Người phụ trách Văn Việt:

Trịnh Y Thư

Web:

vanviet.info

Blog:

vandoanviet.blogspot.com

Danh ngôn

Trong mọi cộng đồng, chúng ta cần một nhóm thiên thần gây rối.

We need, in every community, a group of angelic troublemakers.

(Bayard Rustin – trích bài phát biểu tại New York City 1963)

Trong mọi trường hợp, chắc chắn rằng sự thiếu hiểu biết, đi kèm với quyền lực, là kẻ thù tàn bạo nhất có thể có của công lý.

It is certain, in any case, that ignorance, allied with power, is the most ferocious enemy justice can have.

(James Baldwin - No Name in the Street 1972)

Các cuộc cách mạng và các cá nhân có thể bị giết hại, nhưng bạn không thể giết chết các ý tưởng.

While revolutionaries and individuals can be murdered, you cannot kill ideas.

(Thomas Sankara, một tuần trước khi bị ám sát, 1987)

Không có cảm giác nào cô đơn hơn việc bị chính đất nước mình trục xuất.

There's not a more lonely feeling than to be banished by my own country.

(Kiyo Sato – Kiyo’s Story 2009)

Ban Biên tập

Địa chỉ liên lạc:

1. Thơ

tho.vanviet.vd@gmail.com

2. Văn

vanviet.van14@gmail.com

3. Nghiên cứu Phê Bình

vanviet.ncpb@gmail.com

4. Vấn đề hôm nay

vanviet.vdhn1@gmail.com

5. Thư bạn đọc

vanviet.tbd14@gmail.com

6. Tư liệu

vanviet.tulieu@gmail.com

7. Văn học Miền Nam 54-75

vanhocmiennam5475@gmail.com

Tra cứu theo tên tác giả

Thứ Sáu, 20 tháng 6, 2025

KHU RỪNG LAU của Doãn Quốc Sỹ cuộc hành trình đi tìm tự do

 Liễu Trương

Doãn Quốc Sỹ là một trong những nhà văn hàng đầu của văn học miền Nam. Ông sinh năm 1923, tại tỉnh Hà Đông. Ngay từ thời trẻ ở miền Bắc, ông đã có ý chí tranh đấu cho nền độc lập nước nhà. Và ý chí đó được nuôi dưỡng bằng văn hóa dân tộc, bằng những hoạt động kháng chiến mà tuổi trẻ của ông lúc bấy giờ chưa thấy rõ đâu là con đường của chính nghĩa, nên bị lầm đường, chỉ sau một thời gian mới đổi hướng. Doãn Quốc Sỹ hồi cư năm 1951. Sau này, trong cuộc phỏng vấn của nhà báo Nguyễn Ngu Í ở Sài Gòn, Doãn Quốc Sỹ nói: Từ chỗ kháng chiến ác liệt nhất, Liên khu Việt Bắc, kháng chiến, tôi kháng chiến hết mình. Tôi từng là một “anh hùng lao động” của cơ quan tôi. Nhưng đến khi giã từ “Thiên đường đỏ”, thì cũng giã từ quyết liệt, dứt khoát.[1]


Di cư vào Nam năm 1954, Doãn Quốc Sỹ vẫn trung thành với lý tưởng của mình, trung thành suốt cả cuộc đời. Doãn Quốc Sỹ chọn văn hóa và chữ nghĩa làm khí giới của một người yêu nước: ông là nhà giáo đem văn hóa dân tộc đến với các thế hệ trẻ; ông là nhà văn dùng nghệ thuật ngôn từ để nói lên lòng nhân ái và tình yêu tổ quốc.
Cùng với Mai Thảo, Thanh Tâm Tuyền, Trần Thanh Hiệp, Nguyễn Sỹ Tế, Quách Thoại, Tô Thùy Yên, Duy Thanh, Ngọc Dũng, Thái Tuấn ông đã hoạt động mạnh mẽ trong nhóm Sáng Tạo, quay lưng với quá khứ và tìm một con đường mới cho văn học.
Ngòi bút của Doãn Quốc Sỹ không ngừng sáng tác, vào những năm 1950, ông bắt đầu cho ra những tác phẩm như: Sợ lửa, U hoài, Gánh xiếc, Dòng sông định mệnh. Qua những thập niên 60-70, những tác phẩm khác lần lượt ra mắt độc giả: Hồ Thùy Dương, Trái cây đau khổ, trường thiên tiểu thuyết Khu rừng lau, Sầu mây, Vào Thiền.
Sau biến cố 30 tháng 4 năm 1975, Doãn Quốc Sỹ bị đi tù Cộng sản hai lần, tổng cộng 14 năm. Trong thời gian còn ở Việt Nam, năm 1982, Doãn Quốc Sỹ viết tác phẩm Đi với bút danh Hồ Khanh, một hồi ký kể chuyện vượt biên của những người thân, hồi ký dưới hình thức truyện. Đi được Lá Bối xuất bản ở hải ngoại năm 1984-1985.
Sang tị nạn ở Mỹ năm 1995, Doãn Quốc Sỹ tiếp tục cầm bút và có thêm những tác phẩm như: Người vái tứ phương, Dấu chân cát xóa, Mình lại soi mình, Cúi đầu, Trái đắng trường sinh, Cò đùm.
Trong toàn bộ tác phẩm của Doãn Quốc Sỹ, Khu rừng lau viết vào những năm 60 là tác phẩm có giá trị trội nhất. Khu rừng lau, một trường thiên tiểu thuyết dài gần 2.000 trang, gồm 4 cuốn do Sáng Tạo xuất bản:
Ba sinh hương lửa (1962)
Người đàn bà bên kia vĩ tuyến (1964)
Tình yêu thánh hóa (1965)
Những ngả sông trên dòng đời (Đàm thoại Độc thoại) (1966)
Khu rừng lau được viết vào thời kỳ Doãn Quốc Sỹ có sức sáng tạo sung mãn, có khả năng xây dựng một thế giới bao la với vô số nhân vật gây ấn tượng cho độc giả. Trong Khu rừng lau, Doãn Quốc Sỹ đã vẽ lên một bức tranh của lịch sử Đất Nước ở thế kỷ 20. Tác giả đã tận dụng các yếu tố dựng truyện: không gian, thời gian và nhân vật để bức tranh trở nên sống động, lôi cuốn. Không gian là cả không gian nước Việt Nam và còn tràn qua biên giới Tàu, rồi đi từ miền Bắc đến miền Nam. Và thời gian là dòng lịch sử đi từ thời Pháp thuộc, Nhật thuộc, Việt Minh thuộc (nói theo một nhân vật), qua thời Đảng Cộng sản ra mắt dân chúng, đến thời Đất Nước chia đôi năm 1954, sau đó là hai miền Nam Bắc dưới hai chế độ chống đối nhau về hệ tư tưởng.
Khu rừng lau là một trường thiên tiểu thuyết, chúng ta cần theo dõi nội dung với những chi tiết cần thiết ngõ hầu nắm bắt cốt truyện, và cuối cùng thấy được nghệ thuật sáng tạo của Doãn Quốc Sỹ.

