Người phụ trách Văn Việt:

Trịnh Y Thư

Web:

vanviet.info

Blog:

vandoanviet.blogspot.com

Danh ngôn

Trong mọi cộng đồng, chúng ta cần một nhóm thiên thần gây rối.

We need, in every community, a group of angelic troublemakers.

(Bayard Rustin – trích bài phát biểu tại New York City 1963)

Trong mọi trường hợp, chắc chắn rằng sự thiếu hiểu biết, đi kèm với quyền lực, là kẻ thù tàn bạo nhất có thể có của công lý.

It is certain, in any case, that ignorance, allied with power, is the most ferocious enemy justice can have.

(James Baldwin - No Name in the Street 1972)

Các cuộc cách mạng và các cá nhân có thể bị giết hại, nhưng bạn không thể giết chết các ý tưởng.

While revolutionaries and individuals can be murdered, you cannot kill ideas.

(Thomas Sankara, một tuần trước khi bị ám sát, 1987)

Không có cảm giác nào cô đơn hơn việc bị chính đất nước mình trục xuất.

There's not a more lonely feeling than to be banished by my own country.

(Kiyo Sato – Kiyo’s Story 2009)

Ban Biên tập

Địa chỉ liên lạc:

1. Thơ

tho.vanviet.vd@gmail.com

2. Văn

vanviet.van14@gmail.com

3. Nghiên cứu Phê Bình

vanviet.ncpb@gmail.com

4. Vấn đề hôm nay

vanviet.vdhn1@gmail.com

5. Thư bạn đọc

vanviet.tbd14@gmail.com

6. Tư liệu

vanviet.tulieu@gmail.com

7. Văn học Miền Nam 54-75

vanhocmiennam5475@gmail.com

Tra cứu theo tên tác giả

Thứ Sáu, 25 tháng 7, 2025

“Tư tưởng Phật giáo – Một giới thiệu toàn diện về truyền thống Ấn Độ” – cuốn sách lý tưởng để khám phá triết học Phật giáo

 Dương Thắng

1. Một trong những ý kiến phổ biến về Phật giáo mà chúng ta thường nghe thấy đó là khẳng định rằng việc giác ngộ về Phật giáo không liên quan gì đến lý thuyết, khái niệm, lập luận hay thảo luận… Nhưng chỉ cần tiến hành những khám phá đơn giản về lịch sử và quá trình tiến hóa của Phật giáo là có thể thấy ngay rằng những ý kiến kiểu như vậy là rất không xác đáng và gây mất phương hướng.

Chắc chắn rằng trong truyền thống Phật giáo, việc thực hành thiền là điều cần thiết, và cũng chắc chắn rằng nhiều bậc cao tăngđã nhấn mạnh đến thực tế người tu hành không nhất thiết phải là một trí thức mới có thể đạt được sự giải thoát. Nhưng cũng không có lý do gì để kết luận rằng trong suốt chiều dài lịch sử của Phật giáo, chưa bao giờ xuất hiện những nhu cầu cần phải làm rõ các khái niệm nền tảng, chỉ ra những sự khác biệt và giải quyết các xung đột của những cách giải thích và phát triển lý thuyết khác nhau.

Trong thực tế, lượng tri thức khổng lồ được tích lũy cho đến nay của truyền thống Phật giáo đã chứng tỏ cái nguồn gốc vĩ đại và cái nhu cầu to lớn của việc phân tích các triết lý Phật giáo. Do đó, việc xuất bản một cuốn sách bàn về những tư tưởng triết học được hàm chứa trong các truyền thống Phật giáo lớn hiện nay là một vấn đề nghiêm túc và thực sự cần thiết. Về vấn đề này, cần nhấn mạnh rằng các trường phái triết học Phật giáo là hoàn toàn khác biệt với các trường phái tôn giáo khác, dẫu rằng trong một số khía cạnh chúng có liên quan chặt chẽ với nhau.

