Người phụ trách Văn Việt:

Trịnh Y Thư

Web:

vanviet.info

Blog:

vandoanviet.blogspot.com

Danh ngôn

Trong mọi cộng đồng, chúng ta cần một nhóm thiên thần gây rối.

We need, in every community, a group of angelic troublemakers.

(Bayard Rustin – trích bài phát biểu tại New York City 1963)

Trong mọi trường hợp, chắc chắn rằng sự thiếu hiểu biết, đi kèm với quyền lực, là kẻ thù tàn bạo nhất có thể có của công lý.

It is certain, in any case, that ignorance, allied with power, is the most ferocious enemy justice can have.

(James Baldwin - No Name in the Street 1972)

Các cuộc cách mạng và các cá nhân có thể bị giết hại, nhưng bạn không thể giết chết các ý tưởng.

While revolutionaries and individuals can be murdered, you cannot kill ideas.

(Thomas Sankara, một tuần trước khi bị ám sát, 1987)

Không có cảm giác nào cô đơn hơn việc bị chính đất nước mình trục xuất.

There's not a more lonely feeling than to be banished by my own country.

(Kiyo Sato – Kiyo’s Story 2009)

Ban Biên tập

Địa chỉ liên lạc:

1. Thơ

tho.vanviet.vd@gmail.com

2. Văn

vanviet.van14@gmail.com

3. Nghiên cứu Phê Bình

vanviet.ncpb@gmail.com

4. Vấn đề hôm nay

vanviet.vdhn1@gmail.com

5. Thư bạn đọc

vanviet.tbd14@gmail.com

6. Tư liệu

vanviet.tulieu@gmail.com

7. Văn học Miền Nam 54-75

vanhocmiennam5475@gmail.com

Tra cứu theo tên tác giả

Thứ Bảy, 21 tháng 6, 2025

Không khói hoàng hôn (Tập III - kỳ 14)

Nguyễn Thị Kim Thoa

Mấy điều trao đổi cùng ông Bùi Tín và… (phần 2)

Thưa ông Bùi Tín,

Điều gì sẽ sảy ra khi Việt Minh và chính phủ Việt Nam Dân Chủ Cộng Hòa tự đặt mình trong tình thế ấy tại hiệp định Genève?

Chắc như đinh đóng cột rằng ít nhất sáu chục năm sau (2004) có một người tên Bùi Tín, một chiến sĩ chống Cộng trễ tràng, một chiến sĩ dân chủ, một người đấu tranh cho sự thật (?) sẽ viết và nói trên các diễn đàn tự do ở miền Viễn Tây rằng: “nhóm Cộng Sản ở Hà Nội (từ của Bùi Tín) đã hèn hạ sáp nhập đất nước Việt Nam yêu quí vào lãnh thổ của Thiên triều, cam phận làm những chú Chệt hạng bét”!

Cũng may mà lịch sử đã diễn ra không theo hướng đấu tranh của ông Bùi Tín.

Có một sự thật các nhà nghiên cứu Việt Nam, ở bên này hay ở bên kia lằn ranh giới Quốc – Cộng, chẳng biết vì lí do gì không lưu ý đến, là dù thế nào đi nữa (yêu nước hay tay sai, anh hùng hay tiểu nhân, tốt hay xấu, tài trí hay dở ẹc…), những thành viên trong đoàn đàm phán Việt Nam, cũng chỉ là những du kích xanh xao, ốm o vàng vọt từ rừng núi bước ra đấu trường bang giao quốc tế, sau lưng họ là một đất nước tan nát, đau thương do chiến tranh nghèo đói, lạc hậu và nội thù, bên cạnh họ là “những anh em đồng chí có điều kiện, có giới hạn, có tính toán riêng”, họ đối mặt, đương đầu với những nhà ngoại giao chuyên nghiệp, lão luyện và cáo già đại diện cho những nền ngoại giao có truyền thống hàng trăm năm, đồng thời đại diện cho những quốc gia có nền văn hoá, văn minh rực rỡ tiên tiến đang lên, có nền kinh tế quốc phòng hàng đầu thế giới. Trước tương quan lực lượng như vậy mà đòi hội nghị Genève kết thúc với thành quả to lớn hơn những gì đã đạt được là một động thái của cảm tính, của tham lam, chứ không phải là suy nghĩ, cung cách của những người bình tĩnh có phán đoán hợp lí và công bằng.

