốn mở rộng tới phía đông, và liên kết những đỉnh răng cưa lởm chởm của rặng Taurus mở rộng tới phía Tây. Và gần Bithynia, những dòng nước của Hắc Hải này rót vào Propontis đổi vào Biển Aegean, đó là Địa trung hải, nơi cuối một thuỷ lưu dài những đỉnh của rặng Adula tách ra khỏi những đỉnh của rặng Taurus; và Hắc Hải chìm xuống và lộ ra khu thung lũng Danube với những tỉnh mang địa danh nêu trên, và toàn bộ vùng Tiểu Á bên kia rặng Taurus về phía bắc, và bình nguyên trải từ Núi Caucasus tới Hắc Hải ở phía tây, và bình nguyên Don phía bên này của dãy Núi Ural, chính là chân của chúng. Như thế, Hắc Hải hẳn là phải chìm thấp xuống khoảng 1,000 thước Ý để lộ xuất những bình nguyên bao la như thế.

Không thể phủ nhận sông Nile luôn bị đục khi đổ vào Biển Ai-cập và bị đục gây ra do đất mà sông này cuốn theo liên tục từ những nơi mà nó đã đi qua; đất không trở lại, và biển cũng không tiếp nhận ngoại trừ nó ném đất lên những bờ biển. Hãy nhìn vào đại dương cát bên kia Núi Atlas, nơi nó đã từng bao phủ bằng nước mặn.

Bằng cách nào sông Po trong một thời gian ngắn lại có thể làm khô cạn Biển Adriatic cùng với cách như nó đã làm khô một bộ phận lớn vùng Lombardy.

  1. NƯỚC VÀ KHÔNG KHÍ

Hãy mô tả những đám mây được thành hình ra sao và chúng tan biến ra sao, và nguyên nhân nào khiến hơi nước từ nước của địa cầu đi vào trong không khí, và những nguyên nhân gây nên sương mù và không khí trở nên dày đặc, và tại sao nó xuất hiện có màu lam đậm hoặc nhạt vào lúc này chứ không phải lúc khác; và cũng miêu tả những vùng không khí, và nguyên nhân gây ra tuyết và mưa đá, nước co lại và thành nước đá, và mô tả về những hình dạng mới mà tuyết kết thành trong không trung, và những hình dạng mới của lá cây ở những xứ lạnh, và trên những đỉnh núi cao đóng băng, sương muối tạo ra những hình dạng thảo mộc kì quái với lá cây đa dạng, sương muối tác động y như thể sương dùng để nuôi và bổ dưỡng cho các loại lá cây ấy.

Nước vận động trong nước, cách tiến hành tương tự không khí trong không khí.

Âm học (acoustics)

Mặc dù các loại âm thanh thâm nhập không khí, nguyên được phát sinh bằng chuyển động vòng tròn, tuy nhiên, những vòng tròn hướng ngoại từ những trung tâm khác nhau mà không có cản trở nào, và chúng thâm nhập và băng qua nhau nhưng vẫn duy trì trung tâm mà chúng nảy sinh.

Bởi trong mọi trường hợp vận động của nước có điểm rất tương tự với không khí, cho nên tôi sẽ dẫn chứng nó làm ví dụ cho mệnh đề nói trên. Tôi cho rằng: nếu bạn đồng thời ném hai viên đá nhỏ vào chỗ hai mặt nước tĩnh vào hai thời gian khác nhau, bạn sẽ quan sát thấy quanh hai điểm chúng chạn vào mặt nước, là hai loạt vòng tròn riêng biệt được hình thành, chúng sẽ gặp nhau khi khuếch đại kích thước và rồi thâm nhập và giao nhau, trong khi vẫn luôn duy trì trung tâm của chúng ở những điểm mà các viên đá đã va chạm. Và lí giải cho tình huống này, tuy hiển nhiên là ở đó cho thấy vận động nào đó, nhưng nước không đời chỗ bởi vì những lỗ hổng tạo ra bởi những viên đá không ngừng khép lại, và chuyển động gây ra bởi những lỗ hổng bất ngờ và việc nước đóng lại tạo nên một loại dao động nhất định mà người ta có thể mô tả như là rúng động thay vì chuyển động. Và điều tôi mô tả có thể rõ ràng hơn với bạn, hãy nhìn những cọng rơm, vì độ nhẹ tênh của chúng nổi trên mặt nước và không di chuyển khỏi vị trí gốc bởi đợt sóng cuộn dưới chúng là khi những vòng tròn này tới. Cái dấu ấn trên mặt nước, vì thế, (mang tính chất) là rúng động hơn là chuyển động, những vòng tròn không thể làm vỡ nhau khi chúng gặp gỡ, và bởi nước vẫn cùng phẩm chất khắp nơi mọi thành phần của nó, và truyền độ rung động từ vòng tròn này sang vòng tròn kia cho nhau mà không đổi chỗ của chúng. Vì nước luôn giữ nguyên vị trí, nó có thể dễ dàng đưa độ rung này từ những thành phần kế cận sang những thành phần kế cận khác, và cường độ của nó suy giảm đều đặn cho đến khi kết thúc.

Hệt như viên đá ném vào mặt nước trở thành trung tâm và nguyên nhân của những vòng tròn khác nhau, sóng âm thanh tạo ra trong không trung lan toả bằng những vòng tròn, vì thế mọi vật thể đặt trong không trung được chiếu sáng tự nó lan đi bằng những vòng tròn và làm đầy những thành phần bao quanh bằng vô số hình tượng của chính nó, và xuất hiện ra toàn thể trong toàn thể và toàn thể trong mỗi phần.