  1. NỘI DUNG CỦA TRUYỆN KHU RỪNG LAU
    Nội dung trải dài qua 4 cuốn truyện cho thấy sự hình thành của một cuộc hành trình tập thể đi tìm tự do.
    BA SINH HƯƠNG LỬA
    Trong cuốn truyện đầu tiên này, độc giả làm quen với các nhân vật thuộc thế hệ trẻ, tức Tân, Hiển, Miên, Kha và Hãng.
    Để có một đường dây mạch lạc chúng ta theo dõi hai anh em Hiển và Miên từ đầu đến cuối. Vô số các nhân vật khác sẽ lần lượt xuất hiện xung quanh hai nhân vật này.
    Hiển và Miên là hai anh em thuộc một gia đình nghèo, ở làng Hạc Thủy, cha mẹ vào rừng đốn củi làm than, khi người mẹ sinh đứa con thứ ba, con trai tên Mẫn, bà sinh khó, chết trong rừng. Chẳng bao lâu người cha cũng chết. Trong làng Hạc Thủy, có bà Quản Mão là một người đàn bà có tiền của và giàu lòng thương người, bà đem ba anh em về nuôi. Một hôm có người chú, chú Thuật, từ Sài Gòn ra nhận ba đứa cháu, quyết định đem Mẫn về Sài Gòn nuôi, và gửi Hiển và Miên cho một người quen ở Hà Nội, hằng tháng chú gửi tiền cho hai anh em ăn học. Càng khôn lớn hai anh em Hiển và Miên càng thương yêu nhau. Hai anh em biết ơn bà Quản Mão, thỉnh thoảng về làng thăm bà. Miên lớn lên có vẻ đẹp dịu dàng, Miên thích ngắm cảnh đẹp của thiên nhiên, từ trên núi Sáng ở Bỉnh Di, nhìn xuống thung lũng, Miên thấy một khu rừng mà Miên tưởng là rừng mía, nhưng Hiển bảo đó là khu rừng lau, Miên yêu màu xanh cẩm thạch của lá lau, đến mùa hoa lau nở thì toàn rừng chuyển qua màu tím nhạt. Hiển đỗ tú tài, còn Miên đỗ trung học và học nghề y tá để giúp người bớt khổ. Sau khi tốt nghiệp y tá, Miên phục vụ ở Quân Y viện, thời Việt Minh, ở huyện Lập Thạch. Thời gian Miên làm việc ở đây có Tân một sinh viên y khoa năm thứ tư (trường y khoa thời đó gọi là trường thuốc), đến cộng tác. Miên và Tân thường chuyện trò, trao đổi với nhau về nhiều vấn đề và trở nên thân thiết. Tân coi Miên như một người em gái. Trước đó độc giả biết rõ nguồn gốc của Tân sinh trưởng ở làng Lại Vũ, cha mất sớm, bỏ dở việc học, về giúp mẹ buôn bán, có lúc học nghề đánh cá với chú Tây, cha của bé Phiệt. Trong làng Lại Vũ, Tân biết có một người con trai tên Chủy, con cụ đồ Thinh, người hiền lành. Chủy, người vạm vỡ, ngỗ nghịch, lêu lổng. Khi mẹ Tân buôn bán khá ở Bắc Ninh, Tân muốn nối lại việc học và thi đỗ tú tài. Khi chiến tranh Việt Pháp bùng nổ, Tân theo một nhóm thanh niên học một lớp huấn luyện cán bộ sản xuất ở đồn điền Lợi Ký của ông bà Phán ở Phú Thọ. Đồn điền được ủy ban trung ương chọn làm nơi huấn luyện. Tại đây Tân quen với ba người con của ông bà Phán: Hãng, con trai đầu vừa đỗ tú tài ở Pháp, phải trở về nước vì chiến tranh, và hai cô em của Hãng: Vân và Thi, cũng vì chiến tranh, bỏ học ở Hà Nội trở về đồn điền. Ở đồn điển Lợi Ký, Tân bất ngờ gặp lại Chủy nay đã đổi tên là Nguyễn Đức Mạnh, làm chủ tịch huyện Thanh Ba. Mạnh có công trạng với Đảng Cộng sản khi ám sát đội Sam làm công an cho Pháp. Sau vụ ám sát Mạnh được kết nạp vào Đảng, trở nên một người có nhiều quyền uy, thái độ kẻ cả. Mạnh lợi dụng địa vị của mình xin cưới Vân làm vợ, trong khi Vân có người yêu tên Kha, nhưng Kha đã bặt tin một thời gian lâu. Sau đám cưới Vân, Kha trở về tạt qua đồn điền và ngỡ ngàng được tin Vân có chồng. Ở đồn điền Tân và Kha quen nhau, trở nên đôi bạn thân thiết, hứa sẽ cùng nhau ghi tên học trường thuốc. Nhưng cuối cùng Kha học luật, còn Tân muốn vừa tham gia kháng chiến vừa học trường thuốc.
    Về phần Hiển đã đỗ tú tài, vào lúc thời kỳ Mặt trận Việt Minh với khẩu hiệu Đánh Tây Đuổi Nhật bắt đầu. Pháp muốn tái chiếm Nam bộ. Hiển gia nhập đoàn quân Nam Tiến. Hiển không biết có sự chống đối Quốc Cộng ngấm ngầm từ tháng 10-1945 đến tháng 6-1946.
    Trước khi Hiển lên đường xảy ra cái chết thê thảm của Kinh, một người con trai hăng hái, dũng cảm, cùng làng Hạc Thủy với Hiển. Phòng quân của tướng Lư Hán từ Vân Nam đổ xuống, bộ đội của Kinh gặp một đội phòng quân hách dịch, Kinh bèn ra lệnh đánh úp, quân Tàu thất bại. Bên phía Tàu phản đối với Việt Minh, để lấy lòng chính quyền Tàu, Việt Minh nhượng bộ và tuyên án tử hình Kinh. Kinh bị hành quyết. Điều này làm Hiển quá đau xót và đâm ra ghê tởm chính trị. Suốt đời Hiển, Hiển bị cái chết của Kinh ám ảnh.
    Pháp tái chiếm Nam bộ. Chiến tranh ngày càng lan rộng. Một năm sau, bộ đội của Hiển từ Sông Cầu trở về Bắc, Hiển đi lên mặt trận Tây Bắc, về sau dự chiến dịch Nà Sản.
    Miên vẫn làm việc ở Lập Thạch, vẫn bị Khu rừng lau ám ảnh nhưng nay đã khá xa. Giữa cao trào đoàn kết cứu quốc đòi hỏi nhiều hy sinh, Miên hãnh diện về anh mình, sống trong chờ đợi tin tức của anh. Quân y viện nay ở trong rừng thẳm thuộc huyện Lập Thạch, có quá nhiều khẩu hiệu tràn vào, nhưng Miên dửng dưng, chỉ hết lòng lo cho công việc của mình.
    Đầu năm 1952, sau chiến thắng Cao-Bắc-Lạng, Đảng Cộng sản công khai ra mắt quốc dân lấy tên Đảng Lao Động Việt Nam.
    Miên từ giữa năm 1950 bị tước đoạt trọng trách ở quân y viện, trở thành một y tá tầm thường, Miên không lấy làm gì vì nghĩ mình đã đóng góp phần nào vào công cuộc kháng chiến. Nhưng Miên bị người y tá đảng viên gây áp lực, khuyên Miên nên có thái độ thuận tiện để được kết nạp vào Đảng. Miên từ chối vì Miên cho rằng không cứ là đảng viên mới phục vụ đắc lực tổ quốc, lại nữa kỷ luật của Đảng là một kỷ luật thép mà Miên thì quá tình cảm. Miên bản tính dịu hiền, thâm trầm, quyết từ nay dùng nụ cười như một khí giới để đối phó với mọi người và tự che chở mình. Đã 3 năm Miên trông chờ tin tức của Hiển.
    Cuối năm 1950, dân y viện và quân y viện liên khu nhập làm một khiến Miên nhiều công việc hơn. Trong cơ quan đã bắt đầu có những cố vấn Tàu. Vì nhu cầu ở mặt trận Vĩnh Phúc (Vĩnh Yên - Phúc Yên), một viên cố vấn đại tá quân y về thủ thuật sửa soạn lên đường đến đơn vị gần mặt trận. Miên ở trong số 10 người được cử đi theo viên cố vấn. Họ đến một ngôi đình trong rừng là nơi chứa thuốc men, dụng cụ quân y và có nhiều thương binh nằm la liệt. Nơi đây Miên làm việc với bác sĩ T trong phòng mổ và có Tân, lúc đó là sinh viên năm thứ tư, phụ tá bác sĩ. Miên và Tân đồng cảm trong việc xem thường các đảng viên chỉ biết cái lợi của chính trị, không chút tôn trọng ngành y khoa, ăn uống sung sướng trong khi các thương phế binh thiếu thốn cực khổ.
    Tân kể cho Miên nghe năm 1947 Tân ghi tên năm thứ nhất trường thuốc, năm 1950 ghi tên vào bộ đội phục vụ quân y trung đoàn 36, rồi theo bộ đội lên Cao-Bắc-Lạng, tham dự các trận Đông Khê, Thấy Khê và chở thương binh qua biên giới Trung Hoa, điều trị tại Quảng Uyên đối diện với Cao Bằng. Cho tới đây tình cảm của Tân đối với những người cộng sản lãnh đạo kháng chiến chưa có gì thay đổi. Chính sách tương đối dân chủ của họ bắt đầu chuyển hướng từ đầu 1950. Tháng 5-1950 họ khai hội Trung Ương đảng bộ quyết định áp dụng chính sách điền thổ của Trung Cộng ở Việt Nam. Từ sau chiến thắng Cao-Bắc-Lạng, họ có thái độ nghi kỵ đối với “quần chúng tiểu tư sản”.
    Tháng giêng 1951 Tân theo bộ đội từ Cao-Bắc-Lạng xuống mặt trận trung du, tại đây Tân gặp Liệt, người thanh niên đã hát bài Nguyễn Thái Học ở đồn điền Lợi Ký, khi theo lớp huấn luyện cán bộ sản xuất.
    Nay Liệt không còn là cán bộ, mà là người dân thường. Liệt có nhiều u uất sinh ra rượu chè và khi say Liệt nói ra những chuyện bí ẩn về Hồ Chí Minh, về những cán bộ quân sự quốc gia xuất thân từ hai trường Hoàng Phố và Liễu Châu đã biến mất. Chuyện tới tai cơ quan kháng chiến hành chính, sau đó có hai tên du kích đến nhà hạ sát Liệt. Tân căn cứ vào bài hát Nguyễn Thái Học mà Liệt thường hát để đoán rằng Liệt là một chiến sĩ Việt Quốc mà vì hoàn cảnh phải quy thuận đoàn thể Việt Minh hồi ở đồn điền Lợi Ký.
    Tân may mắn có một nghề cao quý để quên các bực dọc nhưng vẫn cảm thấy bất mãn.
    Ngày Nhật đảo chánh 9-3-1945, quân đội Pháp ở Hà Giang-Lai Châu lùi sang Tàu. Ngày Nhật đầu hàng 2-8-1945, quân Pháp từ Tàu trở về Hà Giang-Lai Châu.
    Hai anh em Hiển và Miên vừa về gặp nhau ở làng Hạc Thủy, Hiển từ giã Miên để theo bộ đội lên Hà Giang đánh Pháp.
    Mùa thu 1948, Hiển theo một đại đội từ mặt trận Đông núi Tây Côn Lĩnh sang đột kích đồn Pháp bên mặt Tây núi này. Ngọn Tây Côn Lĩnh cao 2.431 thước trên cao nguyên Pac Khă, vào miền ranh giới Lao Kay – Hà Giang. Trên đường đi bộ đội Hiển gặp đồn Tây, bị bắn tả tơi; nhiều người chết, người sống đói lạnh. Thất bại vì quân báo kém. Ba tháng sau bộ đội Hiển vượt Tây Côn Lĩnh an toàn nhờ rút kinh nghiệm thất bại trước.
    1949-1950 Hiển rời Tây Bắc xuống tiếp tay cho bộ đội ở mặt trận đồng bằng: Thái Bình, Nam Định, Hưng Yên. Nhưng Hiển trở về địa bàn cũ để chuẩn bị những chiến dịch lớn. Rồi Hiển được cử sang Tàu học lục quân khóa 8. Sau chiến thắng Cao-Bắc-Lạng, để tránh phi cơ oanh tạc, trường lục quân Trần Quốc Tuấn rời khỏi Thái Nguyên, chuyển sang Côn Minh ở Vân Nam, địa điểm ở Phụng Minh Thôn.
    Trước khi lên đường, Hiển xin phép về Hạc Thủy thăm Miên, Miên cũng đang có mặt ở làng. Anh em gặp lại nhau sau 4 năm xa cách. Hiển xúc động thương đứa em côi cút của mình. Hiển vui mừng cho Miên biết được Đảng tin cậy nên được gửi đi học lục quân bên Tàu, Hiển mong rồi đây sẽ được kết nạp vào Đảng. Nghe như vậy, Miên lấy làm lo âu, Hiển ngay từ đầu lo xung phong ở chiến trường, chưa biết rõ Cộng sản. Thấy anh hãnh diện, hào hứng, Miên bật khóc.
    Nụ cười bình phong của Miên hết hiệu nghiệm vì nỗi lo âu Hiển sang Tàu và vì chính sách chống địa chủ. Đầu năm 1953, Việt Bắc chính thức phát động phong trào đấu tố. Từ xa Miên theo dõi vụ đấu tố bà Cát Hanh Long, trước kia là một ân nhân của Việt Minh, nay bị án tử hình. Miên nhận thấy những buổi học tập kiểm thảo đầy căm hờn, không còn đâu là lòng thương người.
    Sau khi chia tay với Miên bên bờ sông Đáy, Hiển vượt ngọn Tam Đảo sang Thái Nguyên, nhập đơn vị sang Tàu ở địa điểm Phụng Minh Thôn. Vừa đến Tàu, Hiển được cử sang Nga học về trọng pháo, mục đích để Hiển chỉ huy trung đoàn trọng pháo đầu tiên, linh hồn của chiến thắng Điện Biên Phủ. Đến Mạc Tư Khoa Hiển cùng hai người nông dân được hướng dẫn đi thăm một nông trường, một xưởng máy Staline sản xuất nông cụ, trường đại học Lénine, xe điện hầm. Hiển ngao ngán, tự ái bị xúc phạm, không muốn mình là đại diện của một nước nhược tiểu đến chiêm ngưỡng một nước đàn anh vĩ đại. Rồi Hiển được biết cuối cùng không được học khóa học đã dự định vì thiếu điều kiện giai cấp: Hiển không thuộc thành phần công nông. Hiển hoàn toàn dửng dưng.
