Người phụ trách Văn Việt:

Trịnh Y Thư

Web:

vanviet.info

Blog:

vandoanviet.blogspot.com

Danh ngôn

Trong mọi cộng đồng, chúng ta cần một nhóm thiên thần gây rối.

We need, in every community, a group of angelic troublemakers.

(Bayard Rustin – trích bài phát biểu tại New York City 1963)

Trong mọi trường hợp, chắc chắn rằng sự thiếu hiểu biết, đi kèm với quyền lực, là kẻ thù tàn bạo nhất có thể có của công lý.

It is certain, in any case, that ignorance, allied with power, is the most ferocious enemy justice can have.

(James Baldwin - No Name in the Street 1972)

Các cuộc cách mạng và các cá nhân có thể bị giết hại, nhưng bạn không thể giết chết các ý tưởng.

While revolutionaries and individuals can be murdered, you cannot kill ideas.

(Thomas Sankara, một tuần trước khi bị ám sát, 1987)

Không có cảm giác nào cô đơn hơn việc bị chính đất nước mình trục xuất.

There's not a more lonely feeling than to be banished by my own country.

(Kiyo Sato – Kiyo’s Story 2009)

Ban Biên tập

Địa chỉ liên lạc:

1. Thơ

tho.vanviet.vd@gmail.com

2. Văn

vanviet.van14@gmail.com

3. Nghiên cứu Phê Bình

vanviet.ncpb@gmail.com

4. Vấn đề hôm nay

vanviet.vdhn1@gmail.com

5. Thư bạn đọc

vanviet.tbd14@gmail.com

6. Tư liệu

vanviet.tulieu@gmail.com

7. Văn học Miền Nam 54-75

vanhocmiennam5475@gmail.com

Tra cứu theo tên tác giả

Thứ Sáu, 27 tháng 6, 2025

Một tóm tắt về các chế độ hậu Cộng sản (kỳ 6)

Tác gi: Magyar Bálint – Madlovics Bálint

Bản tiếng Việt: Nguyễn Quang A

Nhà xuất bản Dân Khí – 2025

  1. QUYỀN LỰC HÀNH PHÁP ĐƯỢC PHÂN CHIA VÀ HỆ THỐNG BẦU CỬ TỶ LỆ là các cơ chế phòng thủ trong các nền dân chủ bảo trợ, duy trì sự cạnh tranh của các mạng lưới bảo trợ. Trong các hệ thống dân chủ tự do, các xu hướng chuyên quyền hay sự nổi lên của một nhà dân túy, kẻ thách thức bảo trợ là một sự dị thường. Trong các nền dân chủ bảo trợ, sự thách thức bảo trợ là tiêu chuẩn. Các cấu trúc cứng đầu của thời trước-cộng sản và cộng sản đã thịnh vượng trong thời đại hậu-cộng sản, đặc biệt trong các nước mang theo một di sản bảo trợ mạnh (Mệnh đề 10). Các mạng lưới bảo trợ cạnh tranh xuất hiện với các nhà tài phiệt và các nhà chính phiệt bước vào sân chơi chính trị dưới chiêu bài của các đảng của nhà bảo trợ. Điều này tạo ra cái chúng ta gọi là một mạng lưới bảo trợ nhiều-kim tự tháp, nơi sự cạnh tranh đảng là vẻ bề ngoài của sự cạnh tranh của các mạng lưới bảo trợ.

Vì mỗi mạng lưới nhắm tới việc phá vỡ hệ thống dân chủ, và việc thiết lập một mạng lưới bảo có trợ chỉ một-kim tự tháp, sự sống sót của nền dân chủ bảo trợ phụ thuộc vào sự khó khăn để đạt sự độc quyền về quyền lực chính trị. Đây là điểm nơi môi trường thể chế chính thức là quan trọng, cho dù các đấu thủ chính là các mạng lưới bảo trợ phi-chính thức (Bảng 22). Trong một hệ thống thổng thống hoàn toàn, chức tổng thống tập trung quyền lực hành pháp trong tay của một diễn viên duy nhất, và không có các chức vụ mạnh tương tự trong chế độ về mặt quyền lực chính trị. Ngược lại, trong các hệ thống hành pháp-được phân chia nơi cả tổng thống và thủ tướng đều có những quyền lực hành pháp và họ được bàu trong các cuộc bầu cử khác nhau, sự chung sống là có thể: hai chức vụ hành pháp có thể được các nhà bảo trợ từ các mạng lưới bảo trợ khác nhau lấp đầy.

Sự chung sống đưa ra nhiều khả năng thể chế hơn cho các mạng lưới bảo trợ cạnh tranh để kiểm soát nhau, ngược với chế độ tổng thống thuần túy. Ngoài ra, như Hale giải thích, các hệ thống như vậy không có một tác động báo hiệu rõ ràng: trong một hệ thống tổng thống, là rõ ràng rằng mạng lưới bảo trợ của tổng thống là mạng lưới thống trị, và các diễn viên xã hội bắt đầu phối hợp xung quanh nó; trong một hệ thống hành pháp được phân chia, câu hỏi về sự thống trị vẫn chưa được trả lời. Không ngẫu nhiên rằng khi một mạng lưới bảo trợ phấn đấu cho một vai trò thống trị trong một chế độ được đặc trưng bởi quyền lực hành pháp được phân chia như vậy nó thường cố gắng để chuyển sang một hệ thống tổng thống thuần túy. Và tương tự, khi những cố gắng như vậy thất bại, các mạng lưới bảo trợ khác chiến đấu cho việc đưa lại quyền lực hành pháp được phân chia vào. Các sự kiện đã diễn ra giống thế này ở các nước Chính thống giáo-Đông phương như Ukraina, Moldova, và Rumania.

Bảng 22: Hiến pháp chính thức và chủ nghĩa bảo trợ ở các nước hậu-cộng sản kể từ giữa-các năm 1990 (được sửa từ Patronal Politics -Chính trị bảo trợ của Henry E. Hale).

Mức độ của Chủ nghĩa bảo trợ

Kiểu Quyền lực hành pháp

Chủ nghĩa Tổng thống

Hành pháp phân chia

Chủ nghĩa đại nghị

 

 

Cao

Azerbaijan*, Belarus*, Gruzia*, Kazakhstan*, Kyrgyzstan (cho đến 2010*), Moldova (cho đến 2000*), Nga*, Tajikistan*, Turkmenistan*, Ukraina* (1991-2006; 2010-2014), Uzbekistan*

Armenia*, Ukraina (2006-10*; 2014-*), Kyrgyzstan (2010-*), Moldova (2016-*), Rumania*

Albania, Bulgaria*, Hungary (2010), North Macedonia*, Moldova (2000-2016)

 

Vừa phải

 

 

Estonia, Hungary (1998-2010), Latvia, Lithuania*, Serbia*, Slovakia*

 

Thấp

 

 

Croatia (until 2000*), Ba Lan*

Croatia (2001-*), Cộng hòa Czech (2012-*), Hungary (cho đến 1998), Slovenia*

* Các nước có các cuộc bầu cử tổng thống trực tiếp.