Không khí

Không khí khởi động nhanh hơn so với nước, vì thường khi sóng li khai khỏi địa điểm tạo ra nó mà không thay đổi vị trí; tương tự những đợt sóng khi mà luồng gió tạo ra trên cánh đồng lúa vào tháng Năm, ta nhìn thấy những đợt sóng cuồn cuộn trên cánh đồng không làm cho những bông lúa thay đổi vị trí của chúng.

Các nguyên tố có thể hoá thành nhau, khi không khí hoá thành nước qua việc tiếp xúc với vùng lạnh, điều này tự hấp dẫn mãnh liệt tất cả không khí bao quanh và di chuyển mãnh liệt để làm đầy phạm vi bị bỏ trống do không khi đã thoát ra; và như thế cứ khối lượng này di chuyển tiếp theo một khối lượng khác, cho tới khi chúng được cân bằng một phần cái không gian mà không khí đã phân li, và đấy là gió. Nhưng nếu nước hoá thành không khí, thì lúc đó thoạt đầu không khí chiếm không gian mà trong đó sự gia tăng vừa nói chảy vào cần phải nhường chỗ để tăng tốc độ và xung động tới cho không khí được tạo ra, và đấy là gió.

Mây hoặc hơi nước trong gió được sản sinh bởi nhiệt và nó bị tác động mạnh và bị hơi lạnh xua đuổi, và bị xua đi ở phía trước nó, ở đâu hơi ấm bị trục xuất thì hơi lạnh ở lại. Và bởi mây bị xua không thể lên cao vì hơi lạnh nén nó xuống và cũng không thể hạ xuống vì nhiệt nâng nó lên, vì vậy nó phải theo hướng ngang; và tôi cho rằng nó không tự vận động, vì như đã nói, những năng lực thì đồng đều, chúng hạn chế chất thể này ở giữa chúng một cách đồng đều, và nếu nó có ngẫu nhiên tránh thoát thì nó phân tán và rải rác ở mọi hướng hệt như miếng bọt bể đầy nước bị vắt tới nỗi nước vọt ra ngoài trung tâm miếng bọt bể ra mọi hướng. Do đó, gió bắc cũng vậy, có lúc và đồng thời trở nên nguồn gốc của mọi cơn gió.

Loại gió ấy sẽ có sự vận động ngắn hơi tuy mạnh hơn lúc đầu; và lửa dạy chúng ta khi nó phát ra từ khẩu súng cối, cho thấy hình dạng và tốc độ qua làn khói nhả ra không khí bằng chuyển động ngắn và rải rác. Nhưng độ mạnh từng cơn của gió cho thấy làn bụi tốc lên không trung theo những cách xoắn và cuốn khác nhau. Người ta cũng nhận thấy giữa những dãy núi Alps có sự va chạm của các cơn gió gây ra bởi xung động của nhiều lực khác nhau; người ta thấy những lá cờ trên những chiếc tàu phất phới theo những luồng chảy khác nhau ra; trên mặt biển một bộ phận nước bị va đập mà không phải một bộ phận khác; và cũng điều này xảy ra ở những quảng trường và trên những bãi cát của sông, nơi cát bụi bị quét đi dữ dội ở một bộ phận này mà không phải bộ phận khác. Và bởi vì những hiệu ứng đó cho ta thấy tính chất của nguyên nhân, ta có thể nói với chắc chắn rằng cơn gió nào khởi đầu có xung lực mạnh hơn sẽ có vận động ngắn hơn; và điều này đưa ra bằng thí nghiệm nói trên cho thấy vận động ngắn của làn khói từ miệng súng cối. Và điều này phát sinh từ sự đề kháng mà không khí bị nén lại do chấn động của làn khói này vốn bản thân nó cũng bị nén để mà chống lại gió. Nhưng nếu gió vận động chậm nó sẽ trương rộng ra một khoảng cách rất dài theo một đường thẳng, bởi không khí bị nó thâm nhập sẽ không ngưng tụ phía trước nó và sẽ không cản trở vận động của nó, mà sẵn sàng lan toả luồng của nó trên một không gian rất dài.

  1. ĐẤT, NƯỚC, KHÍ, VÀ LỬA

Ở đây, Leonardo leo lên núi Monte Rosa vào một ngày hè đẹp với bầu trời trên đầu xanh biếc. Khao khát của ông là muốn nhìn kĩ những khu vực thượng tầng ngoài khí quyển – phạm vi của Nguyên tố Lửa. Ông giả định đó là những vùng “bóng tối bao la” còn màu xanh lam của bầu trời là do phản chiếu của ánh sáng từ những hạt nhỏ trong không khí, đã được xác nhận bằng những khảo sát gần đây trong tầng tĩnh khí.

Về màu sắc của khí quyển

Tôi cho rằng màu xanh lam nhìn thấy trong bầu khí quyển không phải là màu tự thân nó mà được tạo nên do độ nhiệt ẩm bốc hơi bằng những nguyên tử rất tinh vi không thể nhận thấy và tia mặt trời khiến chúng phát quang trên nền bóng tối bao la của vùng nguyên tố lửa hình thành một tấm bọc phủ bên trên chúng. Điều này có thể thấy, như chính tôi đã thấy, bởi bất cứ ai leo lên Monte Rosa (Hồng Sơn), một đỉnh thuộc rặng Alps phân đôi Pháp khỏi Ý...

Tại đó, tôi thấy khí quyển âm u ở bên trên đầu và mặt trời khi nó chiếu lên vùng núi này lại chói chang hơn nhiều so với trên bình nguyên phía dưới, do lớp khí quyển mỏng hơn bởi một phạm vi nhỏ hơn giữa đỉnh núi và mặt trời.