    Một người cán bộ có cảm tình với Hiển, đến làm quen, nói đỗ tú tài triết sau Hiển một năm, Hiển đỗ tú tài toán. Người cán bộ đó là Kha, Kha cũng là người quen thân với Tân ở đồn điền Lợi Ký trước đó. Kha đã học khóa 7, nay vừa là học viên khóa 8 vừa là cán bộ phụ trách văn nghệ của hiệu bộ (văn phòng ban giám đốc trường).
    Kha kể trong khi khóa 7 đang học thì có lệnh đem kinh nghiệm Trung Hoa áp dụng vào trường lục quân: kinh nghiệm phát động Phong trào “tam phản” để khám phá những thành phần phản động Đảng. Cuộc kiểm thảo tam phản gồm những giai đoạn như sau:
    – Một “người điển hình” thú nhận những tội lỗi (tưởng tượng) của mình.
    – Đương sự lên bàn mổ, căn cứ vào những tội của người điển hình để thành thật khai tội của mình.
    – Các đồng chí căn cứ vào những lời thú tội để tìm ra căn bệnh.
    – Cấp lãnh đạo căn cứ vào những lời bộc lộ, dùng “ánh sáng của lý luận Mác Lê” để quyết định thành phần của đương sự.
    Tam phản là một cuộc tra tấn tâm lý gây nhiều vụ tự tử. Trong số các nạn nhân có Uy và Đồng là hai người bạn thân nhau từ thuở ở cô nhi viện, thương nhau như hai anh em ruột. Đồng đã bị tuyên truyền của tam phản đành tố cáo Uy, nhưng sau vì hối hận, vì quá thương bạn Đồng đã tự tử. Tuy nhiên có hai trường hợp phản kháng nhờ óc thông minh của hai đương sự đã gây lúng túng cho cấp lãnh đạo. Người thứ nhất là Hãng, còn nhớ Hãng là con trai ông bà Phán, chủ đồn điền Lợi Ký, từng du học ở Pháp, học luật ở Hà Nội. Hãng trở thành đảng viên, thành tích tranh đấu rực rỡ, lòng kiên trung, cương trực, thẳng thắn. Tuy thế Hãng bị ghi vào sổ đen vì thuộc hạng trí thức, con địa chủ. Hãng chưa lên bàn mổ. Ban lãnh đạo chờ Hãng viết thư phản tỉnh. Hãng đưa ra một bản tự thuật như sau: sinh năm 1921; 1939 du học Pháp; 1944 về nước học luật, giúp sổ sách buôn bán của cha mẹ; 1946 về đồn điền Lợi Ký ở Phú Thọ, chứng kiến một lớp huấn luyện cán bộ sản xuất; 1948 gia nhập bộ đội, theo đoàn quân Tây tiến; đầu năm 1951 có mặt ở trận Đèo Bông lau; trong năm 1951 có mặt ở chiến dịch đồng bằng Liên khu 3, bi bắt trong chiến dịch Citron của địch ở Hải Dương, thoát khỏi trại giam, trở lại bộ đội, được cử sang Tàu học lục quân khóa 7. Trong việc kiểm thảo nhân sinh quan, Hãng bị nhiều đảng viên tấn công, nhưng Hãng thông minh, sáng suốt, trả lời lưu loát, mạch lạc, khiến ban lãnh đạo tạm ngừng kiểm thảo.
    Người thứ hai đương đầu với ban lãnh đạo là Duy Hoàn, người có nhiều thành tích. Duy Hoàn bắt đầu kể tiểu sử của mình: mồ côi cha mẹ sớm, được người anh nuôi, tốt nghiệp trường canh nông, làm việc ở Thanh Hóa, thích kể chuyện ma nên được cảm tình nhiều người. Duy Hoàn vào bộ đội chiến đấu, truy kích binh đoàn Pháp trong chiến dịch Sông Lô, phục kích địch trên quốc lộ số 4, thuyên chuyển sang trung đoàn 42 để đặt mìn phá hoại đường số 5 cùng công đồn địch tại Hưng Yên, Hải Dương. Ở đâu Duy Hoàn cũng đi hàng đầu. Duy Hoàn được tặng Huy chương Chiến sĩ hạng nhất trước khi theo học lục quân khóa 7. Duy Hoàn đã từng chứng kiến cảnh người cộng sản thủ tiêu anh em Dân chủ đảng, cho nên Duy Hoàn chiến đấu cho kháng chiến chứ không cho cộng sản. Vì Duy Hoàn không phải là đảng viên, lại có tính nghệ sĩ nên bị đưa lên bàn mổ, bị chất vấn trong hai đêm. Không ngờ Duy Hoàn cao tay chơi trò đạo diễn cảnh thú tội vừa thủ vai tội phạm, sau khi thú hết tội lỗi của mình, Duy Hoàn lật ngược ván bài mà cho rằng những lời thú đó hoàn toàn sai bằng cách đưa ra những bằng chứng cụ thể và gọi tên những nhân chứng có mặt trong buổi hội thảo. Một tấn hài kịch làm cấp lãnh đạo mất mặt.
    Sau đó, căn cứ vào những kết quả gây nhiều căng thẳng ở trường lục quân trong đó có nhiều vụ tự tử, Trung Ương Đảng bộ trong nước ra mệnh lệnh tạm thời bãi bỏ tam phản. Hãng cảm thấy bộ mặt kinh tỡm của những kẻ lãnh đạo Đảng, điều mà Duy Hoàn biết từ lâu.
    Hiển nghe Kha kể chuyện lục quân khóa 7 như trên. Sở dĩ Kha không bị kiểm thảo là vì Kha không cha không mẹ, tham gia cách mạng sớm, ở khóa 7 Kha chỉ là người phụ trách văn nghệ, vẫn giữ những tôn chỉ của Đảng nên thoát khỏi “tam phản”. Kha nói khi còn ở trong nước tranh đấu cho Đảng tưởng mình tranh đấu cho dân tộc.
    Hiển và Kha đồng ý kiến về Đảng. Hiển chống lại việc Đảng hy sinh tính mạng con người để bảo vệ “thiên đường Sô Viết”, Hiển nhận xét Đảng có nhiều sai lầm. Kha tin Hiển vì Hiển chưa được kết nạp vào Đảng, và là một người tính tình ngay thẳng, không phải là một người phản bạn. Kha và Hiển bắt đầu thân nhau.
    Về phần Hãng đã ý thức đường lối tráo trở của Đảng và trở nên nghi kỵ. Hãng được cử về nước, nhưng không lên Việt Bắc trình diện ở Bộ Tổng Tham mưu mà về ngay đồn điền Lợi Ký, giữa đường gặp Vân, em gái của Hãng, Vân cho Hãng biết ông Phán bị đấu tố vì bị kết tội là điền chủ nên ông treo cổ tự vẫn. Còn Mạnh, chồng của Vân trước kia là chủ tịch huyện Thanh Ba, được cử làm tỉnh ủy viên ở Hải Dương, mất tích trong chiến dịch Citron. Hãng cho Vân biết chính Hãng cũng bị bắt trong chiến dịch này, và Mạnh được thả trước Hãng. Sau khi gặp Vân, Hãng về Hà Nội thăm mẹ và Thi. Trước khi ông Phán bị nạn, bà Phán đưa Thi về Hà Nội chữa bệnh.
    Hiển sau 3 tháng huấn luyện về bộ binh ở Phụng Minh Thôn được cử đến Mông Tự để được huấn luyện về pháo binh. Nhưng Hiển vờ ốm không đi Mông Tự. Còn Kha xin một công tác về nước sẽ quay trở lại.
    Hiển và Kha lên đường cùng ngày, đường đi nhiều chặng: từ Phụng Minh Thôn đi Khai Viễn hết một ngày xe lửa, từ Khai Viễn đến Nghiên Sơn phải hai ngày đi bộ đường núi, thêm một ngày đến Si Kai nơi con sông Lô bắt nguồn, rồi cả hai đi lên đỉnh núi Cổng Giời, từ Cổng Giời đến cầu Thanh Thủy, qua cầu là sang biên giới quê hương, dọc theo hữu ngạn sông Gấm họ qua Bác Me, Pac Van, Đại Thi, tới Tuyên Quang họ vượt sông Lô về huyện Lập Thạch, nơi Hiển đến tìm Miên. Hiển và Kha đều thuộc quân đội cấp chỉ huy, có đầy đủ giấy tờ để di chuyển. Một tuần lễ sau quân y viện Lập Thạch mới biết Miên theo người anh mất tích. Một tháng sau ở Phụng Minh Thôn, viên thiếu tướng chỉnh ủy mới biết đôi bạn Hiển Kha đã về vùng Quốc gia.
    Trong khi đó Hiển, Kha, Miên rời Lập Thạch, sang huyện Học Trì, lên Ngã Ba Lời, từ bến Lời đi thuyền một khúc sông, rồi lên đất liền đi 7 cây số, gặp đồn Bảo chính. Một ông lính bảo chính cười hóm hỉnh: “Các cháu bác Hồ phải không?”
    Khi chờ thuyền ở Bến Lời Kha nói: “Ba sinh hương lửa, ha ! Chúng mình thật là ba sinh hương lửa (…) Này nhé ! Hết Pháp thuộc đến Nhật thuộc rồi đến Việt Minh thuộc, thế chẳng là ba sinh hương lửa sao?”
    NGƯỜI ĐÀN BÀ BÊN KIA VĨ TUYẾN
    Cuốn truyện thứ hai này đánh dấu giai đoạn thứ hai trên con đường đi tìm tự do, với sự xuất hiện của những nhân vật thuộc thế hệ đàn anh.
    Khi đến vùng quốc gia, trước mắt Miên: Hình ảnh lá cờ vàng ba gạch đỏ phe phẩy thanh bình vẫy gió còn mãi mãi về sau này in hằn trong tâm tưởng Miên một ấn tượng của thịnh vượng và của tình người.
    Miên bắt đầu có cảm tình với Kha, người đồng hành với anh em Miên trên đường về thành, nhất là khi nghe Kha ngâm thơ, lòng Miên trở nên mềm yếu. Giờ đây Miên yêu thầm Kha.
    Khi đến vùng tề ở Vĩnh Yên, Kha gặp lại Luận, một người bạn cũ, nay là sĩ quan do Pháp đào tạo. Nhưng Luận nói: “Khi lâm trận mới thấy rằng mình chẳng bao giờ chết cho thực dân hết, mình chết để xây dựng một cái gì… một cái gì tốt đẹp và bền vững cho đất nước.” Luận cho biết rất yêu văn thơ và đã có những sáng tác đăng báo.
    Vào vùng quốc gia, Kha cũng như Miên đầy hân hoan theo dõi chuyện này chuyện nọ, trong khi đó Hiển nét mặt buồn buồn, ban đêm trằn trọc thở dài. Hiển nói với Kha: “Nghe mưa rơi nhớ Việt Bắc ghê. Nếu chúng nó không phản bội kháng chiến, sau này đất nước hoàn toàn độc lập, những kỷ niệm đó với mình quý giá biết chừng nào.”
    Từ ngày bỏ “ngoài kia” về thành, Kha và Hiển có cùng một tâm trạng: hy vọng quá mong manh, họ không dám nhìn vào thực trạng của xã hội. Kha chán ngán, ghê tởm những người bù nhìn do thực dân dùng. Nhìn đâu Kha cũng cảm thấy đổ vỡ.
    Nhưng Kha, Hiển, Miên may mắn gặp Khiết, Khóa, Luận, Lãng rồi có Hãng, kết hợp thành gia đình Văn Hóa.
    Một buổi chiều bất ngờ Luận đưa Khiết, Lê Tịnh Khiết, khoảng 36-37 tuổi, đến giới thiệu với nhóm của Kha. Khiết làm nghề luật sư nhưng thích hoạt động về văn hóa. Khiết đang làm chủ bút tuần báo Văn Hóa, một tờ báo của giới trí thức ưu thời mẫn thế nhất Hà Nội. Được biết Kha làm thơ và là người có tâm huyết, Khiết mời Kha cộng tác với tờ tuần báo.
    Khiết tâm sự với các bạn là đã trải qua nhiều cuộc phiêu lưu, nhiều biến cố trong đời chỉ vì yêu nước. Khiết đã gặp nhiều thất bại: thất bại chính trị vì Khiết có khuynh hướng dùng vương đạo mà gặp toàn là bá đạo. Khiết nói: “… tôi thấy rằng mình còn một con đường để dung hòa với chính mình, đó là con đường văn hóa, chỉ có con đường này giúp ta vươn lên cao hơn mọi khuynh hướng chính trị làm một cuộc tổng hợp, chỉ có con đường này giúp ta vươn tới trước mà thỏa sức vùng vẫy bơi lội trong lý tưởng của mình.” Khiết đã đi xa về chính trị: năm 1943, Khiết có ý định tổ chức Đoàn Thanh Niên Hưng Quốc một mặt tuyên truyền chống Nhật, Pháp, một mặt mua súng ống chống Nhật lẫn Pháp. Khi chính phủ Liên Hiệp thành lập xong cử một phái đoàn sang Trùng Khánh yết kiến Tưởng Giới Thạch, nhóm Khiết dùng áp lực bắt Việt Minh để ông Bảo Đại cùng đi, để sẽ tôn ông lên làm bình phong cho một mặt trận quốc gia thống nhất sau này. Nhóm của Khiết đến Nam Kinh, nơi tập trung các nhóm. Nhưng Bảo Đại không đến vì Ủy Ban Giải Phóng của ông thành lập với Trần Trọng Kim không được Tưởng Giới Thạch và tướng Marshall ủng hộ, vì Mỹ ngây thơ tin ông Hồ là người có tinh thần quốc gia. Cuối cùng nhóm của Khiết thành lập được Mặt Trận Quốc Gia Thống Nhất Toàn Quốc ở Thượng Hải vào năm 1947, nhưng bị Pháp phá. Khiết nhận xét trong cấp lãnh đạo, người có đạo đức thì thiếu khả năng và quá cổ, người có chút kiến thức thời thế thì tham quyền cố vị tranh giành nhau. Cho nên ngày đó Việt Minh thắng là phải.
    Rồi Khiết kể mối tình của mình với Cam, người thiếu nữ gặp ở Nam Kinh khi Khiết từ Thượng Hải về Nam Kinh. Từ Nam Kinh Khiết tìm đường về Việt Nam qua ngả Cao Miên, nhưng bị Pháp bắt đày đi Côn Đảo, may nhờ một người đồng đội từng hoạt động với Khiết can thiệp, xin ân xá cho Khiết. Trở về Hà Nội tình cờ Khiết gặp lại Cam và bà Đô, mẹ Cam, đồng thời quen biết với Khóa, anh của Cam.