2. Các tác giả của cuốn “Tư tưởng Phật giáo – Một giới thiệu toàn diện về truyền thống Ấn Độ”*: Paul Williams, Anthony Tribe và Alexander Wynne là ba nhà nghiên cứu, những chuyên gia hàng đầu về Phật học hiện nay, thường được nhiều trường đại học lớn trên thế giới mời thỉnh giảng về chủ đề này. Cuốn sách này là tác phẩm dễ hiểu và đáng tin cậy cho bất kỳ độc giả nào muốn tiếp cận với những quan điểm cơ bản của tư tưởng tôn giáo và triết học Phật giáo cũng như muốn cập nhật các kết quả nghiên cứu mới nhất trong lĩnh vực này. Người đọc sẽ được tiếp cận với một bức tranh toàn cảnh trong đó nổi bật là hành trình phát triển của những khái niệm chính yếu của Phật giáo Ấn Độ từ thời Đức Phật cho đến tận ngày hôm nay. Với một văn phong khúc chiết, mạch lạc và lôi cuốn, các ý tưởng trừu tượng và phức tạp đã trở nên dễ hiểu hơn, đặc biệt là những khái niệm liên quan đến Phật giáo Đại thừa và Mật tông, những chủ đề thường vắng bóng hoặc nếu có thì cũng chỉ được trình bày một cách hết sức mơ hồ trong các cuốn sách khác cùng thể loại.

3. Cuốn sách này tập trung vào giai đoạn đầu tiên của tư tưởng Phật giáo: nguồn gốc và sự phát triển của nó ở Ấn Độ cổ đại. Đây là là một khảo sát toàn diện về tư tưởng Phật giáo Ấn Độ với sự phân phối nội dung cân bằng giữa Phật giáo Ấn Độ căn bản, sơ khai và chính thống. Việc hiểu rõ về con đường phát triển của Phật giáo ở Ấn Độ hiển nhiên là điều kiện tiên quyết để có thể nhận thức chính xác về quan điểm Phật giáo ở những nơi khác như Tây Tạng, Trung Quốc, Nhật Bản, Việt Nam và các quốc gia Đông Nam Á khác.

Một điều thú vị ở đây mà chúng ta khó có thể tìm thấy trong các tài liệu cùng loại, đó là những thành tựu nghiên cứu mới nhất về Phật giáo Ấn Độ đã được các tác giả nhanh chóng cập nhật. Đây là một trong những điểm nhấn quan trọng và mang ý nghĩa to lớn, bởi vì những quan điểm và những hình dung về nguồn gốc cũng như các hoạt động của Phật giáo ở Ấn Độ trong thời kỳ 100 năm sau khi ra đời đã có những thay đổi đáng kể trong những thập kỷ gần đây. Những gì đã diễn ra trong thời kỳ này dường như không hề là đồng nhất và mang sắc thái đa chiều hơn nhiều so với những gì mà trước kia mọi người (kể cả giới học thuật) thường tin tưởng, và đương nhiên chúng cũng sẽ cần tiếp tục được nghiên cứu sâu sắc hơn.

Để đáp ứng cho những gì mà người ta thường mong đợi ở một tác phẩm thuộc loại này, các tác giả đã cấu trúc nội dung dựa theo hai tiêu chí của những tài liệu giáo khoa: đi từ những khái niệm cơ bản nhất đến phức tạp nhất và đi từ các giai đoạn lịch sử sớm nhất cho đến tận giai đoạn lịch sử cận và hiện đại. Tuy nhiên, theo ý kiến đánh giá cá nhân của người viết bài, cấu trúc tổng thể của tập sách này dường như sẽ là hợp lý hơn nếu thay vì phân tách thì các tác giả nên gắn kết các chương 1 (lập trường giáo lý của Đức Phật), chương 2 (Phật giáo chính thống: Tư tưởng căn bản của Đức Phật) và chương 4 (Một số trường phái tư tưởng của Phật giáo chính thống) lại với nhau để tạo thành cái hạt nhân cốt lõi của chủ đề và các phần tiếp sau đó chỉ nên xem như những bước phát triển theo nhiều hướng khác nhau của cái hạt nhân cốt lõi trước đó.