Để minh hoạ thêm về màu sắc của khí quyển, ta lấy làn khói từ gỗ khô và cũ, khi nó bốc lên từ ống khói thì một màu xanh lam đậm hơn dễ nhận thấy trên nền trời sẫm. Nhưng khi nó toả lên cao hơn trên nền khí quyển sáng thì lập tức nó biến thành sắc xám tro. Và điều này xả ra bởi vì không còn màn tối bên ngoài nó nữa... nếu làn khói phát sinh từ khúc gỗ tươi thì nó sẽ không có màu xanh lam, bởi vì nó không trong suốt và đã bị tích tụ nhiều hơi ẩm, nó sẽ sinh ra hiệu quả của đám mây dày đặc mang những độ sáng và tối như thể nó là một vật thể rắn. Điều này cũng xảy ra khi một lượng lớn khí quyển nằm giữa mắt nhìn và nguyên tố lửa, sắc độ của màu xanh lam sẽ sâu thẳm hơn; như chúng ta nhìn qua thuỷ tinh xanh lam và qua ngọc phỉ thuý vốn sẫm hơn vì chúng dày hơn về tỉ lệ. Nhưng khí quyển trong những tình huống này như thể tác động chính xác theo cách tương phản, vì ở đâu có một lượng lớn khí quyển nằm giữa mắt và khu nguyên tố lửa, thì nơi đó nó xuất hiện trắng hơn nhiều. Điều này xảy ra về hướng chân trời. Và mức độ khí quyển càng ít giữa mắt và khu nguyên tố lửa thì độ xanh lam xuất hiện càng nhiều, ngay cả khi chúng ta ở những bình nguyên thấp. Vì thế, tôi có thể nói, khí quyển mang màu xanh da trời này là do những hạt hơi nước bắt gặp tia sáng mặt trời.

Hãy chứng minh bề mặt của khí cầu nơi nó tiếp giáp với hoả cầu, và bề mặt của hoả cầu và nơi nó chấm dứt bị ánh thái dương xâm nhập và truyền đi những hình tượng thiên thể, to khi chúng đi lên và nhỏ khi chúng ở kinh tuyến.

Hãy lấy a là địa cầu, và ndm là bề mặt không khí giáp với hoả cầu; hfg là quỹ đạo mặt trời; vậy tôi nói rằng khi mặt trời xuất hiện ở chân trời thì quang tuyến nhìn thấy xuyên qua bề mặt của không khí ở góc nghiêng – om; đây không phải trường hợp ở dk. Và vì thế quang tuyến xuyên qua một khối lượng lớn không khí.

Về nhiệt trong thế giới

Ở đâu có sự sống ở đó có nhiệt, và ở đâu có sinh nhiệt ở đó có vận động của hơi nước. Điều này đã được chứng minh, do đó chúng ta thấy nguyên tố lửa bằng nhiệt lượng của nó luôn luôn thu hút về nó tới làn hơi ẩm và sương mù dày, chẳng hạn như những đám mây mờ đục mà nhiệt bốc lên từ biển cũng như hồ, sông và thung lũng ẩm thấp; khí nóng này thu hút theo những cấp độ tới tận vùng lạnh, bộ phận đầu ngưng lại, bởi vì nhiệt và ẩm không thể tồn tại cùng với lạnh và khô; và ở đâu bộ phận đầu tiên ngưng, phần còn lại ổn định, và như vậy hết bộ phận này đến bộ phận khác được bổ sung, những đám mây dày và tối được hình thành.

Mây thường lướt nhẹ và được gió mang đi từ vùng này tới vùng khác, ở đâu ngưng tụ, chúng trở nên rất nặng đến nỗi rơi xuống thành cơn mưa lớn; và nếu nhiệt của mặt trời tăng cường lực của nguyên tố lửa, thì những đám mây bị kéo lên cao hơn và tìm một cấp độ lạnh nhiều hơn, từ đó chúng hình thành băng đá và rơi xuống thành những trận bão đá. Có khi cùng loại nhiệt nâng lên một trọng lượng nước rất lớn mưa xuống từ những đám mây, kéo chúng từ dưới lên trên, từ dưới chân những quả núi, và dẫn đưa và tích giữ chúng trên những đỉnh núi, và chúng tìm những kẽ núi, liên tục thoát ra và tạo nên những dòng sông.

Giống như nước chảy ra theo những lối khác nhau từ miếng bọt bể bị vắt, hoặc không khí thoát ra từ cặp ống bễ, cũng vậy với những đám mây mỏng trong suốt bị xua lên cao qua phản chiếu do nhiệt gây ra; một bộ phận tự tìm thấy ở vị trí cao nhất vươn tới vùng lạnh trước tiên và tạm nghỉ ở đó bởi nó gặp độ lạnh và khô, chờ đồng hành của nó. Bộ phận ở dưới bốc lên tới bộ phận đứng yên xử lí với lớp không khí ở giữa như thể nó là chiếc ống hút, và rồi bộ phận này thoát ra theo kiểu giao nhau và hướng xuống; nó không thể hướng lên bởi nó gặp đám mây dày tới nỗi không thể xâm nhập.

Vì lí do đó, mọi cơn gió đánh lên mặt đất đều giáng xuống từ bên trên, và khi chúng đánh lên mặt đất đang cản lại thì chúng phát sinh một loại vận động cuộng lại, khi nó cố gắng trỗi dậy để  gặp cơn gió đang giáng xuống, vì thế việc lên cao để phá vỡ trật tự tự nhiên bị kìm hãm, và nó phải đi hướng ngang và tiếp tục theo đuổi dòng mãnh liệt không ngớt sượt qua mặt đất.