    Bà Đô là một người phụ nữ đức hạnh, thông thạo chữ Hán, chữ Nôm và chữ quốc ngữ, biết giáo dục con cái. Bà có hai đời chồng, người chồng đầu là ông Đô Cán, cha của Khóa và Cam. Ông Đô chết bà lập gia đình với một người Tàu, chú Nìn, bà theo chồng sang sống ở Nam Kinh, bên Tàu. Bà Đô lập gia đình hai lần, nhưng cả hai lần đều do lòng biết ơn của bà. Khóa được bác Hải nuôi cho ăn học ở Lao Kay nên phải sống xa mẹ trong nhiều năm. Khi chú Nìn mất, bà Đô trở về quê hương với Cam, sau mười năm sống ở Nam Kinh, bà gặp lại Khóa, từ nay mẹ con sống gần nhau.
    Khóa thi đỗ vào sở Quan thuế ở Hà Nội, làm công chức được 5 năm thì đâm chán, xin từ chức, định thong thả sẽ lập ra buôn bán. Khóa chống Pháp vì đã thấy tận mắt quân Pháp giết dân mình một cách tàn nhẫn. Mặt khác, Khóa từ chối không tham gia Việt Minh, vì cho rằng họ không phải là người tốt, và có lần Khóa bị Việt Minh bắt, bịt mắt, dẫn ra miệng hố, suýt bị xử tử.
    Về Hà Nội bà Đô gặp lại Khiết mà mẹ con bà đã từng quen ở Nam kinh. Khiết từ Côn Đảo về đang xin giấy tờ để tập sự luật sư. Khiết và Khóa quen nhau và bắt đầu thân nhau.
    Khiết có ý nghĩ trở lại hoạt động văn hóa và tin tưởng vào sức mạnh của văn hóa. Một năm sau, khi thân thiết với Hiển, Hãng, Kha, Miên, Khiết mới thực hiện được mộng làm văn hóa. Khiết nói: “Chính những thất vọng đắng cay mà tôi trải qua đã giúp tôi đi sâu vào bản thể sự sống.”
    Khiết đã được bà Đô chấp nhận cho Khiết được lập gia đình với Cam, điều mà Cam cũng mong muốn.
    Như đã nói trên, cuốn NGƯỜI ĐÀN BÀ BÊN KIA VĨ TUYẾN đánh dấu giai đoạn 2 trong cuộc hành trình đi tìm tự do, và không gian là Hà Nội. Nơi đây các nhân vật chính đều hiện diện đông đủ. Họ là những thành viên của gia đình Văn Hóa do Khiết thành lập. Mỗi người đều có một vai trò: Khiết vừa là luật sư vừa điều khiển tờ báo Văn Hóa hướng về giới trí thức, Hữu, một người bạn Khiết mới quen ở Hà Nội, là một người có tư tưởng thâm sâu, có căn bản về triết lý, giúp lập trường của tờ báo thêm phong phú; Kha sáng tác thơ, Luận viết truyện, Lãng chuyên về phóng sự và có tài viết kịch, thổi kèn saxophone. Khóa có óc kinh doanh, sau khi từ chức ở sở Quan thuế, và từ chức hội viên Hội đồng thành phố, bèn tính chuyện thầu xây cất và giúp gia đình Văn hóa về mặt tài chánh. Khóa cũng giúp Tân có việc làm để có tiền tiếp tục học trường thuốc.
    Có hai người sắp lên đường đi xa: Hãng được học bỗng sang Pháp học luật, Hiển được gửi vào Nam học trường Sĩ quan Thủ Đức.
    Sau khi Hiệp định Genève đưọc ký kết vào tháng 7 năm 1954, phần đông dân chúng chống việc chia đôi Đất Nước. Khiết nói: “Tình cảm thì chân thành, nhưng thực lực thì không có, làm được gì bây giờ? (…) Cả hai mươi nhăm triệu con dân, trừ một thiểu số Cộng sản dĩ nhiên, cũng khóc thầm như vậy nhưng làm được gì bây giờ? Tụi Pháp mất mặt từ nay, Việt Minh lộ mặt từ nay, chúng mình vào Nam cố mà xây dựng gấp chính nghĩa Quốc gia.”
    Rồi phong trào di cư lớn mạnh, người đi kẻ ở đau lòng, bịn rịn nhau. Tân, trước đây được Khóa giới thiệu vào làm cho Viễn Đông Ngân Hàng để có tiền tiếp tục học ngành thuốc, Tân theo ngân hàng này vào Nam.
    Còn Khóa nhận lời cộng tác với hãng Autrex ở miền Trung, Khóa về đón mẹ, bà Đô, đưa bà vào Đà Nẵng.
    Kha đến thăm bà Phán, mẹ của Hãng, Vân và Thi ở làng Định Quyết, đề nghị đưa bà vào Nam, nhưng bà từ chối, Thi đã chết, bà muốn chờ Vân, và bà nhắn với Hãng lúc đó còn ở bên Pháp hãy về thẳng trong Nam, khi nào bà cải táng xong cho ông Phán, bà có thể vào Nam.
    Những thành viên của gia đình Văn Hóa lần lượt di cư. Khiết thì hẹn với độc giả sẽ gặp lại trong Nam.
    Chỉ có Hữu nhất quyết ở lại. Hữu can trường, nói sẽ kháng chiến chống lại cộng s ản.
    Trong các nhân vật trên đây, Kha là nhân vật nổi bật nhất. Kha tên Phạm Mạnh Kha, là người con duy nhất của ông bà Giáo Lãm ở làng Định Quyết. Tuy là con nhà khá giả, Kha giàu lòng thương người, thuở nhỏ đã giúp một người bạn nghèo, Kha thấu rõ hoàn cảnh những người nghèo, bạc phận, khốn đốn trong làng, như anh Cầu và hai người con gái tên Ngân và Tín. Cũng trong làng Định Quyết có gia đình ông bà Phán. Hai gia đình thân nhau. Kha là con người giàu tình cảm, lãng mạn. Kha và Vân yêu nhau. Lúc đó Vân học trường Pháp và có một người bạn tên Quỳnh Hương, con nhà nghèo Vân thường giúp đỡ. Kha đỗ tú tài ở Hà Nội, rồi học năm PCB, năm Dự bị khoa học, định sau này học trường thuốc. Khi quân Pháp vào đóng ở Hà Nội, Kha hoàn toàn bỏ học, gia nhập tự vệ khu phố. Trong không khí cách mạng tưng bừng, Kha nhận thấy mối tình đối với Vân chỉ là phụ trong một bối cảnh mênh mông, hùng vĩ của cách mạng.
    Rồi chiến tranh bùng nổ, gia đình ông bà Phán lên sống ở đồn điền Lợi Ký, ở Phú Thọ. Sau khi ông Giáo mất, Kha định mãn tang sẽ xin phép mẹ đi hỏi Vân làm vợ, nhưng bà Giáo cũng qua đời. Và hoàn cảnh chiến tranh đã làm cho cuộc đời của Kha và Vân chia đôi ngả, ly biệt nhau.
    Khi Kha cùng Hiển, Miên về thành thì Kha dạy học, đi thư viện, tham gia hoạt động của gia đình Văn Hóa. Miên làm y tá ở nhà thương Phú Doãn. Miên vẫn yêu thầm Kha.
    Gặp lại Tân cũng về tề, Kha vui mừng, hai người bạn nhớ lại thời quen nhau ở đồn điền Lợi Ký. Nay Tân tiếp tục học trường thuốc.
    Kha vẫn gắn bó với làng quê và bà con ruột thịt còn lại. Kha trở về làng Định Quyết để long trọng làm lễ giỗ mẹ với sự hiện diện của bà ngoại và bà con cô bác. Vào dịp này Kha gặp lại bà Phán, bà đưa Thi về Hà Nội chửa bệnh. Vân ở lại vùng kháng chiến và đã có một đứa con với Chủy, Nguyễn Đức Mạnh. Có tin Mạnh chết vì bom đạn, không tìm ra xác.
    Tình trạng đất nước khiến Kha có cảm tưởng một cái gì sắp đổ xuống đầu những người quốc gia: thực dân Pháp vẫn còn đó, những người quốc gia thì ươn hèn, tiêu cực. Hằng ngày cắm cúi viết, Kha nghĩ: Sống là cố gắng thường xuyên để tái lập một thế quân bình luôn luôn đổ vỡ. Tìm ý nghĩa của cuộc đời là tìm ý nghĩa của đau khổ, ý nghĩa này giúp Kha thêm can đảm, kiên nhẫn và thêm tin tưởng.
    Trong không khí rộn rịp của phong trào đi Nam, Kha và Miên – lúc đó Miên đã đổi về làm việc ở nhà thương Hải Phòng – đều có ý định cùng lên đường di cư. Vào Nam họ sẽ chờ Hiển ra trường để làm lễ cưới. Trước khi lên đường vào Nam, Kha trở về làng Định Quyết để từ giã bà con, Kha không cầm được nước mắt.
    Trở về Hải Phòng, giữa lúc Kha và Miên bàn tính với nhau về việc di cư thì bất ngờ Vân xuất hiện. Thấy vẻ sửng sờ của Kha, Miên biết rõ mối tình của Kha, bèn rút lui, và thừa dịp có lệnh của nhà thương gửi đến buộc Miên đưa thuốc men, dụng cụ vào Nam trước, Miên lên đường sớm không chờ Kha.
    Khi còn ở Hà Nội, Kha ao ước gặp lại Vân. Nhưng Vân lẫn tránh. Giờ đây ở Hải Phòng, Kha chờ lên đường với Miên thì đột ngột Vân xuất hiện. Không chờ đợi mà bất ngờ Kha đã trải qua với Vân những giờ phút hạnh phúc nhất đời. Đứa con của Vân vẫn bị Đoàn thể giữ làm con tin. Nghe Kha lo việc lên đường vào Nam, mắt Vân thoáng buồn. Vân cho biết đã đọc hết văn thơ Kha viết từ ngày Kha trở về Hà Nội, vùng Quốc gia. Kha khẳng định sự công phẫn của mình là của một tâm hồn ngay thẳng. Kha đóng góp vào công việc xây dựng mai sau dù là một đóng góp nhỏ nhưng có thực vì lòng nhiệt thành. Kha nói với Vân: “Giữa những dãy kéo, những bạo hành của cuộc đời, ta còn những người thân, còn những tri kỹ, nhưng điều cần nhất là còn chính mình, bởi vì khi mình không còn thì những ai kia còn cũng bằng thừa.”
    Kha và Vân sống qua một tuần lễ hạnh phúc. Đã một tuần qua tình yêu chứng nghiệm cho hai người thấy rõ rằng hương tự do, ánh sáng tự do ngào ngạt và chói lọi tỏa ra tự hồn họ. Họ không tự giải phóng, họ chính là sự giải phóng… Vân đến với chàng như một nghi lễ dâng lên cho sự sống muôn đời…
    Vào Nam, Kha nhận được của Vân ba lá thư. Vân viết: “Em muốn giữ lại miền Bắc một kỷ vật của anh, em muốn nuôi nấng đứa con đó – nếu có – theo tinh thần phóng khoáng của anh ở ngay miền tình cảm cằn cỗi này.
    Với anh, giờ đây em cũng là “Người đàn bà bên kia vĩ tuyến” NGƯỜI ĐÀN BÀ BÊN KIA VĨ TUYẾN của anh đã chấm dứt hàng chữ cuối cùng của lá thư cuối cùng này ở đây.
    Hôn anh một cái hôn làm nổ vỡ tinh cầu nhưng tình chúng ta thì chói rạng mãi mãi. Vĩnh biệt anh.”
    TÌNH YÊU THÁNH HÓA
    Anh em trong gia đình Văn Hóa đã di cư vào Nam, người đến trước, kẻ đến sau. Hiển vào Nam trước để học trường Sĩ Quan Thủ Đức, Hiển nói:”Từ nay cuộc chiến tranh đuổi thực dân giành độc lập chuyển sang giai đoạn mới, giai đoạn một cuộc chiến đấu lý tưởng giữa cộng sản và quốc gia, giữa độc tài và dân chủ. Sau Điện Biên Phủ, người Mẹ Quốc gia nhận những đứa con lạc đàn cuối cùng chạy về đùm bọc lấy nhau, chắt chiu lấy niềm hy vọng cuối cùng trên mảnh đất cuối cùng này.” Hiển, Kha, Miên cùng nhắc lại hình ảnh miền Nam: “… vào đến miền Nam người ta tưng bừng tái lập cuộc đời với ánh sáng miền Nam.”
    Hãng du học ở Pháp, nghe lời mẹ, bà Phán, về thẳng trong Nam. Bà Phán ở lại ngoài Bắc với Vân, bà chết sau Thi.
    Mọi người trong gia đình Văn Hóa họp nhau đông đủ để mừng Kha và Miên đã nên đôi vợ chồng. Rồi ai nấy lo công việc của mình.
    Khiết vừa làm luật sư vừa tiếp tục điều khiển tờ báo Văn Hóa với sự cộng tác của Kha, Lãng và Luận. Khiết bày tỏ lập trường của mình: “Tôi vẫn đứng ở lập trường văn hóa và tin tưởng rằng văn hóa là chiếc bè chuyên chở, đào luyện tư tưởng. Vào những lúc đổ vỡ nhất của lịch sử nhân loại chính những cơ sở văn hóa là những chiếc bè tế độ.” Khiết không còn đại diện chính phủ Việt Nam đi dự các hội nghị quốc tế, và chỉ trích chính phủ của Đệ nhất Cộng hoà. Khiết và những người có tâm huyết bí mật chống đối, vì thế Khiết bị chính quyền nghi ngờ đành nhờ Kha thay thế trông coi tờ báo Văn Hóa và đứng tên chủ nhiệm kiêm chủ bút. Phần Khiết sẽ lên Đà Lạt tiếp tục hành nghề luật sư. Kha nói với Khiết: “Cộng sản tất nhiên sẽ bị tàn lụi ở Việt Nam nhưng không phải vì hạm đội thứ bảy của Mỹ mà vì chủ nghĩa đó vấp phải một dân tộc có sức chống đối kỳ diệu, mặc kệ khổ đau ngang trái làm cho xác xơ, càng xác xơ lại càng không bao giờ chết bởi vẫn ủ được nguyên vẹn nguồn sống mãnh liệt bên trong.”