Phía những người Việt Nam Quốc Gia tố cáo Hồ Chí Minh, đảng Cộng Sản Việt Nam là tay sai Nga – Hoa, cấu kết với thực dân Pháp chia cắt đất nước là không thành thật với mình, là bất công với người. Nếu đây là mánh lới tuyên truyền thời chiến thì còn có thể hiểu được. Đằng này, khi tình thế lịch sử đã vượt qua mà một nhà báo, một trí thức (?) nhân danh đấu tranh cho sự thật, cho khoa học, đặc biệt cho dân chủ, mà thông tin, qui kết bừa bãi là thiếu ý thức xây dựng và đương nhiên là phản tác dụng.

Phía Việt Minh và Đảng Cộng Sản, không ít người tỏ ra thất vọng và phẫn nộ quá đáng trước áp lực của “đảng bạn”, của các “đồng chí” Trung Quốc, Liên Xô vĩ đại, của “một trong hai trung tâm cách mạng vô sản thế giới”, để thành quả của hội nghị Genève không tương xứng với chiến thắng vang dội ở chiến trường, cũng chứng tỏ một tình trạng chưa trưởng thành về nhận thức, chứng tỏ sự ngây thơ hoang tưởng về cái gọi là “tinh thần quốc tế vô sản trên toàn thế giới”, chứng tỏ sự tham lam vô lí đòi được hưởng thụ nhiều hơn những gì mà nhân dân Việt Nam đã làm được bằng chính sức lực của mình. Thử hỏi không có sự giúp đỡ, chi viện của Liên Xô, của Trung Quốc thì Việt Minh, chính phủ Việt Nam Dân Chủ Cộng Hoà do Hồ Chí Minh và đảng Cộng Sản Việt Nam lãnh đạo với sự đồng tình, tham gia, chiến đấu anh dũng của nhân dân và chiến sĩ có đánh thắng được quân Pháp ở Điện Biên Phủ hay không? Ông Bùi Tín nghĩ thế nào, chứ theo thiển nghĩ của một người trung bình như tôi là không. Con người ta sống ở đời, dù làm bất cứ việc gì (làm chiến tranh, làm cách mạng, làm kinh tế, làm văn hoá, kể cả làm từ thiện…) cũng tự (hoặc bị) đặt mình trong những tương quan. Và tất cả mọi tương quan, dù chủ động hay bị động, đều hạn chế và có điều kiện. Tại Hội nghị Genève, người Nga đòi lại phần nào những đóng góp của họ cho Việt Minh. Người Trung Quốc không những chỉ đòi lại vốn mà cả phần lời. Nhiều người trong chúng ta có dư thừa kinh nghiệm và hiểu biết về những chú Khách làm ăn buôn bán giỏi. Mà buôn bán giỏi đương nhiên sẽ kiếm được nhiều lời. Không biết được thực tế đó mà đi làm kinh tế thị trường thì chắc chắn chẳng lấy gì mà tiến lên Xã hội chủ nghĩa. (Phải chăng có một Xã hội chủ nghĩa ở phía trước thật sao?)

Cái gọi là “nghĩa vụ quốc tế”, lí tưởng Cộng Sản, không phải hoàn toàn trống trơn trong tim óc của Stalin, của Mao Trạch Đông, Chu Ân Lai…Tuy nhiên, cũng như Hồ Chí Minh, tất cả các lãnh tụ ấy đều là tim óc, máu thịt, xương tuỷ của tổ quốc họ trước khi đến với chủ nghĩa Marx và phong trào Cộng Sản Quốc Tế.

Môlôtôp, Chu Ân Lai, và cả những trưởng đoàn đàm phán của Pháp, Anh, Mỹ - trước hết - ở Genève, đã hành động vì quyền lợi của tổ quốc họ, của phe Xã Hội Chủ Nghĩa hay phe Thế Giới Tự Do… Tất cả đều là những tương quan giới hạn, có điều kiện và tuỳ thời.