Khi những cơn gió nói trên đánh lên những dòng nước biển, thì hướng gió có thể thấy rõ theo góc độ được hình thành do những tuyến tới (incidence) và cuộn lại (recoil); và từ những thứ này dẫn đến những đợt sóng nhô lên, đe doạ và nhận chìm, đợt này là nguyên nhân của đợt khác.

Như hơi ấm tự nhiên lan toả khắp chi thể con người bị đẩy lùi bởi khí lạnh bao quanh, vốn là đối nghịch và là kẻ thù của nó, chảy về lại cái hồ của quả tim, và lá gan tự nó củng cố lại, làm cho những thứ này trở nên thành trì và tự vệ, cũng vậy, những đám mây được tạo nên bằng hơi ấm và độ ẩm, và vào mùa hè có hơi nước khô nhất định, tự chúng tìm tới vùng lạnh và khô, tác động theo cách bông hoa và lá khi bị tấn công bởi sương muối lạnh thì nén hơi lạnh lại và tăng lực đề kháng.

Vì thế, những đám mây ấm này thoạt đầu tiếp xúc với khí lạnh, chúng bắt đầu đề kháng và không muốn vượt xa hơn; những đám mây khác ở dưới tiếp tục lên cao; bộ phận ở trên dừng lại tiếp tục dày đặc; hơi ấm và độ khô thoái lui về trung tâm; bộ phận ở trên bị hơi ấm bỏ rơi bắt đầu đông lại hoặc đúng hơn là tan dần; những đám mây bên dưới tiếp tục lên cao và nén hơi ấm tới gần vùng lạnh; và như vậy hơi ấm bị kiềm hãm trở về với nguyên tố cơ bản của nó bất ngờ chuyển thành lửa và tự chạy ngoằn ngoèo khắp vùng hơi nước khô, và trong trung tâm của mây càng lúc càng tăng cường, và thắp nhóm lên trong đám mây vốn đã trở nên mát lạnh, nó tạo nên tiếng ầm ì tương tự như tiếng nước sùng sục trong chiếc bình đun sôi hoặc dầu, hoặc tiếng của đồng bị nấu chảy khi nhúng vào nước lạnh; dù vậy, bị đẩy ra bởi phía đối ngịch, nhưng nó phá tan đám mây chống đỡ cho nó và và lao đi khắp không trung để phá và huỷ mọi thứ nào chống lại nó; đấy là sét.

Ở đâu lửa không thể cháy thì không động vật hít thở nào có thể sống được

Phần đáy của ngọn lửa là khởi điểm của ngọn lửa và qua nó tiêu đi tất cả những dưỡng chất dầu mỡ; và nó ít độ nóng hơn phần còn lại của ngọn lửa, cũng như ít độ sáng hơn; còn sắc lam của ngọn lửa, chính ở đây dưỡng chất của nó được tống xuất và tiêu hao. Bộ phận kia có ánh lửa sáng hơn, nhưng đây là khởi đầu khi ngọn lửa xuất hiện và nó sinh ra trong hình cầu, rồi sau đó, nó sản sinh bên trên hình cầu một ngọn lửa rất nhỏ có màu sắc sáng rực và hình dạng như quả tim, với điểm nhọn hướng lên trời; và ngọn lửa này tiếp tục nhân lên tới vô tận bằng việc hấp thu chất nuôi dưỡng nó.

Ngọn lửa màu lam được tạo thành dạng hình cầu... và không tự tạo thành một hình kim tự tháp cho tới khi nó làm ấm đủ không khí bao quanh; và nhiệt chủ yếu của ngọn lửa xanh lam này hướng lên theo xu hướng di chuyển tự nhiên của ngọn lửa, cũng là lộ trình ngắn nhất tới hoả cầu.

Màu của ngọn lửa lam không di động. Dưỡng chất để nuôi ngọn lửa này bằng cây nến bản thân không di động. Do đó, sự vận động tất phải phát sinh do những nguyên nhân khác. Cái phát sinh ra sự không di động này là không khí, nó ùa tới làm đầy khoảng chân không tạo ra do không khí bị tiêu hao bởi ngọn lửa trước đây. Ánh sáng sinh ra khoảng chân không, rồi không khí ùa tới cứu trợ cho khoảng chân không này.

  1. TIỂU VŨ TRỤ VÀ ĐẠI VŨ TRỤ

Những thế giới hữu cơ và vô cơ cả hai đều mang tính chất tương tự và chịu cùng những quy luật tự nhiên. Con người là một bộ phận của một thế giới, là một tiểu vũ trụ nằm trong một đại vũ trụ.

Phần mở đầu luận về nước

Con người đã từng được người xưa gọi là một tiểu vũ trụ, danh xưng này quả rất thích hợp. Xét rằng, nếu con người được kết hợp bằng đất, nước, khí, và lửa, thì cơ thể của địa cầu cũng tương tự. Trong khi nội bộ con người có xương cốt làm giá đỡ và khung sườn của thịt, thế giới có nham thạch để chống đỡ đất. Trong khi nội bộ con người có một kho máu trong đó có phổi khi kẻ ấy hô hấp nở ra hoặc co vào, cũng thế, cơ thể của đất có đại dương cũng dâng lên và rút xuống cứ mỗi sáu giờ cùng hô hấp của thế giới; cũng như từ cái kho máu nảy sinh các huyết mạch và toả các nhánh khắp nhân thể, cũng thế, đại dương đổ đầy cơ thể của đất với vô số mạch nước.

Tuy nhiên, trong cơ thể của đất thiếu những dây thần kinh, và những thứ này vắng bởi dây thần kinh được tạo ra cho mục đích vận động; và vì thế giới thường xuyên bình ổn, ở đây không có sự vận động xảy ra, cho nên không cần thiết có dây thần kinh. Nhưng trong mọi thứ khác thì con người và đất rất tương tự.