Mặt khác, trong các nền dân chủ bảo trợ với một hiến pháp đại nghị, sự đạt độc quyền về quyền lực chính trị có thể được ngăn chặn bởi một hệ thống bầu cử tỷ lệ. Vì nó làm cho việc đạt siêu đa số là hết sức không chắc, hay ít nhất khó hơn các hệ thống đa số (thường). Một số nền dân chủ bảo trợ vẫn ổn định chủ yếu bởi vì một ràng buộc thể chế. Ví dụ, một hành pháp được phân chia đã là một ràng buộc hữu hiệu ở Bulgaria, nơi nền dân chủ bảo trợ thịnh hành và không mạng lưới có chỉ một-kim tự tháp nào được thiết lập. Còn trong các chế độ đại nghị của Albania và Slovakia các hệ thống bầu cử tỷ lệ đã là quan trọng trong việc ngăn chặn và phá vỡ các mưu toan chuyên quyền. Các hệ thống bầu cử tỷ lệ cũng đóng góp cho sự ổn định của các chế độ bán-tổng thống như Rumania, nơi các quyền lực của tổng thống đã bị đối trọng bởi quyền lực của quốc hội được bàu theo tỷ lệ.

70. CÁC CÁCH MẠNG MÀU là các cơ chế phòng thủ trong các nền dân chủ bảo trợ, khôi phục sự cạnh tranh của các mạng lưới bảo trợ (và không thiết lập nền dân chủ tự do). Cái được gọi là các cuộc cách mạng màu ở vùng hậu-cộng sản không phải là các cách mạng cổ điển. Vì các cách mạng cổ điển xảy ra ở phương Tây trong các thế kỷ thứ 18-19 đã chống lại các hệ thống phong kiến, nơi các quốc vương dựa vào tính chính danh thiêng liêng, và cách mạng dự định thay đổi hình mẫu này của tính chính danh sang hình mẫu khác, của tính chính danh dân sự. “Các cuộc cách mạng hợp pháp” thay đổi các chế độ ở Trung Âu trong 1989 đã đạt được sự thay thế yên bình của tính chính danh thực chất-duy lý của đảng nhà nước bằng tính chính danh luật định-duy lý của một hệ thống dân chủ. Ngược lại, các cách mạng màu không muốn chuyển từ một hình mẫu tính chính danh cố kết sang hình mẫu khác mà nhắm tới việc bảo tồn hình mẫu tính chính danh cố kết, ban đầu của nền dân chủ bằng việc lật đổ một nhà chuyên quyền thối nát.

Với tư cách như vậy, các cuộc cách mạng màu ở các nước như Armenia, Kyrgyzstan, và Ukraina đã là một nguồn lạc quan trong các giới Tây phương. Việc đặt các sự kiện lên trục nền dân chủ-chế độ độc tài, một cuộc náo loạn dân chúng thay thế một hệ thống áp bức đã có nghĩa là một bước hướng tới cực dân chủ, hay một nền dân chủ tự do kiểu Tây phương đối với họ. Nhưng các cách mạng màu hiếm khi mang lại các kết quả kỳ vọng; đúng hơn, chúng thường có nghĩa là một sự quay lại với các vấn đề hàng ngày của nền dân chủ bảo trợ. Quả thực, các cách mạng màu là một cơ chế phòng thủ: một sự phòng thủ xã hội để phá vỡ các mưu toan chuyên quyền và đẩy chế độ quay lại cân bằng động của các mạng lưới bảo trợ cạnh tranh.

Quá trình điển hình của các cách mạng màu thành công đi theo các bước sau đây: (1) mạng lưới bảo trợ cai trị tạo ra một sự đổ vỡ của quá trình thảo luận cân nhắc công khai, thường là gian lận bầu cử, để củng cố vị trí của nó; (2) sự đổ vỡ kích các cuộc biểu tình quần chúng nghi vấn tính chính danh, nhắm tới việc bầu cử lại hay tới việc công nhận thắng lợi của đối lập (và sự từ chức của chính phủ hiện hành); (3) các cuộc biểu tình nghi vấn-tính chính danh được ủng hộ của các diễn viên bên ngoài như các NGO, các quỹ, các chính phủ nước ngoài hay các liên minh quốc tế; (4) cả sự ủng hộ chính thức và phi-chính thức của chính phủ tan biến trong trong đấu trường chính trị trong nước và quốc tế, cho đến khi dư địa thao tác của chúng co lại đến điểm mà chúng không thể hoạt động và các nhà lãnh đạo của chúng buộc phải thỏa mãn các đòi hỏi của các nhà cách mạng.

Lý do vì sao các cách mạng này không dẫn đến nền dân chủ tự do là, chúng không đi cùng với những sự biến đổi chống-bảo trợ. Mặc dù các phong trào cách mạng diễu hành dưới những khẩu hiệu dân chủ, minh bạch, và chống-tham nhũng, đằng sau cố gắng dân chủ của quần chúng người ta tìm thấy, như lực lượng tổ chức và nguồn lực chính trị cũng như tài chính, sự bất mãn của các mạng lưới bảo trợ bị đàn áp. Là đúng rằng, không có sự bất bình dân chúng bắt nguồn từ một sự tan vỡ của thảo luận cân nhắc công khai, các mạng lưới bảo trợ ít có khả năng hơn để chống lại các xu hướng chuyên quyền. Nhưng điều ngược lại cũng đúng: không có các nguồn lực của các mạng lưới bảo trợ cạnh tranh, thì sự bất bình công chúng không thể chặn kẻ chuyên quyền cai trị khỏi việc phá vỡ nền dân chủ, “công bằng,” (bảo trợ) cạnh tranh.