4. Chương đầu tiên tập trung vào việc nói về sự xuất hiện của Phật giáo Ấn Độ trong bối cảnh lịch sử của nó: Phật giáo xuất hiện trong một thời kỳ khi mà các hoạt động tôn giáo bị cho phối bởi tôn giáo nghi lễ của Bà La Môn hoặc bởi các Sa môn, những người chọn con đường xuất gia để tu hành. Ngay từ khi mới ra đời, Phật giáo đã tự tạo ra một cấu trúc “siêu tôn giáo”, để cùng song song tồn tại với các tôn giáo khác, nhưng Phật giáo hướng đến mục tiêu “cao cả” hơn các tôn giáo khác: thoát khỏi “bể khổ” của cuộc sống con người. Chương 1 cũng dành để bàn về các văn bản được coi là các kinh điển của Phật giáo nguyên thủy và các quan điểm mang tính học thuật khác nhau về độ chính xác của những văn bản này.

5. Chương 2 dành để giới thiệu các khái niệm cơ bản của Phật giáo nguyên thủy: tứ diệu đế, khổ đế, duyên khởi, nghiệp, vũ trụ quan và thiền định. Chương 4 trình bày về một số trường phái tư tưởng đáng chú ý nhất gắn bó với các đặc trưng cơ bản nguyên thủy của truyền thống Phật giáo. Đó là Sarvāstivāda (Nhất thiết hữu bộ) với giáo lý căn bản của cho rằng “tất cả đều hiện hữu”. Sarvāstivāda cũng đề cập tới sáu nhân (hetu) và bốn duyên (pratyaya) và cho rằng “nhân có thể xuất hiện đồng thời, thậm chí là sau quả”. Sautrāntika (Kinh lượng bộ), dùng để chỉ những người coi kinh điển là “chân lượng” chứ không phải những bộ luận. Vì thế Sautrāntikathực chất biểu thị một lập trường trong những thảo luận về giáo lý cao siêu, ví dụ như thái độ hoài nghi rằng Vi Diệu Pháp là lời của Đức Phật, một lập trường đối lập với những người cố gắng bảo vệ các diễn ngôn. Theravāda (Thượng tọa bộ) đã được truyền bá rộng rãi ở Sri Lanka và Đông Nam Á, tự coi mình là nhánh truyền bá chân thực và bảo vệ Phật giáo nguyên thủy của Đức Phật mạnh mẽ nhất. Tâm hữu phần là giáo lý chính của Theravāda, nó cho rằng tâm vẫn hiện diện với cấp độ nào đó kể cả khi không hoạt động. Pudgalavāda (Trụ tử bộ) được coi là một giáo lý về con người, có vẻ mâu thuẫn với quan điểm chung của Phật giáo về vô ngã và đã bị các trường phái Phật giáo khác cực lực phản đối. Mahāsaṃghika (Đại chúng bộ) được biết đến nhiều nhất với giáo lý về “bản chất siêu phàm của Đức Phật”.

6. Chương 3 thảo luận ngắn gọn về nguồn gốc của Đại thừa, một chủ đề cũng tiếp tục xuất hiện trong chương 5 và 6. Như các tác giả đã nhấn mạnh, việc phân tách thành Đại thừa và Tiểu thừa (những gì không phải Đại thừa) không phải là một vấn đề ly giáo như người ta thường quan niệm mà chỉ là sự khác biệt về quan điểm và động lực khi đi theo con đường Phật giáo. Chương 5 dành cho việc xem xét các ý tưởng chính của tư tưởng Đại thừa - Bát nhã la mật hay sự hoàn hảo của trí tuệ, Tánh Không và con đường cứu độ chúng sinh đang đau khổ của các Bồ tát, một hành động mang tính “pháp quy” trong giáo lý Đại Thừa. Madhyamaka (Trung Quán Tông), với người sáng lập là đại sư Long Thọ, đã xem rằng Tánh Không có tính chất tuyệt đối (vô tự tính) vì thế mọi sự vật chỉ là những cấu trúc mang tính thuần túy khái niệm. Nói một cách khác, mọi thứ tồn tại đều bắt nguồn từ tâm trí.