Giải thích về sự hiện diện nước trên những đỉnh núi 

Tôi cho rằng, giống như nhiệt tự nhiên của máu trong những huyết mạch lưu giữ nhiệt trong đầu người, và khi con người chết thì máu lạnh chìm xuống những bộ phận phía dưới, còn khi mặt trời làm ấm đầu người thì lượng máu trong đó gia tăng và tăng trưởng rất nhanh cùng với những dịch thể (humour) khác, chính do áp lực trong huyết quản nên nó thường xuyên gây nên những chứng đau đầu; cũng tương tự như vậy với những dòng suối rẽ nhánh đi khắp cơ thể địa cầu, và bởi nhiệt tự nhiên lan khắp cơ thể hàm chứa, cho nên nước ở lại trong những dòng suối trên đỉnh núi cao. Và nước chảy qua một thuỷ đạo phong kín bên trong cơ thể của núi như một vật chết không ra khỏi trạng thái dưới nhiệt thấp, bởi nó không được sưởi ấm bởi sinh nhiệt của dòng suối đầu tiên. Hơn nữa, nhiệt của nguyên tố lửa và ban ngày là nhiệt mặt trời có năng lực kích hoạt sự ẩm ướt của những vùng thấp và kéo chúng lên đỉnh núi giống như kéo những đám mây và triệu tập độ ẩm từ lòng biển.

Cùng nguyên nhân làm lưu động những dịch thể trong mọi loại sinh thể đi ngược với luật tự nhiên về hấp lực, nó cũng thúc đẩy nước chảy qua những mạch của đất mà nó phong kín trong đó và phân phối nước qua những thông đạo nhỏ. Và như máu dâng lên từ phía dưới và trút qua những mạch gẫy trên trán, như nước đưa lên từ bộ phận thấp nhất của dây nho lên các nhánh đã bị cắt, cũng thế từ độ sâu nhất của biển, nước dâng lên tới những đỉnh núi, ở đó, nó tìm những đợt sóng bị vỡ, trào ra và quay về đáy biển. Như vậy, sự vận động của nước bên trong và bên ngoài luân phiên thay đổi, khi thì buộc phải dâng lên, khi thì đổ xuống tự do theo tự nhiên. Như vậy khi liên hoàn với nhau, nó đi vòng vòng và liên tục xoay quanh, đi tới đi lui lúc bên trên bên dưới, chẳng bao giờ nằm yên, hoặc trong dòng chảy của nó hoặc trong bản tính của nó. Bản thân nó không có gì nhưng lại nắm giữ mọi thứ, thay đổi thành nhiều tính chất khác nhau tuỳ những địa phương khác nhau trong dòng chảy của nó, tác động y như chiếc gương phản chiếu nhiều hình tượng tuỳ vào có bao nhiêu vật thể qua trước mặt nó. Vì thế nó liên lục biến đổi, khi thì về vị trí, khi thì về màu sắc, khi thì hấp thu những mùi mới hoặc vị mới, khi thì nó bảo lưu những thể chất hoặc phẩm chất mới, khi thì nó mang sự chết chóc, khi sự khoẻ mạnh, đôi khi nó vào không khí hoặc tự đẩy lên cao do nhiệt, và khi vươn tới vùng lạnh, nhiệt đưa nó lên bị ép bởi khí lạnh. Và như bàn tay ép vào miếng bọt bể dưới nước thì nước chảy ra tràn vào dòng nước khác, vì thế, khí lạnh nén không khí trộn lẫn vào với nước, khiến cho nó thoát ra mãnh liệt và xua đẩy lớp không khí khác; vậy đây là nguyên nhân của gió.

Thật là niềm thán phục cao độ đối với những ai quan sát nước tự trỗi lên từ độ sâu nhất của biển lên tới những đỉnh núi cao nhất rồi rót xuống qua những mạch đứt rồi trở về với biển sâu và lại trỗi lên nhanh chóng và lại hạ xuống, và cứ như thế, toàn bộ nguyên tố này tuần hoàn. Cứ từ cao xuống thấp, cứ chảy vào chảy ra, khi thì vận động tự nhiên, còn khi vận động ngẫu nhiên thì nó tương tập và kết hợp. Cho nên, vòng thay đổi theo sự tuần hoàn liên tục theo cách truyền nước của cây nho khi nó rót nước qua những nhánh bị cắt rồi lại rơi xuống trên gốc rễ của nó, và lại dâng qua những thông đạo rồi lại rơi trở lại trong vòng tuần hoàn liên tục.

Nước gặp không khí qua những mạch đứt của những đỉnh núi cao, đột nhiên bị bỏ rơi bởi lực đem nó tới, và rồi thoát li khỏi những lực này và bắt đầu lại quá trình tự nhiên của nó trong tự do.

Cũng vậy, nước trỗi lên từ rễ thấp của cây nho tới phần ngọn cao rồi rớt lên qua những nhánh bị cắt rớt xuống rễ rồi lại dâng lên chỗ mà từ đó nó rớt.