  1.    SỰ CỦNG CỐ CHUYÊN QUYỀN là một cơ chế phòng thủ trong các chếđộ chuyên quyền bảo trợ, bảo vệ mạng lưới bảo trợ có chỉ một-kim tự tháp chống lại các áp lực từ bên ngoài. Chuyển sang các cơ chế phòng thủ của các chế độ chuyên quyền bảo trợ, chúng ta có thể bắt đầu với các cơ chế bảo vệ chống lại các áp lực từ bên ngoài gia tộc chính trị nhận con nuôi. “Bên ngoài” nhắc đến không chỉ các cú sốc ngoại sinh như chiến tranh hay khủng hoảng kinh tế mà cả các áp lực đối lập như các khối bầu cử và các cách mạng màu. Trong một số trường hợp, như Armenia, nhà bảo trợ chóp bu đạt một sự đột phá chuyên quyền thành công và thiết lập một hệ thống có chỉ một-kim tự tháp, nhưng cuối cùng ông đã bị lật đổ bởi vì ông không có khả năng đạt được sự củng cố chuyên quyền. Cho sự củng cố chuyên quyền, sự tự trị của xã hội dân sự phải được vô hiệu hóa: không có điều này, chế độ vẫn dễ bị tổn thương, bởi vì các sự tự trị vẫn tồn tại có thể được dùng để hình thành một đối lập hữu hiệu.

Sự tự trị quan trọng nhất để phá vỡ là sự tự trị của media, mà giải thích vì sao một sự đàn áp thẳng tay báo chí, dùng quyền lực chính thức của nhà nước và các diễn viên được kết nối phi-chính thức, là giữa các hành động đầu tiên của một nhà bảo trợ chóp bu đối với xã hội dân sự. Thứ hai, sự tự trị của các doanh nhân cần bị phá vỡ: nhà bảo trợ chóp bu có thể khiến các doanh nhân quan tâm đến sự duy trì hệ thống bằng việc biến họ thành những người được bảo trợ, trong khi các doanh nhân và các nhà tài phiệt có thiên hướng-đối lập có thể bị tước đoạt mất các nguồn lực tài chính của họ hoặc thay vào đó bị buộc phải chuyển tiền bạc và tài sản cho gia tộc chính trị nhận con nuôi. Thứ ba, việc vô hiệu hóa các NGO và việc khởi động các GONGO là quan trọng cả để bớt sự kiểm soát watchdog và cho các mục đích tuyên truyền, và nó được làm bằng phương pháp luận thuần hóa được giải thích ở trên (Mệnh đề 50). Cuối cùng, sự tự trị của các công dân bị phá vỡ en masse (hàng loạt) qua sự bảo trợ hóa xã hội (Mệnh đề 94). Dùng bộ ba lên tiếng-rời đi-lòng trung thành (voice-exit-loyalty) của Albert O. Hirschman, chúng ta có thể nói rằng các chế độ chuyên quyền bảo trợ cố gắng để biến sự lên tiếng tiềm năng thành lòng trung thành ép buộc, trong khi cũng để cho mọi người rời khỏi chế độ (mà thực sự đóng góp cho sự ổn định bằng “sự lưu đày tự nguyện” của những người bất mãn).

Cuối cùng, hệ thống được củng cố được duy trì bởi sự dùng tùy ý các công cụ của thẩm quyền công cộng, vô hiệu hóa thảo luận cân nhắc công khai bằng các phương tiện như sau: (1) sự tạo ra một lĩnh vực truyền thông được thuần hóa, vô hiệu hóa đối lập trong pha thảo luận; (2) sự không-cân bằng của các quyền và một hệ thống đảng-thống trị, vô hiệu hóa các hiệp hội và phong trào đối lập; (3) tổ chức các chiến dịch xây dựng lòng trung thành và các cuộc bầu cử bị thao túng, chuyển lựa chọn tự do của các cử tri thành lựa chọn không-tự do; (4) tạo ra luật công cụ và các lex được may đo tấn công các nhân vật đối lập trong các lĩnh vực chính trị, kinh tế và cộng đồng như nhau; và (5) dùng sự thực thi pháp luật chọn lọc về chính trị để chống lại các đối thủ và ủng hộ gia tộc chính trị nhận con nuôi. Điều này tóm tắt một nền chuyên quyền bảo trợ có thể bảo vệ mình thế nào khỏi các áp lực từ bên ngoài, mà không có khủng bố hàng loạt hay sự loại bỏ de jure chủ nghĩa đa nguyên trong chính trị.

72. SỰ TÁCH BIỆT CÁC NGUỒN LỰC QUYỀN UY là một cơ chế phòng thủ trong các chế độ chuyên quyền bảo trợ, bảo vệ nhà bảo trợ chóp bu chống lại các đe dọa từ bên trong. Bên trong gia tộc chính trị nhận con nuôi, sự cạnh tranh của các thành viên cấp cao không phá vỡ cho đến khi nó không là một thách thức với nhà bảo trợ chóp bu mà chỉ liên quan đến sự phân phối các đặc quyền giữa các thành viên tương ứng. Qủa thực, sự cạnh tranh được sắp đặt và được kiểm soát dưới mức lãnh đạo cấp cao có thể đóng góp cho sự ổn định, và nó có thể được bản thân nhà bảo trợ chóp bu khuyến khích. Nhưng nhà bảo trợ chóp bu phải có khả năng đánh lui những kẻ muốn thay thế ông.

Những sự trừng phạt tùy ý, hay cùng kho vũ khí của thẩm quyền công cộng mà được dùng chống lại các áp lực bên ngoài có thể được dùng chống lại các diễn viên không trung thành; hơn nữa, những người được bảo trợ phải kỳ vọng rằng nhà bảo trợ chóp bu không chỉ sẵn sàng mà còn có khả năng trừng phạt sự bất trung, mà có nghĩa là ông ta phải tàn nhẫn và để không sự bất trung nào không bị trừng phạt. Tuy vậy, cũng có các biện pháp phòng ngừa chống lại sự nổi lên của một đối lập nội bộ hữu hiệu.

Trong khi nhà bảo trợ chóp bu loại bỏ sự tách biệt của các nhánh quyền lực bên trong nhà nước, ông tách biệt các nguồn lực quyền uy bên trong gia tộc chính trị nhận con nuôi. Đây là biện pháp phòng ngừa quan trọng nhất của sự ổn định: nhà bảo trợ chóp bu không cho phép bất cứ ai trừ bản thân ông quyết định về các loại nguồn lực chính trị và kinh tế cần để thách thức ông và/hoặc để xây dựng một mạng lưới bảo trợ tự trị một cách độc lập (Bảng 23).