    Lãng, đỗ kỹ sư điện ở Pháp, có tâm hồn nghệ sĩ, thổi kèn saxophone, Lãng có óc cách mạng, chống thực dân Pháp. Ở Sài Gòn Lãng viết kịch được diễn trên đài phát thanh, trong mục “Sân khấu lớn”. Kịch của Lãng có đủ đặc tính gây cười, hờn giận, thương yêu. Một trong những vở kịch của Lãng kể Nghệ sĩ Còm nằm mơ thấy mình về thăm quê Bắc gặp Bác Hồ, nhà thơ Tố Hẩu và Sanh Ny (Sainteny người đại diện Chính phủ Pháp ở miền Bắc từ 1954 đến 1956). Nghệ sĩ Còm tranh cãi với Bác Hồ, chế nhạo nhà thơ Tố Hẩu và giải thích này nọ với Sanh Ny.
    Khóa thì hăm hở lo kinh doanh, muốn làm ăn phát đạt để xây dựng cho gia đình Văn Hóa một tòa nhà lớn gồm tòa soạn và nhà in. Mặc dù gặp thất bại, Khóa không sờn lòng.
    Còn Miên theo học cán sự y tế trong ba năm. Sau đó mở nhà bảo sanh ở khu Đa Kao với sự giúp đỡ của Khóa.
    Tân bạn của Kha, từ ngoài Bắc đi theo Viễn Đông Ngân Hàng vào Nam. Tân tiếp tục làm cho ngân hàng này để có tiền học nốt ngành thuốc. Tại Viễn Đông Ngân Hàng, Tân quen với Lê là chị em chú bác với Hiển và Miên. Tân Lê yêu nhau và trở thành đôi vợ chồng. Chẳng bao lâu Tân hành nghề y sĩ.
    Trong TÌNH YÊU THÁNH HÓA xuất hiện muộn màng một nhân vật mà độc giả thấy thoáng qua trong NGƯỜI ĐÀN BÀ BÊN KIA VĨ TUYẾN, đó là Quỳnh Hương, người bạn thân của Vân, em Hãng, hồi còn ngồi ghế nhà trường. Tuy xuất hiện muộn màng, nhưng nhân vật Quỳnh Hương lớn dần và chiếm trọn nửa phần sau của cuốn TÌNH YÊU THÁNH HÓA. Cuộc đời của Quỳnh Hương gặp nhiều nỗi truân chuyên. Quỳnh Hương sống với gia đình người anh, nhưng người anh đi kháng chiến mất tích. Người chị dâu độc ác không cho Quỳnh Hương tiếp tục đi học. Từ giã người chị dâu, Quỳnh Hương vốn có giọng hát hay, bèn gia nhập đoàn kịch lưu diễn của người cậu tên Kỷ. Chẳng bao lâu đoàn kịch bị lính lê dương bao vây, các diễn viên đều bị bắt, đưa về thành phố. Quỳnh Hương rủi ro rơi vào tay tên thủ hiến Bắc Việt Phùng Văn G có tiếng dâm ô, Quỳnh Hương bị thất thân với hắn. Khi có được giấy tờ căn cước, Quỳnh Hương trốn thoát và gặp một người thương binh Pháp bị cụt một cánh tay tên François. Quỳnh Hương cảm động trước thái độ lịch thiệp, tử tế, chiều chuộng của François, nên chia sẻ đời sống với người này. Nhưng chỉ 6 tháng sau, François phải hồi hương. Rồi Quỳnh Hương gặp một người Tây lai tên Pierre. Ít lâu sau Quỳnh Hương theo Pierre di cư vào Nam, rồi Pierre cũng hồi hương như François. Quỳnh Hương bày ra làm nhiều nghề để sinh sống, nhưng không mấy thành công, cuối cùng Quỳnh Hương trở thành một ca sĩ thượng hạng, đêm đêm đi hát ở các phòng trà và vũ trường.
    Vì Miên luôn bận rộn với công việc ở nhà bảo sanh, Hãng thường đến rủ Kha đi chơi, đến các phòng trà. Chính tại một phòng trà lần đầu tiên Quỳnh Hương xuất hiện dưới mắt của Hãng và Kha với bản nhạc Mambo Ý Đại Lợi. Quỳnh Hương nhận ra Hãng, anh của Vân, bạn mình khi xưa, mừng rỡ, xin đi theo. Hãng thì thường xem Quỳnh Hương như em gái của mình, và tỏ ra bao bọc, che chở. Phần Quỳnh Hương luôn kính trọng Hãng. Nhưng đối với Kha thì khác, ngay từ đầu Quỳnh Hương đã bị con người Kha lôi cuốn, cái nhìn của Kha không để người con gái nào dửng dưng cả, Miên rồi giờ đây Quỳnh Hương cảm thấy như bị cái nhìn đó thôi miên. Từ đó cả ba: Hãng, Kha, Quỳnh Hương thường gặp nhau. Kha và Quỳnh Hương ngày càng thân thiết, cùng khiêu vũ với nhau, đã có dịp hôn nhau, nhưng đến những lúc sự cám dỗ trở nên hừng hực thì Kha lùi bước. Phần Quỳnh Hương biết Kha đã có vợ. Quỳnh Hương yêu Kha nhưng ý thức rằng không thể nào chiếm được Kha trọn vẹn.
    Rồi xảy ra một biến cố thay đổi hẳn cuộc đời Quỳnh Hương. Một hôm Quỳnh Hương đi dự buổi khai mạc vũ trường Étoile Polaire và ra hát bản nhạc Đêm tàn bến Ngự. Trong đám khách mời, xuất hiện một tài tử điện ảnh quốc tế Karl P. cũng là nhà sản xuất phim. Karl P. mời Quỳnh Hương nhảy một bản blue, hai người chuyện trò làm quen với nhau. Karl P bèn nảy ra cái ý mời Quỳnh Hương sang Tây Đức đóng phim. Anh ta cho biết đang tìm một người phụ nữ Á đông cho cuốn phim anh ta đang thực hiện. Quỳnh Hương ngỡ ngàng, xúc động rồi nhận lời, nhưng còn nhiều vương vấn với quê hương.
    Quỳnh Hương vốn giàu lòng thương người, sống trong một khu lao động Quỳnh Hương giúp đỡ mọi người, nhất là gia đình ông bà giáo đông con. Nàng thấy rõ chính những nhọc nhằn của tình liên đới, gia đình đó giúp nàng trưởng thành gấp bội, nàng cần trưởng thành trong đất nước trước khi rời xa đất nước. Quỳnh Hương có cảm tưởng từ khi nàng gặp gia đình này, được đắm mình trong thương lo chia xẻ, tính tình nàng trầm xuống rộng ra, và hình như khôn ngoan lên rất nhiều.
    Quỳnh Hương bay qua Tây Đức, học tiếng Đức lớp cấp tốc. Rồi qua Áo, tại đây Quỳnh Hương đóng phim với nam tài tử Đức Schindler và thành công rực rỡ với cuốn phim “Tiếng hát lạ trên kinh thành Vienne”, trong phim Quỳnh Hương hát bản nhạc “Con thuyền không bến”. Còn Karl rất kiêu hãnh về Quỳnh Hương.
    Từ trong nước với thân phận người con gái gặp nhiều nỗi đắng cay, đến Tây Bá Linh Quỳnh Hương thở được không khí tự do, cảm thấy được tái sinh với chính mình, cảm thấy có đủ quyền tự định đoạt với giọng hát và bước nhảy của mình.
    Trong thời gian xa quê hương, Quỳnh Hương thường thư từ với Kha cho biết đầy đủ tin tức về những sinh hoạt nghệ thuật, thỉnh thoảng để lộ dấu hiệu yêu Kha, như khi Quỳnh Hương kể đã ngâm cho người Đức nghe bài thơ Tình tuyệt vọng do Khái Hưng dịch từ bài thơ nổi tiếng: bài Sonnet của Arvers, nhưng Quỳnh Hương cảm thấy không nên làm phiền Miên.
    Rồi đến lúc Karl cầu hôn Quỳnh Hương, và Quỳnh Hương nhận lời. Điều quan trọng nhất đối với Quỳnh Hương là có đủ khả năng để đi vào điện ảnh. Sau lễ cưới, Quỳnh Hương và Karl trở về Sài Gòn hưởng tuần trăng mật. Lowinski, người đạo diễn, cùng đi để nghiên cứu cho một cuốn phim mới. Từ trên lầu khách sạn Caravelle Quỳnh Hương nhìn xuống, thấy lại những nơi đã từng hành nghề chiêu đãi viên, nghề vũ nữ, nghề ca sĩ, cả một thời quá khứ đau buồn trở lại trong tâm trí và Quỳnh Hương không khỏi rơi nước mắt.
    NHỮNG NGẢ SÔNG TRÊN DÒNG ĐỜI (tức ĐÀM THOẠI ĐỘC THOẠI)
    Trong cuốn thứ tư này của bộ trường thiên tiểu thuyết, độc giả tiếp tục theo dõi đời sống của các nhân vật ở miền Nam.
    Khóa người có những dự án lớn lao về kinh tế, với mục đích giúp việc mở mang tòa báo Văn Hóa, nhưng chỉ gặp thất bại, lên Đà Lạt nghỉ, thì lại bị nhà cầm quyền nghi oan và bắt giam trong mười một tháng.
    Về phần Khiết, sau khi trao tờ báo Văn Hóa cho Kha, định lên Đà Lạt mở phòng luật sư, để tránh sự theo dõi của chính quyền. Nhưng cuối cùng Khiết ở lại Sài Gòn. Trong khi hành nghề luật sư, Khiết gặp phải một hoàn cảnh đau lòng: một thân chủ của Khiết bị án tử hình vì bị Việt Cộng ép buộc làm đặc công. Người thanh niên này sống ở vùng quê, có gia đình, sắp có đứa con thứ hai. Khiết có mặt khi người tử tù bị hành quyết, và Khiết vô cùng xúc động. Rồi đến lượt Khiết cũng bị bắt, bị tra tấn tàn nhẫn, bị giam trong một thời gian khá lâu, chỉ vì Khiết đã ảnh hưởng đến những người yêu nước dưới một chế độ không được lòng dân.
    Về phần Tân được cử làm y sĩ trong binh chủng nhảy dù, tại đây Tân gặp lại Phiệt, cậu bé năm xưa con của chú Tây, người đã dạy cho Tân cách lưới cá ngoài biển. Phiệt lớn lên làm liên lạc viên trong thời kháng chiến, rồi theo một người bác về tề, giúp bác buôn bán. Người bác ở gần một sân bay, Phiệt được dịp đến gần những binh lính nhảy dù lên xuống máy bay, thế là Phiệt say mê đời lính nhảy dù, và không bao lâu khoác bộ binh phục nhảy dù. Phiệt theo binh chủng nhảy dù vào Nam, sau khi quân Pháp rút về nước. Phiệt tham gia cuộc tảo thanh quân đội Bình Xuyên ở Rừng Sát. Năm 1960, khi Việt Cộng gây hấn ở Tây Ninh, binh chủng của Phiệt mới thật sự chiến đấu theo đúng truyền thống Phiệt mơ ước. Khi Tân gặp lại Phiệt thì Phiệt đã nổi tiếng là một binh sĩ ưu tú. Phiệt mồ côi sớm, khao khát tình thương nên xem Tân như một người anh. Tân cùng chung tiểu đoàn với Hiển và Phiệt. Có lần Phiệt đã cứu sống Tân, khi Tân đi kiếm một thương binh và đi lạc vào vùng của địch.
    Hiển có tiếng là người phá cầu, nay Hiển là sĩ quan tiền sát của một tiền đồn đóng ở ngã ba biên giới, trên một đỉnh cao. Từ tiền đồn Hiển thấy hai cây cầu sắt nối liền Việt Nam với Cao Miên. Địch quân thường tấn công các vùng ở miền Nam rồi rút về Cao Miên qua hai cây cầu này. Hiển đo tọa độ và gọi pháo binh yểm trợ, thế là Hiển thành công trong việc phá hai cây cầu. Về sau Hiển còn phá những cây cầu khác. Có lần sau một cuộc hành quân gian khổ, trên đường trở về, tiểu đoàn của Hiển, Phiệt qua một cái phà, qua gần hết chỉ còn đại đội của Phiệt thì thình lình Việt cộng xuất hiện phá vỡ cái phà và bắn xả vào đại đội. Hiển đi trước trở lại cứu đồng đội. Phiệt bị thương nặng ở chân. Tân mổ vết thương của Phiệt lấy đạn ra và Phiệt được đưa về bệnh viện Cộng Hoà ở Sài Gòn. Khi Phiệt bình phục, đi đứng khập khiễng thì Tân hỏi Phiệt có muốn giải ngũ không, Tân sẽ giúp làm hồ sơ, và Phiệt sẽ về sống với gia đình Tân. Nhưng Phiệt từ chối, xin ở lại phục vụ quân đội trong ngành quân nhu, ban chung sự, lo chôn cất tử sĩ. Phiệt có một tâm hồn rất đẹp, ân cần săn sóc những xác chết như Tân ân cần săn sóc những thương binh ở bệnh xá.
    Phần Tân tuy đã hành nghề y sĩ nhiều năm nhưng không khỏi xúc động trước cái chết của các bạn đồng đội hay của các bạn đồng học khi xưa. Tân chỉ tạm thấy khuây khỏa khi phải bận rộn bên bàn mổ cấp cứu cho bạn cũng như cho thù. Nguồn an ủi của Tân là Phiệt.
    Tân cảm thấy thương Hiển khi Hiển nói thèm địa vị thầy thuốc của Tân, băng bó, săn sóc cho cả hai bên, không mặc cảm. Trong khi Hiển phải chiến đấu bằng súng đạn, thật đau lòng. Hiển nhận thấy Cộng sản đưa dân tộc vào cái thế anh em trong nhà truy nã nhau, tận diệt nhau như kẻ thù, thật là nhục nhã.
    Còn Khóa từ khi được phóng thích trở về Sài Gòn thì đâm ra làm thơ.
    Khiết tuy đã trải qua những gian lao trong nhà tù, nhưng trong lòng không hề có sự căm thù, vì Khiết vẫn giữ hình ảnh của người tử tù lòng thanh thản nhìn thẳng cái chết.
    Trong NHỮNG NGẢ SÔNG TRÊN DÒNG ĐỜI, cuốn chót của bộ trường thiên tiểu thuyết, tác giả Doãn Quốc Sỹ chỉ trích khắt khe chính quyền thời Đệ nhất Cộng hòa. Phải chăng để nhắc rằng đi tìm tự do là luôn luôn tranh đấu và chỉ có văn hóa là khí giới giúp vượt mọi khó khăn.