  1. MỘT TINH THẦN GIỮA NHỮNG NGUYÊN TỐ:

NHỮNG GIỚI HẠN CỦA NÓ

Về tinh thần

Chúng ta đã nói, định nghĩa về tinh thần là một năng lực kết hợp với thân thể, bởi tự thân nó không thể nào lên cao hoặc làm bất cứ loại vận động nào trong không gian, và nếu bạn nói rằng tự nó có thể lên cao, mà điều này không thể tồn tại trong những nguyên tố. Vì nếu tinh thần là một lượng vô hình thể, thì lượng này được gọi là một chân không được phát sinh, và chân không này không tồn tại trong tự nhiên; giả định rằng chân không đó được tạo thành, lập tức nó ắt bị đổ đầy do sự ập vào của nguyên tố trong chân không đã phát sinh đó. Do đó, bằng định nghĩa về trọng lượng, nói rằng trọng lực là một năng lực ngẫu nhiên, được tạo nên do một nguyên tố hấp dẫn hoặc ép đẩy hướng tới một nguyên tố khác, thì nó đi theo bất cứ nguyên tố nào không có trọng lượng trong một nguyên tố hấp thu trọng lượng bởi việc đi vào nguyên tố ở trên nó, và nhẹ hơn bản thân nó. Chúng ta thấy rằng một bộ phận của nước không có trọng lực hoặc khinh lực (levity) khi nhập vào bộ phận của nước khác, nhưng sẽ hấp thu trọng lượng nếu bị kéo lên không khí; và nếu bạn kéo không khí xuống phía dưới nước, nước tự thấy mình nằm trên vùng không khí này hấp thu trọng lượng, mà trọng lượng nó không thể tự chống đỡ, và vì thế sự sụp đổ của nó là không thể tránh khỏi; và nó sẽ rơi xuống nước ở địa điểm có chân không. Cũng giống như vậy tất xảy ra với một tinh thần nếu nó ở giữa những nguyên tố nơi nó liên tục phát sinh một chân không trong bất kể nguyên tố nào, nó thấy mình trong đó và vì lí do này hẳn nó sẽ liên tục bay hướng tới bầu trời cho tới khi nó rời bỏ những nguyên tố đó.

Tinh thần có thân thể giữa những nguyên tố hay không

Chúng ta đã chứng minh một tinh thần không thể tự tồn tại giữa những nguyên tố mà không có thân thể, nó cũng không thể tự vận động tuỳ ý trừ phi trỗi lên cao. Giờ chúng ta cho rằng một tinh thần khoác lấy một thân thể bằng không khí tất yếu phải hỗn hợp vào không khí này; bởi nếu nó vẫn giữ đơn nhất thì với không khí nó sẽ phân li và rơi xuống khi chân không phát sinh, như đã nói trên; do đó, thật cần thiết nếu nó có khả năng duy trì trạng thái lơ lửng trong không trung, và nó sẽ phải hấp thu một lượng không khí nhất định; và nếu nó có hỗn hợp với không khí, hai khó khăn theo sau, nó sẽ làm hiếm phần không khí mà nó hỗn hợp với, và vì lí do này không khí bị hiếm đó sẽ bay lên trên tự ý và sẽ không ở lại giữa không khí vốn nặng hơn bản thân nó; và, hơn nữa, khi tinh yếu này lan rộng, nó trở nên ngăn cách và tính chất của nó biến đổi và vì thế nó đánh mất một số năng lực ban đầu. Thêm vào đó, còn có khó khăn thứ ba, đó là thể khí lấy ra khỏi tinh thần thì bị phơi ra trước những đợt gió xâm nhập và không ngừng tách ra và xé lẻ những bộ phận kết hợp của không khí, xoay và cuốn chúng giữa lớp khí kia; do đó, tinh thần bị thấm nhuần trong không khí này bị chặt hoặc bị xé và bị phá bằng thứ không khí mà nó bị thâu nhập.

Tinh thần mang thể khí có thể tự vận động hay không

Tinh thần thấm nhuần vào một lượng không khí nhất định thì sẽ có một năng lực di động khí này; điều này đã chứng minh ở trên khi nói rằng tinh thần làm thưa thớt một phần không khí mà nó nhập vào; vì thế, khí ấy sẽ trỗi bên trên khí kia, và sự vận động này sẽ được khí tạo ra qua độ nhẹ của nó, mà không phải qua vận động tuỳ ý của tinh thần, và nếu khí này gặp gió, [căn cứ vào lí do] ở phần luận thứ 3 ở trên, thì khí sẽ di động bởi gió mà không bởi tinh thần khuếch tán vào trong đó.

Tinh thần có thể nói hay không

Nếu muốn chứng minh tinh thần có thể nói hay không, điều cần thiết trước tiên là định nghĩa tiếng nói là gì, và nó phát sinh ra sao; vậy ta sẽ mô tả như sau: tiếng nói là sự vận động của không khí ma sát vào một vật thể đậm đặc, hoặc một vật thể đậm đặc ma sát vào khí – đều tương tự; và sự ma sát với thể hiếm ngưng tụ với thể hiếm và gây nên đề kháng; hơn nữa, thể hiếm khi di động mau, và thể hiếm di động chậm thì ngưng tụ nhau khi tiếp xúc, và tạo nên tiếng ồn hoặc tiếng động lớn; và tiếng nói hoặc tiếng thì thầm gây ra do thể hiếm này đi qua một độ loãng khác với tốc độ vừa phải thì giống như một ngọn lửa lớn tạo ra tiếng ồn trong không khí. Còn tiếng gầm lớn nhất do thể hiếm tạo ra với một thể hiếm khác khi một thể hiếm di chuyển mau xâm nhập vào thể hiếm khác bất động; ví dụ như ngọn lửa phát sinh từ khẩu súng lớn đột kích vào không khí; cũng vậy, như ngọn lửa phát sinh từ đám mây đập vào không khí, và vì thế tạo ra sét.

Vì thế, ta có thể nói rằng không có vận động của không khí thì tinh thần không thể sản sinh ra tiếng nói, trong tinh thần không có tiếng nói nào và nó không thể bật ra những gì mà nó không có; và nếu nó muốn di động không khí mà nó khuếch tán, thì tinh thần cần thiết phải tự nhân lên, và nó không thể nhân lên mà không có số lượng. Và như trong phần thứ tư đã nói, thể hiếm không thể di động được trừ phi nó có một điểm cố định để từ đó sinh ra vận động; hơn thế nữa, trong trường hợp của một nguyên tố vận động bên trong nguyên tố của nó, mà tự bản thân không vận động, ngoại trừ bằng sự bốc hơi đều tại trung tâm của vật được bốc hơi: như xảy ra với miếng bọt bể bị vắt trong bàn tay bóp dưới nước; nước thoát ra khỏi nó ra mọi hướng với vận động đều nhau qua những khoảng hở giữa những ngón tay của bàn tay vắt ép.