Các nhà chính phiệt bên dưới nhà bảo trợ chóp bu trong kim tự tháp bảo trợ, trong khi có quyền uy kinh tế phi-chính thức nào đó, có thể giữ hoặc quyền lực hành pháp hay nền tảng đảng. Trong các đảng dân chủ, các vai trò này thường không tách ra: những người trong hành pháp cũng là các thành viên quan trọng của đảng của họ; họ có thể nói lên ý kiến phê phán của họ; hay thậm chí hành động chống lại lãnh tụ đảng nếu họ không đồng ý với ông ta. Tuy vậy, một đảng dây curoa là một đảng của các chư hầu chính xác bởi vì các cơ chế dân chủ trong đảng bị loại bỏ (Mệnh đề 58). Các nhà chính phiệt với nền tảng đảng thực hiện các vai trò như chức vụ giám đốc đảng hay lãnh đạo phe phái, nhưng một cách điển hình lý tưởng họ không tham gia vào việc ra quyết định hành pháp. Các nhà tài phiệt trong một mạng lưới bảo trợ có một kim tự tháp duy nhất cũng là “đơn-thân [single-profile]”: theo nghĩa rằng trong khi họ có quyền lực chính trị ngầm (hành pháp hay đảng), họ không thể đồng thời có quyền lực kinh tế và media mức quốc gia. Cuối cùng, những kẻ bù nhìn chính trị và kinh tế không có quyền lực de facto nào: họ có các chức vụ chính thức, nhưng họ không thể thực hiện các quyền lực được trao cho chúng một cách tự chủ (Mệnh đề 16, 19).

Sự tách biệt các nguyền lực quyền uy cũng có nghĩa rằng các diễn viên với các nguồn lực khác nhau không thể hình thành các liên minh phi-chính thức phớt lờ hệ thứ bậc bảo trợ. Nếu các mưu toan như vậy được tiến hành, nhà bảo trợ chóp bu có thể được kỳ vọng để can thiệp, ngăn chặn sự hình thành của một trung tâm quyền lực thay thế bên trong gia tộc chính trị nhận con nuôi.

Bảng 23: Sự tách biệt lý tưởng điển hình của các nguồn lực quyền uy bên trong gia tộc chính trị nhận con nuôi.

 

Quyền lực hành pháp

Quyền lực đảng (nền tảng đảng)

Quyền lực kinh tế mức quốc gia

Quyền lực media mức quốc gia

Nh. bảo trợ chóp bu

+

+

+

+

Nhà chính phiệt (1)

+

+

Nhà chính phiệt (2)

+

+

Nhà tài phiệt (1)

+

+

Nhà tài phiệt (2)

+

+

Bù nhìn chính trị

Bù nhìn kinh tế

Ghi chú: “+”: diễn viên có quyền lực, “-“: diễn viên không có quyền lực; “+ -“: diễn viên có quyền lực nhưng chỉ một cách hạn chế.

  1. CÁC CHẾ ĐỘ CHUYÊN QUYỀN BẢO TRỢ ĐỐI MẶT VẤN ĐỀ KẾ VỊ, mà có tiềm năng cách mạng lớn cho các đối thủ của nhà bảo trợ chóp bu. Trong khi các nhà bảo trợ chóp bu củng cố vị trí của họ mãi mãi, họ không phải là bất tử. Ngay cả nếu chế độ được bảo vệ chống lại các mối đe dọa từ bên ngoài và bên trong, nhà bảo trợ chóp bu cuối cùng về hưu, chết, hay mặt khác trở nên bất lực để thực hiện chức vụ của mình. Điều này đặt ra vấn đề kế vị nếu chế độ muốn sống sót.

Vấn đề bắt nguồn chính xác từ bản chất của hệ thống: rằng nhà bảo trợ chóp bu đã tập trung mọi quyền lực và đàn áp thẳng tay các mạng lưới bảo trợ cạnh tranh. Trong một hệ thống có chỉ một-kim tự tháp, vị trí của nhà bảo trợ chóp bu mang một sự tập trung quyền lực chính trị độc đáo mà các nhà bảo trợ-phụ không thể sánh nổi. Như một kết quả, là không hiển nhiên ai nên đến sau nhà bảo trợ chóp bu: không có một mạng lưới bảo trợ hùng mạnh nhất thứ hai và sếp-phụ mà là một tập hợp của các diễn viên đại thể ngang nhau về kích cỡ.

Một giải pháp cho vấn đề này có thể được nhận diện như sự kế vị từ từ bằng việc làm cho chức tổng thống là một chức có thể được chia. Giải pháp này đã được Nursultan Nazarbayev của Kazakhstan thử, ông đã từ chức năm 2019 sau ba thập niên làm tổng thống. Nhà bảo trợ chóp bu 78-tuổi đã trao chức tổng thống cho một trong những người được bảo trợ trung thành của ông trong khi giữ lại quyền lực chính trị dưới dạng các quyền phủ quyết (ông giám sát các tài liệu chương trình với tổng thống và chính phủ). Một giải pháp khác cho nhà bảo trợ chóp bu sắp ra đi là bổ nhiệm người kế vị của ông, như Heidar Aliev đã làm với con trai ông, Ilham, ở Azerbaijan. Có vẻ đơn giản hơn, giải pháp này là không chắc chắn hơn giải pháp trước bởi vì người kế vị được chỉ định phải giành được sự tin cậy và lòng trung thành của những người được bảo trợ mà lòng trung thành của họ đã là cho một người (bậc tiền nhiệm của ông), chứ không phải cho chức vụ của ông.

Mặt khác, ngay cả trước khi nhà bảo trợ chóp bu rời đi, sự mong đợi về sự ra đi khuyến khích sự phản bội mà có thể làm xói mòn năng lực của ông để phân phát tùy ý các phần thưởng và sự trừng phạt. Hale gọi điều này là một “hội chứng vịt-què,” khi cảm nhận về quyền lực đang tiêu tan của nhà bảo trợ chóp bu trở thành một lời tiên tri tự-ứng nghiệm.

Các tình huống tạo ra các vịt què là các cơ hội tốt nhất để thay đổi một nền chuyên quyền bảo trợ sang nền dân chủ. Nếu một sự cạnh tranh giữa những người được bảo trợ cho vị trí chóp bu nảy nở, mạng lưới có chỉ một-kim tự tháp có thể chia thành nhiều mạng lưới bảo trợ. Tất cả chúng đều muốn trở nên thống trị, nhưng chẳng mạng nào trong số chúng quan tâm đến việc bị một mạng lưới cạnh tranh đàn áp: logic của nền dân chủ bảo trợ xuất hiện. Đương nhiên, nếu chế độ có một hiến pháp tổng thống, sự tái tạo có tính hệ thống với một nhà bảo trợ chóp bu mới có khả năng hơn sau khi sự đấu đá nội bộ diễn ra. Nhưng nếu nhà bảo trợ chóp bu đã là một thủ tướng trong một hệ thống đại nghị, có một cơ hội lớn hơn để phá vỡ năng lực tự-tái tạo của nền chuyên quyền bảo trợ.