II NGHỆ THUẬT DỰNG TRUYỆN KHU RỪNG LAU
Như đã nói, Doãn Quốc Sỹ đã tận dụng các yếu tố tự sự như không gian, thời gian và nhân vật để tạo nên bộ trường thiên tiểu thuyết.
Không gian là lãnh thổ Việt Nam, đi từ núi rừng Việt Bắc, có khi tràn qua Trung Hoa, rồi băng qua những làng mạc, sông rạch như sông Đáy, sông Lô, bến Lời, xuống dần phía Hà Nội, Hải Phòng, vào Nam đến Đà Nẵng, Hội An, vào Sài Gòn, lên Đà Lạt, đến vùng Cao Nguyên, v.v. Cách miêu tả tỉ mỉ của Doãn Quốc Sỹ tạo nên những cảnh tượng sống động khiến độc giả có cảm tưởng như thấy trước mắt. Những ngôi làng ở miền Bắc, như làng Định Quyết của Kha, ngày giỗ mẹ Kha, bà con, hàng xóm đến tấp nập với những mâm cỗ… Hoặc những khu xóm lao động ở Sài Gòn với hạng người bình dân cãi cọ, chửi bới nhau, những phòng trà, những vũ trường gợi lên cái không khí xa hoa, ăn chơi, rồi những núi rừng Cao nguyên nơi có những cuộc hành quân gian khổ của các tiểu đoàn Quân Lực Việt Nam Cọng Hòa.
Yếu tố thời gian là dòng lịch sử Việt Nam vào thế kỷ 20, từ thời kháng chiến chống Pháp, thời Việt Minh, thời đất nước chia đôi và đời sống ở miền Nam.
Đặc biệt nhất là yếu tố nhân vật.
Học giả Umberto Eco, nhà ký hiệu học nổi tiếng ở Âu châu và cũng là nhà văn, tác giả của truyện Le nom de la rose (Tên của hoa hồng), đã tỏ bày những bí quyết của ông về sự sáng tạo tác phẩm trên. Ông viết: “Tôi nghĩ rằng để kể truyện thì phải trước tiên tự xây dựng một thế giới, một thế giới được bày biện, trang trí tột bực, cho đến những chi tiết nhỏ nhất (…), phải xây dựng thế giới, rồi từ ngữ đến sau, gần như một cách tự nhiên.”[2]
Bày biện một thế giới là định vị trí những sự kiện trong một không gian và trong một thời gian. Là cấp cho những con người một số đặc tính nào đó.
Đi vào KHU RỪNG LAU độc giả khám phá một thế giới mênh mông với đông đảo nhân vật, lớp này đến lớp kia: từ những nhân vật cốt lõi đến những nhân vật phụ quan trọng và không quan trọng, những nhân vật mà một thời gian sau gặp lại với nhiều thay đổi và những nhân vật chỉ thoáng qua một lần rồi biến mất. Toàn thể những nhân vật đó được sắp xếp theo một cấu trúc và cuối cùng họp thành một hệ thống, hơn thế nữa thành một xã hội. Ở trung tâm hệ thống có những nhân vật cốt lõi được chia ra làm hai thế hệ: thế hệ trẻ xuất hiện trong BA SINH HƯƠNG LỬA, trưởng thành trong thời kháng chiến, gồm: Tân, Hiển, Miên, Kha, Hãng. Chỉ trong cuốn thứ hai: NGƯỜI ĐÀN BÀ BÊN KIA VĨ TUYẾN, mới thấy xuất hiện thế hệ đàn anh, được gọi thế hệ Nguyễn Thái Học vì họ sống với tinh thần dấn thân của Nguyễn Thái Học, thế hệ này gồm: Khóa, Khiết, Lãng, Luận. Xung quanh những nhân vật chính của hai thế hệ có vô số những nhân vật phụ có quan hệ mật thiết với các nhân vật chính.
Đặc điểm của Doãn Quốc Sỹ về việc xây dựng nhân vật đông đảo có thể do ảnh hưởng của các tiểu thuyết Nga như tiểu thuyết của Tolstoï, của Dostoïevski, có tiếng là có vô số nhân vật, vì Doãn Quốc Sỹ có trong tủ sách của ông tác phẩm của hai bậc đại văn hào này.