7. Chương thứ sáu dành cho việc trình bày các khái niệm mở rộng mà trên đó các hình ảnh về các vị Phật trong Đại thừa sơ kỳ đã được xây dựng: giáo lý về phương tiện thiện xảo, học thuyết về các thân thể (kāya) của Đức Phật, những tín ngưỡng thờ cúng Phật và bồ tát của Đại thừa Ấn Độ. Cuối cùng, chương 7 là một trình bày tổng quan về Phật giáo Mật Tông (Kim cương thừa), một hình thức Phật giáo nhấn mạnh đến các loại thực hành nghi lễ và thiền đặc biệt. Chương này bắt đầu với phần trình bày chung về các yếu tố cơ bản của Mật tông: tính mật truyền, tầm quan trọng của các bậc đạo sư, việc sử dụng phép thuật… Mật điển Đại Du già (xuất hiện vào cuối thể kỷ thứ 8 sau CN), bao gồm 37 văn bản, nhấn mạnh đến việc sử dụng tình dục và nghi thức, sử dụng các thứ bất tịnh và chất cấm. Người nam hay nữ trong hành động kết hợp tình dục đều mang giá trị tượng trưng, nữ tượng trưng cho trí tuệ, nam tương trưng cho phương cách từ bi. Sự kết hợp của họ tương trưng cho sự kết hợp của trí tuệ và phương tiện, hai khía cạnh song hành của nhận thức giác ngộ.

8. Nhìn chung, điều cần nhấn mạnh là “Tư tưởng Phật giáo – Một giới thiệu toàn diện về truyền thống Ấn Độ” cần được đón nhận như một tài liệu nhập môn, được thiết kế dành cho những ai muốn khởi đầu hành trình nghiên cứu Phật học. Và quả thực đây là điểm xuất phát rất tốt cho bất kỳ ai quan tâm đến việc khám phá chủ đề này. Các tác giả, với kinh nghiệm giảng dạy nhiều năm về Phật giáo tại các trường đại học lớn đã đưa vào phần cuối sách một thư mục toàn diện rất có ích cho các bạn sinh viên cũng như các nhà nghiên cứu: các nguồn kinh điển, một bản tóm tắt ngắn gọn cho mỗi chương, những cách hướng dẫn phát âm tiếng Phạn và tiếng Pali (những ngôn ngữ kinh điển của Phật giáo Ấn Độ), bảng chú giải các thuật ngữ Phật giáo và bản đồ các địa điểm quan trọng nhất ở Ấn Độ Phật giáo.

9. Là một tài liệu mang tính giáo khoa nhiều hơn là chuyên khảo, các tác giả đã cố gắng không áp đặt các quan điểm cá nhân của mình vào trong cuốn sách. Thay vào đó, cả ba tác giả đều hào hứng trình bày các vấn đề hiện đang được thảo luận sôi nổi trong lĩnh vực nghiên cứu Phật giáo, thông qua đó đã vẽ nên một bức tranh toàn cảnh các quan điểm khác nhau liên quan đến từng vấn đề. Nhưng đặc điểm của việc nghiên cứu học thuật về Phật giáo ngày nay (cũng giống như các nghiên cứu khác) là các cuộc tranh luận sôi nổi và sự đa dạng về quan điểm. Đây cũng là lý do tại sao các tác giả đã yêu cầu người đọc phải tiếp cận văn bản với tinh thần phê phán: khám phá cuốn sách, tập trung vào những điểm thú vị nhất và xem thêm về những quan điểm trái chiều trong những tài liệu khác là điều được khuyến khích. Chỉ khi nào cuốn sách được tiếp cận với thái độ phê phán và cởi mở, nó mới có thể trở thành một tài liệu thực sự hữu ích cho những người đọc muốn hiểu biết sâu sắc hơn về hệ thống tư tưởng Phật giáo, một kho tàng văn hóa quý giá của nhân loại, quý giá cả trên bình diện tư tưởng cũng như trên khía cạnh thực hành sống tốt, sống đẹp và sống có ý nghĩa.

* Paul Williams, Anthony Tribe, Alexander Wynne. “Tư tưởng Phật giáo – Một giới thiệu toàn diện về truyền thống Ấn Độ”, Diệu Như dịch. Tuệ Thảo, Như Hiếu, Thiện Chánh hiệu đính. NXB Thế Giới và Cty Sách Omega Việt Nam. Hà Nội, 2024.