CHÍNH PHỦ KHÔNG THỂ BỊ HẠ BỆ qua các cuộc bầu cử trong các chế  74.

độ chuyên quyền được củng cố, nhưng một mưu toan chuyên quyền hay sự đột phá vẫn có thể bị sự thay đổi bầu cử đảo ngược. Theo khái niệm của Kornai János về chế độ chuyên quyền, mà chúng tôi dùng trong định nghĩa của chúng tôi về loại hình học sáu chế độ của chúng tôi (Mệnh đề 12), một đặc tính chính của hệ thống là, “chính phủ không thể bị loại bỏ qua một thủ tục hòa bình và văn minh.” Kiểu chế độ lý tưởng của một nền chuyên quyền bảo trợ, trên cực thấp nhất của tam giác, thỏa mãn tiêu chuẩn này, vì kiểu lý tưởng được định nghĩa như một hệ thống được củng cố. Nhưng các chế độ chuyên quyền bảo trợ đời-thực có thể hoạt động theo logic của một mạng lưới bảo trợ có chỉ một-kim tự tháp mà cũng không đạt được sự củng cố chuyên quyền. Trong các trường hợp như vậy, chế độ có thể bị các phương tiện bầu cử đánh bại. Nói một cách tổng quát hơn, sự thay đổi chuyên quyền có thể bị các cuộc bầu cử đảo ngược sau một mưu toan chuyên quyền hay sự đột phá trước sự củng cố (Hình 10).

Xét đến chiến lược đối lập, một điểm cốt yếu của sự quay lại từ sự đột phá chuyên quyền là để chuyển từ paradigm phê phán chính phủ sang paradigm phê phán-chế độ. Trong các nền dân chủ tự do, đối lập thông thường vẫn ở bên trong các ranh giới của paradigm phê phán-chính phủ, nhờ đó nó: tấn công chính phủ, không phải chế độ như một toàn thể; tranh luận chính sách công, cứ như nó đã đi theo từ các mục tiêu ý thức hệ được tuyên bố; hình thành chiến lược trên cơ sở sự cạnh tranh của các đảng, mà không có sự hợp tác trong đối lập hay trong phong trào toàn quốc; phần lớn giữ khoảng cách giữa các đảng chính trị và các NGO và các doanh nhân, ủng hộ các chính sách công nào đó hơn là các lực lượng chính trị nào đó.

Các học giả thường cho rằng việc tấn công chính phủ thay vì chế độ là một dấu hiệu của sự củng cố dân chủ, vì nó cho biết rằng nền dân chủ là “trò chơi duy nhất trong thành phố” cho các diễn viên của chế độ. Nhưng khi một đối lập đối mặt với một chế độ chuyên quyền, là cốt yếu rằng họ không tin chế độ là trò chơi duy nhất trong thành phố.

Paradigm phê phán-chế độ có nghĩa rằng đối lập: tấn công chế độ chuyên quyền, không phải (bản thân) chính phủ per se; phê phán không phải các mục tiêu ý thức hệ được tuyên bố của các chính sách mà phê phán cách chúng phục vụ sự tập trung quyền lực và sự tích tụ tài sản cá nhân; hình thành chiến lược trên cơ sở hợp tác trong đối lập và một phong trào toàn quốc, dọc theo sự chia tách mức-chế độ của “đối lập dân chủ” vs. “hệ thống chuyên quyền”; khiến các NGO và các doanh nhân đứng về phía đối lập chống lại elite chính trị lãnh đạo bắt đầu phá hủy nền dân chủ.

Paradigm phê phán-chế độ có thể báo hiệu cho nhân dân rằng đối lập sẵn sàng và có khả năng thắng, phá vỡ nhận thức về tính không thể thay thế được của hệ thống—một sự nhận thức mà mặt khác là một yếu tố cốt yếu của sự củng cố chuyên quyền.

Hình 10: Những kiểu quay lại lý tưởng từ các mức khác nhau của sự thay đổi chuyên quyền

75. Kinh tế học quan hệ: Tham nhũng, Săn mồi, và Tái phân phối các Thị trường

NGHI VẤN TIÊN ĐỀ rằng nhà nước là một diễn viên theo đuổi lợi ích chung, chúng ta có thể đưa kinh tế học quan hệ vào như một môn thách thức sự tổng hợp tân cổ điển dòng chính. Khi bắt đầu sự trình bày của chúng tôi, chúng tôi cho rằng ba tiên đề của lai học dòng chính cần được giải tán để hiểu các chế độ hậu-cộng sản. Các tiên đề này là: tiên đề về sự tách biệt của các lĩnh vực hoạt động xã hội, tiên đề về sự trùng của các vị trí de jure de facto, và tiên đề về nhà nước theo đuổi lợi ích chung (Mệnh đề 5).

Xóa bỏ các Tiên đề cũng đã là trung tâm cho khoa học kinh tế kể từ nửa thứ hai của thế kỷ thứ 20. Điểm xuất phát của các nhà kinh tế học là sự tổng hợp tân cổ điển “chính thống,” và bằng việc nghi vấn các giả thiết tiên đề của các mô hình của nó, họ đưa vào một số trường phái tư duy kinh tế mới, được gọi là không-chính thống (Hình 11). Kinh tế học hành vi nghi vấn các quan điểm về tính duy lý của những người tham gia thị trường; kinh tế học thể chế chỉ ra rằng thị trường không nhất thiết bị các cơ chế đơn giản của cung và cầu thống trị, hay những sự trao đổi tự nguyện bị các sở thích cá nhân chi phối.

Nếu chúng ta muốn hiểu các nền kinh tế của vùng hậu-cộng sản hoạt động thế nào, chúng ta phải từ bỏ tiên đề thứ ba—tiên đề mà gần như cùng như tiên đề thứ ba chúng ta từ bỏ. Tiên đề này cho rằng nhà nước là nhân từ, một định chế cho việc sửa các thất bại thị trường, và bằng việc yêu cầu sự can thiệp của nó chúng ta có thể đạt một kết cục mà một mình thị trường tự do đã không tạo ra. Nhưng, nếu nhà nước can thiệp, nó có thể không làm cái các nhà kinh tế học nghĩ nó nên: hình thức thật sự của sự can thiệp nhà nước phụ thuộc vào các lợi ích cá nhân hay nhóm của các thành viên của elite cai trị, cũng như các mối quan hệ giữa các diễn viên nhà nước và các diễn viên tư nhân. Dựa vào sự thấu hiểu này, chúng ta đến kinh tế học quan hệ.