III GIÁ TRỊ BIỂU TƯỢNG CỦA CÁC NHÂN VẬT
Mỗi nhân vật chính trong KHU RỪNG LAU có một đặc tính tiêu biểu cho một mẫu người trong xã hội.
Khiết, người anh cả trong gia đình Văn Hóa, là con người của văn hóa. Khiết tuyên bố với mấy anh em: “… bao giờ thì văn hóa chẳng là ngọn triều có thể đi xa và thấm sâu hơn cả trong quảng đại quần chúng để làm chất men ủ mầm cho mọi trào lưu tiến hóa, đó là lĩnh vực của chúng ta.”
Khóa thông minh, nhiều sáng kiến, luôn có những dự án lớn lao về kinh tế. Còn Hãng được may mắn đi du học, lúc trở về giúp Nước Nhà mở mang ngành thương mại quốc tế. Hiển là một chiến sĩ kiên dũng, tham gia những chiến trường sôi động từ thời kháng chiến chống Pháp đến thời nội chiến Quốc Cộng. Hiển và Phiệt là những nhân vật tiêu biểu cho người anh hùng của Đất Nước. Tân thì hành nghề y sỹ, tha thiết với mạng sống của con người. Còn Kha là một nghệ sĩ, thích làm thơ, có những suy nghĩ về thời cuộc và những quan niệm về người nghệ sĩ. Kha nói với Quỳnh Hương: “Thành công trong nghệ thuật là đã tự cắm hoa lên đời mình lúc sống, tự đặt hoa lên mộ mình lúc chết.”
Về phía phụ nữ có Miên dịu dàng, đầy lòng nhân ái, muốn đem hạnh phúc đến cho kẻ khác bằng nghề nghiệp của mình.