Tinh thần có phát ra tiếng nói hay không, và có thể nghe được tinh thần hay không, và nghe và thấy gì, và sóng âm thanh qua không khí ra sao và những hình ảnh vật thể đi qua mắt ra sao.

Không có tiếng nói nếu không có vận động hoặc chấn động trong không khí; không có chấn động của không khí nếu không có khí cụ; không có khí cụ nào mà không có thân thể; hiển nhiên, một tinh thần có thể không có tiếng nói, hoặc thân thể, hoặc sức mạnh; và nếu như nó mang lấy một thân thể thì nó không thể nhập được vào cửa đã đóng. Và nếu có ai nói rằng qua không khí tụ lại và nén lại, một tinh thần có thể mang những thân thể của những hình dạng khác nhau, và nhờ đó nó có thể lên tiếng và di chuyển bằng lực – tôi xin đáp lại kẻ ấy rằng ở đâu không có dây thần kinh hoặc xương cốt thì ở đó không thể có những tinh thần đảm đương sức thi triển trong bất cứ vận động nào tạo ra do những tinh thần tưởng tượng.

  1. VÒM TRỜI

Theo những truyền thống cổ đại được chấp nhận phổ quát trong thời đại Leonardo, địa cầu với những nguyên tố của nó được bao kín và vây quanh bởi cõi trời với những thiên thể vừa không nặng, không nhẹ, vừa không bị huỷ hoại. Nhìn xa ngoài hiện tượng của địa cầu này, Leonardo đã gắng áp dụng những phương pháp quan sát và diễn dịch vòm trời. Ông thiết dựng một loại loại đài quan sát bằng cách lắp đặt một khí cụ quang học dưới cửa sổ trời của mái nhà của mình và khảo sát về tính chất của mặt trăng.

Những hồ nghi nảy sinh trong đầu ông về hệ thống theo Ptolemy. Mặt trời có xoay quanh địa cầu không? Trên một trang bút kí toán học, ông đã viết bằng những con chữ lớn: “Mặt trời không chuyển động”.

Để nhìn thấy tính chất của những hành tinh, hãy mở mái cửa sổ trời, và ghi nhận một hành tinh đơn độc ở mặt đáy: sự vận động phản chiếu lên mặt đáy này sẽ cho thấy tính chất của hành tinh này; nhưng sắp đặt sao cho mặt đáy chỉ phản chiếu chỉ một lần mỗi thời điểm.

Hãy kiến tạo những kính [phóng đại] để nhìn thấy mặt trăng được to hơn.

Có thể tìm những phương tiện nhờ đó mắt thường không nhìn thấy những vật thể ở xa sẽ được thu nhỏ lại nhiều như chúng ở trong phối cảnh tự nhiên, ở đó chúng thu nhỏ bởi vì độ lồi của mắt cần thiết giao nhau tại bề mặt những hình chóp của mỗi hình ảnh truyền tới mắt giữa những góc vuông hình cầu. Nhưng phương pháp mà tôi cho thấy ở đây cắt những hình chóp này ở những góc vuông gần bề mặt của đồng tử. Đồng tử lồi của mắt thu vào vào toàn bộ cảnh tượng bán cầu của chúng ta trong khi điều này cho thấy chỉ một ngôi sao; nhưng ở đâu nhiều ngôi sao nhỏ truyền hình ảnh của chúng tới bề mặt đồng tử thì những ngôi sao sẽ cực nhỏ; ở đây, chỉ một ngôi sao được thấy nhưng nó sẽ lớn. Cũng thế, mặt trăng sẽ lớn hơn và những vết đốm của nó càng nổi bật. Bạn thử đặt một li thuỷ tinh đầy nước gần con mắt... nước làm cho vật thể ngưng kết trong những khối cầu thuỷ tinh kết tinh xuất hiện như thể không có thuỷ tinh.

Về con mắt. Những vật thể nhỏ kém hơn đồng tử nếu ở gần nhất thì con mắt sẽ ít nhận ra nhất. Từ kinh nghiệm này chúng ta biết rằng thị lực không bị giảm thành một điểm... Thế nhưng, những hình ảnh vật thể truyền tới đồng tử được phân phối trên đồng tử này hệt như chúng được phân phối trong không trung: bằng chứng cho thấy là khi chúng ta nhìn vào bầu trời đầy sao mà không nhìn cố định hơn vào một ngôi sao nào; vậy thì bầu trời xuất hiện tất cả với muôn sao tản mác; và lỉ lệ của chúng trong con mắt tương tự như trong bầu trời, và cũng tương tự như vậy với các khoảng cách giữa chúng.

Về mặt trăng

Mặt trăng tự thân không có sáng, nhưng chỉ phần nào mặt trời nhìn thấy thì chiếu sáng. Phần chiếu sáng đó mà ta chỉ thấy khi nó quay về ta. Và đêm của nó nhận được đúng số ánh sáng mà nước trên trái đất gửi cho nó khi nước này phản chiếu trên mặt trăng hình ảnh của mặt trời, và được chiếu gương trên tất cả những nước đối diện với mặt trời và mặt trăng.