Kinh tế học quan hệ không phải là một từ mới đơn thuần cho các trường phái tư duy kinh tế phê phán hoạt động nhà nước (như lựa chọn công). Thứ nhất, kinh tế học quan hệ không quan tâm đến sự phân tích kinh tế của các quá trình chính trị—nó quan tâm đến phân tích chính trị của các quá trình kinh tế. Kinh tế học quan hệ là một nhánh của chính trị kinh tế học mà kết hôn lý thuyết so sánh chế độ và phân tích kinh tế: môn trước mô tả các quan hệ chính thức và phi-chính thức của các diễn viên công và tư trong sáu chế độ kiểu-lý tưởng, trong khi môn sau được hướng dẫn bởi sự mô tả này trong một phân tích hoạt động kinh tế. Thứ hai, kinh tế học quan hệ bao gồm các lý thuyết được xác lập về việc trục lợi (rent-seeking), lạm quyền điều tiết (regulatory capture-bị điều tiết bắt giữ), nhà nước săn mồi (predatory state), và tham nhũng, nhưng nó cũng nhận diện một điểm xuất phát chung cho chúng. Như thế, nó tạo thành khung khổ bao quát nơi các lý thuyết được phát triển cho các nền kinh tế Tây phương có thể được mở rộng cho các chế độ hậu-cộng sản.

Hình 11: Ba môn thách thức sự tổng hợp tân cổ điển nghi vấn 1-1 của các tiên đề cơ bản của nó.

76. CÁC QUAN HỆ GIỮA CÁC DIỄN VIÊN CHÍNH TRỊ VÀ KINH TẾ trải từ các quan hệ chính thức và tự nguyện (lobbying) đến phi-chính thức và ép buộc (chủ nghĩa bảo trợ). Trong một nền kinh tế thị trường tự do, những người ra quyết định công tương tác với các diễn viên kinh tế tư nhân qua các diễn đàn hòa giải và vận động hành lang (lobbying). Mặc dù các nhà kinh tế học, đặc biệt những người quan sát sự lobby của công ty lớn ở Hoa Kỳ, thường nói về “sự câu kết” của các lĩnh vực chính trị và kinh tế, trong thực tế, loại hợp tác này không loại bỏ sự tách biệt của các lĩnh vực hoạt động xã hội (Mệnh đề 6).

Trong một quan hệ lobby, chính trị gia tìm kiếm các lợi ích chính trị (ví dụ, sự ủng hộ chiến dịch vận động) và doanh nhân lớn tìm kiếm các lợi ích kinh tế (ví dụ, các quy định thuận lợi). Họ muốn tăng cường các vị trí của họ tại đỉnh của hệ thứ bậc trong lĩnh vực hoạt động xã hội riêng của họ: họ có các mục tiêu chính trị và kinh tế tách biệt, và các lợi ích họ đạt được cũng phục vụ sự củng cố các vị trí chính thức của họ trong lĩnh vực tách biệt, của riêng họ. Chính trị gia không trở thành một doanh nhân, và doanh nhân không trở thành một chính trị gia. Quan hệ được hình thành bên trong môi trường thể chế chính thức, nơi bản thân việc lobby được chính thức hóa và vì thế minh bạch hơn các quan hệ phi-chính thức; và hai bên bước vào một giao dịch công việc với nhau trên một cơ sở tự nguyện, như các bên tự trị. Họ đến với nhau và hình thành một quan hệ ngang, hơn là một quan hệ dọc hay kiểu-chư hầu, và mỗi bên có thể rời khỏi quan hệ một cách tự do nếu họ thấy một sự chào mời có lợi hơn.

Hình thức lobby này là sự bắt đầu của một thang đo, từ đó chúng ta có thể bắt đầu khám phá các kiểu quan hệ khác mà có là một sự câu kết của các lĩnh vực. Thứ nhất, các bên liên quan nằm trong các lĩnh vực được tách biệt chính thức mà có thể được kết nối một cách phi-chính thức. Thứ hai, nếu quan hệ giữa hai elite là phi-chính thức, nó có thể là tự nguyện hoặc ép buộc. Trong trường hợp của các giao dịch tự nguyện, kinh tế học quan hệ là không phải không giống tình hình trong lobbying: cả hai bên đều cần đưa ra cái gì đó có giá trị cho bên kia để khiến họ liên hệ tự nguyện. Trong trường hợp này, quan hệ có thể được mô tả như ngang và không-bảo trợ, nơi không bên nào có thể buộc bên kia vào sự trao đổi (gia nhập tự do) hay buộc họ để tiếp tục trao đổi (rời đi tự do).

Trong trường hợp của các giao dịch ép buộc, kinh tế học quan hệ là khác đáng kể. Vì khi đó chính sự tính toán chi phí-lợi ích của người ép buộc là cái quyết định liệu quan hệ có hình thành không. Trong trường hợp này, quan hệ có thể được mô tả như quan hệ dọc và bảo trợ, nơi một bên có thể buộc bên kia vào sự trao đổi (gia nhập không-tự do) và buộc họ tiếp tục trao đổi (rời đi không-tự do). Nếu những người tham gia liên hệ với nhau một cách phi-chính thức cũng như ép buộc, các thành viên của elite kinh tế trở thành một phần của elite chính trị (các nhà tài phiệt, Mệnh đề 14) và các thành viên của elite chính trị trở thành phần của elite kinh tế (các nhà chính phiệt, Mệnh đề 15).

  1.     CÁC HÌNH MẪU THAM NHŨNG TỪ DƯỚI LÊN, được khởi xướng từ phía tư nhân đến lĩnh vực công, bao gồm tham nhũng thị trường tự do và nhà nước bị bắt giữ từ dưới lên. Các hình mẫu tham nhũng khác nhau có thể được mô hình bằng việc chia các diễn viên thối nát thành ba lớp: các diễn viên tư nhân, các nhà hành chính công, và các diễn viên chính phủ; và với ba loại vai trò: người đòi, người cung cấp, và người phục vụ, mà là một cấp dưới trong bộ máy tham nhũng (Hình 12). Trong trường hợp tham nhũng thị trường-tự do, các lợi ích tư nhân có một ảnh hưởng bất hợp pháp trong các quyết định nhà nước và chính quyền địa phương về phân bổ các nguồn lực, các vụ mua sắm, nhượng quyền, và quyền lợi. Như một kết quả, các giao dịch trao đổi bất hợp pháp được dàn xếp riêng rẽ giữa các diễn viên tư nhân và không-elite, các nhà quản lý hành chính hàng ngày của bộ máy quan liêu nhà nước (các nhân viên văn phòng, cảnh sát v.v.).