IV TÌNH NGƯỜI
Đặc điểm nổi bật trong truyện của Doãn Quốc Sỹ là tình người. Nơi nào cũng có những con người thương yêu nhau. Trong làng Hạc Thủy, bà Quản Mão thấy ba anh em Hiển, Miên và Mẫn trong cảnh mồ côi bèn đem về nuôi nấng. Kha thương những người nghèo trong làng mình. Vân hồi còn đi học thường giúp đỡ người bạn nghèo là Quỳnh Hương. Còn Tân thương Phiệt như đứa em của mình.
Đáng chú ý nhất là tình anh em trong gia đình Văn Hóa, mọi người thương yêu nhau, giúp đỡ nhau. Anh em tổ chức tiệc trà mừng lễ thành hôn của Kha và Miên. Khi Khóa bị ở tù oan ở Đà Lạt thì anh em Văn Hóa thay phiên nhau lên thăm. Còn Hãng muốn lập gia đình thì đã có Khiết và Kha đại diện đàn trai đi hỏi vợ cho Hãng.
Về phần Quỳnh Hương, vốn giàu lòng thương người, Quỳnh Hương tận tình giúp đỡ một gia đình láng giềng trong khu lao động, gia đình ông bà Giáo. Quỳnh Hương cảm thấy lòng thương người làm cho con người mình trưởng thành, lớn lên và mở rộng với mọi người. Mặt khác Quỳnh Hương yêu Kha, nhưng biết Kha có những ràng buộc gia đình, Quỳnh Hương đành câm nín, đó là một tình yêu được thánh hóa.
Trên con đường đi tìm tự do để phụng sự Đất Nước, những con người đồng hành thương yêu nhau, đoàn kết với nhau, và mỗi người, theo khả năng riêng của mình, mang một sứ mệnh đối với Tổ Quốc.

************
Vào cuối đời, nhìn lại trường thiên tiểu thuyết KHU RỪNG LAU, tác giả Doãn Quốc Sỹ có những cảm nghĩ gì?
Trong cuộc phỏng vấn của Việt Báo ở California, để mừng sinh nhật thứ 97 của Doãn Quốc Sỹ, ông nói về KHU RỪNG LAU như sau: “Có nhiều khi đọc lại KHU RỪNG LAU, tôi cũng không hiểu tại sao mình có thể hoàn tất được bộ tiểu thuyết ngàn trang này. Tôi nhớ là vào thời đó, có khi tôi ngồi viết như người lên đồng, viết giống như có ông bà tổ tiên nhập vào vậy. Tôi nghĩ rằng tôi chỉ được Trời cho năng khiếu sử dụng ngòi bút của mình. Còn lại, tôi viết như theo lời nhắn nhủ siêu hình của tổ tiên, viết theo hồn thiêng dân tộc để phục vụ Tổ quốc.”

[1] Nguyễn Ngu Í, Sống và viết với… Xuân Thu tái bản ở Hoa Kỳ.

[2] Umberto Eco, Apostille au Nom de la rose (Cước chú về tác phẩm “Tên của hoa hồng”), Nxb Grasset, Paris, 1985.