Bề mặt của nước, của mặt trăng và của trái đất chúng ta luôn luôn rập rờn ít hoặc nhiều, và độ gồ ghề này là nguyên nhân cho sự khoáng đại ra vô số hình tượng của mặt trời phản chiếu lên đồi núi và thung lũng, biên duyên và ngọn sóng; trong những điểm sáng khác nhau trên mỗi đợt sóng cũng nhiều như có những con mắt nhìn từ những vị trí khác nhau. Điều này không thể nào xảy ra nếu thuỷ cầu với đại bộ phận bao phủ mặt trăng đều có hình cầu một cách đồng bộ, và như vậy ở đó sẽ có một hình ảnh của mặt trời cho mỗi con mắt, và những phản chiếu của nó sẽ rõ rệt và sự toả sáng của nó luôn mang hình cầu như cho thấy rõ ràng trong những quả cầu mạ vàng đặt trên chóp những toà nhà cao. Nhưng nếu những quả kim cầu đều gồ ghề hoặc được tạo bằng những viên nhỏ như quả dâu tằm vốn là loại trái cây màu đen lại gồm nhiều hạt tròn nhỏ, vậy thì mỗi bộ phận của những hạt tròn nhỏ này đều thấy được qua mặt trời và với mắt sẽ phô bày với mắt sự lấp lánh sản sinh do sự phản chiếu của mặt trời. Như thế, trong một vật thể duy nhất sẽ có nhiều mặt trời li ti; và thường thì những mặt trời này sẽ hỗn hợp ở khoảng cách xa và liên tục xuất hiện.

Không vật sáng nào tồn tại gồm những vật thể ít sáng hơn. Mặt trăng có vị trí trong những nguyên tố của nó hay không. Và nếu mặt trăng không có vị trí đặc biệt như địa cầu giữa những nguyên tố, bằng cách nào nó lại không rơi vào chính giữa những nguyên tố của chúng ta? Không vật nhẹ nào tồn tại giữa những vật nhẹ hơn. Và nếu nó nhẹ hơn mọi nguyên tố khác thì tại sao nó đặc và không trong suốt?

Chứng minh địa cầu là một tinh cầu

Trong thuyết trình của bạn, bạn phải chứng minh rằng địa cầu là một tinh cầu rất giống với mặt trăng, và sự huy hoàng của vũ trụ; sau đó, bạn phải trình bày kích thước của các tinh cầu theo các tác giả.

Mặt trời không chuyển động.[1]

Mặt trời có chất thể, hình dạng, vận động, toả sáng, nhiệt, và nguyên động lực (generative power): những phẩm chất này tất cả đều phát xạ từ nó mà không suy giảm.

Mặt trời không hề thấy bất kì bóng tối nào.

Tán dương mặt trời 

Nếu bạn nhìn vào những tinh cầu không tia sáng (như khi nhìn vào chúng qua một cái lỗ nhỏ đục bằng mũi kim cực nhỏ và và đặt sao cho  hầu như áp sát mắt), bạn sẽ nhìn thấy những tinh tú này rất nhỏ gần như thể không gì nhỏ hơn được nữa; thực sự thì cự li thật xa là nguyên nhân cho sự thu nhỏ của chúng, vì nhiều tinh cầu trong số chúng lớn hơn gấp nhiều lần cái tinh cầu vốn là địa cầu với nước. Vậy thử nghĩ xem, cái tinh cầu này của chúng ta gần như ở một cự li vô cùng xa là gì, và rồi thử xem có bao nhiêu tinh cầu có thể đặt vào kinh độ và vĩ độ giữa những tinh cầu này và rải rác khắp bóng tối mênh mang này. Tôi có thể chẳng làm gì khác hơn là khiển trách nhiều người trong số những người xưa khi họ cho rằng mặt trời không lớn hơn vẻ bên ngoài của nó; trong số họ là Epicurus; và tôi tin rằng ông lí giải như vậy là từ những hiệu quả của một nguồn sáng đặt trong tầng khí quyển của chúng ta có cự li đều từ trung tâm; bất cứ ai thấy nó, không bao giờ thấy nó suy giảm kích thước ở bất cứ cự li nào... nhưng ước gì tôi có ngôn từ dùng để khiển trách những ai hân hoan tán tụng việc sùng bái con người hơn cả việc sùng bái mặt trời; vì trong toàn vũ trụ, tôi không thấy một thực thể nào có kích cỡ lớn hơn và mạnh hơn thực thể này, còn ánh sáng của nó thắp sáng mọi thiên thể phân phối khắp vũ trụ. Mọi hoạt lực bắt nguồn từ nó bởi nhiệt trong những tạo vật phát sinh từ linh hồn (tia sáng đời sống); và cũng không có nhiệt hay ánh sáng nào khác trong vũ trụ... Và chắc chắn những ai đã chọn sùng bái những nhân vật như những thần linh, chẳng hạn Mộc tinh, Thổ tinh, Hoả tinh, và những thứ tương tự, phạm một sai lầm rất lớn, bởi ngay cả nếu một kẻ dù có to lớn như địa cầu, y hẳn là có vẻ giống như một trong những thứ nhỏ nhất của những tinh cầu, có vẻ chỉ là một cái đốm trong vũ trụ; huống chi những kẻ ấy đều phải chết và và phải chịu huỷ hoại và thối rữa trong những nấm mồ.

[Tác phẩm] Spera và Marullo cùng những người khác đều tán dương mặt trời.[2]


 

[1] Một phát biểu tương tự của Galilei hơn một trăm năm sau đã bị kết án là dị giáo

[2] Tác phẩm Spera của tác giả Goro Dati, Florence, 1482, những dòng 16-22 ca tụng mặt trời.  Còn tụng ca mặt trời của Marullus được phát hành trong Hymni et epigrammata của M. Tarcaniota, Florence, 1487.