Tham nhũng thị trường-tự do gồm một loạt hiện tượng cá nhân: một quan chức chịu trách nhiệm về một quyết định nhận hay đòi các lợi ích tài chính hay khác cho việc giải quyết một vụ việc theo cách có lợi cho diễn viên tư nhân. Một nhà nước có thể bị coi là “tham nhũng” nếu có một sự xuất hiện cao của các sự cố như vậy, hay nếu các vấn đề hành chính dân sự hay kinh doanh có thể chỉ được giải quyết qua sự hối lộ (Mệnh đề 26). Chính là trường hợp này khi tham nhũng thị trường-tự do là khắp cả nước, thay vì chỉ là địa phương. Tuy vậy, ngay cả nếu hình mẫu xuất hiện khắp cả nước, các hành động tham nhũng thị trường-tự do này là thi thoảng: chúng xảy ra từng trường hợp khi người ta quyết định, một cách tự nguyện, để tham gia vào một giao dịch tham nhũng, và chúng không được tổ chức như một chức năng nhóm về cả hai phía.

Cụm từ “thị trường tự do” trong tên của hình mẫu này một phần nhắc đến bản chất cạnh tranh của nó. Các cơ hội tham nhũng không hạn chế ở một nhóm người cụ thể: bất kể ai với một lượng tiền thích hợp hay quyền lực có thể bước vào các mối quan hệ tham nhũng như vậy. Và ở nơi cung và cầu tham nhũng là đông, các diễn viên tư nhân có thể cạnh tranh về số lượng hối lộ họ đưa ra chào, và các diễn viên công cộng, về số lượng họ đòi.

Trong trường hợp của nhà nước bị bắt giữ từ dưới lên, sự hợp tác của các diễn viên trở nên phức tạp hơn không chỉ ở bên cung tham nhũng mà cũng ở bên cầu tham nhũng, vì các đối tác tham nhũng từ khu vực tư nhân là các nhà tài phiệt (mà hoạt động kinh tế của họ mặt khác là hợp pháp; sự bắt giữ nhà nước tài phiệt) hay các ông trùm tội phạm của thế giới ngầm có tổ chức (mà hoạt động kinh tế của họ mặt khác là bất hợp pháp; sự bắt giữ nhà nước tội phạm). Ở đây, tham nhũng theo chiều dọc đạt đến các mức cao hơn của lĩnh vực công, và các diễn viên chính trị vĩnh viễn lệ thuộc vào elite kinh tế. Dưới nhà nước bị bắt giữ từ dưới lên, lập pháp bị lệ thuộc một cách có hệ thống vào các lợi ích tư nhân, và các thành viên của elite chính trị, và cũng như các nhà quản lý hành chính công, trở thành các phần có tính hệ thống, và không chỉ thi thoảng của bộ máy tham nhũng, chuyển hàng hóa và các dịch vụ công cho các nhà tài phiệt hay các ông trùm tội phạm.

Hình 12: Miêu tả sơ đồ của tham nhũng thị trường-tự do và nhà nước bị bắt giữ từ dưới lên.

Đường liên tục: giao dịch thường xuyên; Đường chấm chấm: giao dịch thi thoảng; Mũi tên kép: giao dịch tự nguyện; Mũi tên đơn: sự lệ thuộc; Non-elte = Không-elite

CÁC HÌNH MẪU THAM NHŨNG TỪ TRÊN XUỐNG, được khởi xướng từ 78.

lĩnh vực công xuống lĩnh vực tư nhân, gồm nhà nước bị bắt giữ từ trên xuống và hình mẫu nhà nước tội phạm. Sự bắt giữ nhà nước từ trên xuống có thể được khởi xướng bởi một diễn viên duy nhất—như một thị trưởng của một chính quyền thành phố—hay bởi một nhóm diễn viên—như một đảng. Khi một phần của hành chính công chuyển thành một mánh lới làm tiền bởi các nhà lãnh đạo của nó, hệ thứ bậc của lãnh địa của họ được lấp đầy bằng những người được bảo trợ của họ, dẫn đến sự bảo trợ hóa. Phần bị bắt giữ của bộ máy nhà nước bắt đầu được mạng lưới bảo trợ phi-chính thức vận hành, hoạt động một cách có hệ thống bởi các quy tắc phi-chính thức vượt qua các quy tắc chính thức.

Tuy vậy, trong sự bắt giữ nhà nước từ trên xuống, không nhà bảo trợ nào sở hữu quyền lực chính trị không bị ràng buộc trong toàn bộ chính thể (Hình 13). Điều này hạn chế biên độ tính tùy ý của mọi nhà bảo trợ: họ có thể cai trị chỉ một phần nào đó của nhà nước, hạn chế ở thẩm quyền chính thức của nó, nhưng không thể sai khiến một dải rộng hơn của các định chế nhà nước (Mệnh đề 28). Thứ nhất, điều này làm cho các hành động liên kết của tham nhũng, nơi sự hợp tác của nhiều cơ quan nhà nước là cần thiết, ít có thể đạt được hơn. Thứ hai, vị trí của nhà bảo trợ phụ thuộc vào những diễn biến chính trị. Một thắng lợi đối lập có thể dễ dàng loại bỏ họ, làm cho thực tiễn là không thể để duy trì mạng lưới bảo trợ của họ thêm nữa. Cuối cùng, sự thiếu một độc quyền quyền lực có nghĩa là nhà bảo trợ không thể vô hiệu hóa những sự kiểm soát thể chế. Các hạn chế hiến định về sự tập trung quyền lực cũng như sự thực thi pháp luật hiệu quả có khả năng kiềm chế các mạng lưới phi-chính thức và ngăn chặn nhà bảo trợ khỏi việc sử dụng quyền lực chính trị độc chiếm và biến toàn bộ nhà nước thành lãnh địa tư nhân của họ.

Khi đạt được sự độc quyền về quyền lực chính trị, chúng ta nói về một hình mẫu nhà nước tội phạm. Chúng tôi thêm từ “hình mẫu” vào nhà nước tội phạm, một khái niệm chúng tôi giới thiệu sớm hơn (Mệnh đề 26-27), để nhấn mạnh rằng tình trạng này không nhất thiết bao gồm toàn bộ nhà nước. Ngược lại, có các trường hợp địa phương, khi diễn viên elite chính quyền là một thị trưởng, và ông bảo trợ hóa toàn bộ một chính quyền địa phương, biến nó thành một mánh lới bảo trợ làm tiền bị hạn chế về mặt địa lý: trên thực tiễn một “nhà nước trong nhà nước.” Những trường hợp như vậy cũng xảy ra trong các nhà nước không-tội phạm nữa, như nền dân chủ bảo trợ hay chế độ độc tài khai thác thị trường (Mệnh đề 90). Nhưng trong các chế độ chuyên quyền bảo trợ, hình mẫu nhà nước tội phạm mô tả đặc trưng chính phủ trung ương.

Nhà nước tội phạm được xây dựng bởi sự phát triển của một mạng lưới bảo trợ có một kim tự tháp duy nhất. Trong đó, các diễn viên hành chính công bị tước đoạt sự tự trị của họ để đưa ra sự chào mời tham nhũng cho các diễn viên tư nhân hay để nhận hối lộ để đổi lấy sự đối xử có lợi. Thay vào đó, họ bị lệ thuộc vào ý chí của nhà bảo trợ chóp bu và đối xử thuận lợi với những người được chỉ định từ bên trên, tức là, những người được bảo trợ của nhà bảo trợ chóp bu. Việc xây dựng mạng lưới có chỉ một-kim tự tháp cũng mở rộng sang khu vực tư nhân, phá vỡ sự tự trị của các nhà tài phiệt (Mệnh đề 41), trong khi một mạng lưới của các nhà thầu phụ và các nhà cung cấp cũng mở rộng mối quan hệ nhà bảo trợ-người được bảo trợ này sang những tầm với thấp hơn của khu vực tư nhân.

Hình 13: Sự miêu tả sơ đồ của sự bắt giữ nhà nước từ trên xuống và hình mẫu nhà nước tội phạm.

Đường liên tục: giao dịch thường xuyên; Đường chấm chấm: giao dịch thi thoảng; Mũi tên kép: giao dịch tự nguyện; Mũi tên đơn: sự lệ thuộc; Non-elte = Không-elite. Ghi chú: Trong hình mẫu nhà nước tội phạm, tất cả các diễn viên chính phủ bị lệ thuộc vào nhà bảo trợ chóp bu. Chúng tôi không trình bày mọi diễn viên chính phủ bằng các vòng tròn vì sự rõ ràng.

  1. CÁC HÌNH MẪU THAM NHŨNG KHẮP ĐẤT NƯỚC có thể hoặc là bệnh dịch hay có tính hệ thống, và có thể đề cao hoặc các diễn viên tự trị hay các chuỗi vĩnh cửu của thân phận chư hầu. Trong văn liệu tham nhũng, “có tính hệ thống” được dùng đồng nghĩa với “bệnh dịch” trong các tình huống khi tham nhũng được tích hợp như một khía cạnh thiết yếu của hệ thống chính trị, xã hội, và kinh tế. Song sự hiểu này làm mờ sự khác biệt giữa các trường hợp khi tham nhũng là phổ biến và các trường hợp khi tham nhũng bị một nhà tổ chức từ trên đỉnh biến thành hệ thống.

Ví dụ, trường hợp trước có thể là các hình thức được xã hội chấp nhận của tham nhũng thị trường-tự do, như “tiền cảm ơn” trong hầu hết các nước hậu-cộng sản ở Đông Âu (các bác sĩ và y tá trong các bệnh viện công thường xuyên được cho tiền thêm, mà không có nó người ta hầu như không có được dịch vụ tử tế). Các giao dịch này là lác đác, được trả thi thoảng, và chúng là mặt-đối-mặt, với mỗi cặp các diễn viên tiến hành các giao dịch tham nhũng mà không là phần của một mạng lưới tham nhũng. Là cốt yếu để phân biệt các trường hợp như vậy khỏi sự thông đồng doanh nghiệp nhà nước, từ dưới lên và sự bắt giữ nhà nước từ trên xuống, và hình mẫu nhà nước tội phạm (Bảng 24). Vì trong các loại đó, tham nhũng được ai đó hệ thống hóa, tức là, được tổ chức như một chức năng nhóm hay mạng lưới với các quan hệ lâu dài và một sơ đồ tham nhũng phức tạp.

Như thế, thật đáng đưa ra các sự phân biệt sau đây: (1) tham nhũng là dịch bệnh nếu nó trở thành một tiêu chuẩn xã hội (tức là, một sự hiểu phi-chính thức điều khiển hành vi của các diễn viên xã hội) mà không có hành động tổ chức của ý chí trung ương và dẫn đến một số lớn các giao dịch thi thoảng giữa những người khác nhau; (2) tham nhũng có tính hệ thống nếu nó phát triển thành một sơ đồ (tức là, một bộ máy tham nhũng của các quan hệ lâu dài) do hành động tổ chức của một ý chí trung ương và dẫn đến các giao dịch thường xuyên giữa những người nào đó.

Liên quan mật thiết đến điều này là các chiều của sự tự trị—nhắc đến sự gia nhập tự do của những người tham gia vào tham nhũng—và sự phụ thuộc—nhắc đến các lựa chọn ra đi của những người tham gia tham nhũng. Khi các giao dịch tham nhũng là thi thoảng, sự tự trị của các diễn viên được giữ lại, và không chuỗi phụ thuộc nào được hình thành. Trong các trường hợp các giao dịch thường xuyên, có một cơ hội lớn hơn của sự phụ thuộc, đặc biệt bởi vì càng nhiều hành động bất hợp pháp hơn bị vi phạm, càng nhiều bên hơn có thể tống tiền nhau, buộc chúng tiếp tục tiến hành những trao đổi tham nhũng. Ngoài ra, sự thông đồng ép buộc ngay lập tức ngụ ý sự phụ thuộc, vì ngay cả sự gia nhập của một trong những người tham gia đã là không tự nguyện.

Bảng 24: Các đặc trưng chính của sáu hình mẫu tham nhũng (với các hình mẫu tham nhũng ép buộc trong màu xám).

Về sự tự trị, bản chất một phần của sự bắt giữ nhà nước cho phép một số người tham gia để giữ lại một sự tự trị tương đối, một vị trí mặc cả và một lợi thế cạnh tranh. Nhưng trong một nhà nước tội phạm, nhà bảo trợ chóp bu là kẻ độc quyền về sự tự trị: ông là người duy nhất mà de facto trả lời cho không ai trong chế độ, và ông có thể ủy thác sự tự trị một phần, với sự cho phép hạn chế, cho các nhà bảo trợ-phụ trong mạng lưới patron-client. Các nhà bảo trợ-phụ là cả nhà bảo trợ và người được bảo trợ: kẻ được bảo trợ của nhà bảo trợ chóp bu nhưng là nhà bảo trợ của những kẻ được bảo trợ mức thấp hơn trong gia tộc chính trị nhận con nuôi.