Bởi Nga và Trung Quốc đòi nợ, nên với những chiến thắng ở mặt trận và qua những hạn chế ở bàn hội nghị, đến cuối hè 1954, kháng chiến Việt Nam mới giành lại được một nửa đất nước từ tay thực dân Pháp.

Đâu chỉ có người Nga, người Trung Quốc đòi nợ. Cả người Mỹ cũng đòi nợ đó thôi. Gần 80% kinh phí để thực dân Pháp tiến hành cuộc chiến tranh phi nghĩa ở Đông Dương do Mỹ đóng góp. Tại bàn hội nghị, xem ra Pháp với sự lèo lái của Mandes France đã đạt được những mục tiêu họ đề ra. Những mục tiêu ấy được đề ra trước tình hình bị đánh bại thê thảm trên chiến trường Điện Biên Phủ. Vả lại sau hiệp định Genève một vài năm họ đã trắng tay hoàn toàn. Phải chăng đó là sự bàn giao giữa ông chủ Pháp với nước bạn đồng minh Hoa Kỳ để thanh toán món nợ này? Có vay có trả là qui luật phổ biến, phải không ông Bùi Tín?

Có lẽ các nhà nghiên cứu đứng đắn còn phải làm việc nghiêm túc và nhiều hơn nữa để làm sáng tỏ nguồn gốc của cuộc chiến tranh Đông Dương lần thứ hai. Cuộc chiến tranh mà người Mỹ gọi là chiến tranh Việt Nam, người Cộng Sản (Việt Nam) gọi là cuộc chiến tranh chống Mỹ cứu nước, người Quốc Gia gọi là cuộc chiến tranh xâm lược của Cộng Sản miền Bắc.

Thưa ông Bùi Tín,

Quả tình là vào thời điểm này (2006) tôi không còn một chút hứng thú nào để chia sẻ những cáo buộc về những cái mà ông gọi là “tội lỗi và sai lầm của nhóm Cộng sản ở Hà Nội” đối với đất nước dân tộc trước, trong và sau hiệp định Genève. Chúng tôi nghĩ, sức mạnh kháng chiến của cả dân tộc khởi đầu từ 1858 đến 1954 là một quá trình chống lại và đẩy lui chủ nghĩa thực dân. Có lúc thất bại ê chề. Có lúc thắng lợi vinh quang. Có lúc lầm lạc thụt lùi. Có lúc đĩnh đạc tiến lên. Và đứng trên lập trường Việt Nam (không Cộng Sản và cũng không Quốc Gia) mà nói: Hiệp định Genève, thời điểm 1954 là một điểm tốt, điểm giữa của cuộc hành trình tìm lại hồn xác cho tổ quốc. Nó không phải là một thắng lợi tương xứng với những thành quả trên chiến trường. Nó chưa phải là thắng lợi cuối cùng, nhưng nó hoàn toàn không phải là một thất bại ê chề nhục nhã để rồi qui kết, chửi bới lẫn nhau giữa phe này phía nọ do những nhu cầu chính trị nhất thời. Hơn nửa thế kỷ đã đi qua từ khi hiệp định Genève ký kết, hơn ba mươi năm sau ngày hồn xác tổ quốc đã được phục hồi, hơn ba mươi năm hồn của dân tộc có lúc tưởng chừng mịt mùng hương khói bởi cái chứng hoang tưởng của căn bệnh tâm thần phân liệt mắc phải nơi những con người ưu tú, những anh hùng dân tộc trên những nẻo đường khổ nạn đi tìm thuốc cho căn bệnh ngặt nghèo của đất nước; lúc này, hơn bao giờ hết, 80 triệu người Việt Nam cần có những suy nghĩ, phát biểu, hành động tỉnh táo và lành mạnh hơn.

Thưa ông Bùi Tín,

Thế đó, tôi không nhất trí với ông về những nét lớn của những thông tin và qui kết của ông về hiệp định Genève. Và hoàn toàn chẳng phải vì lí do vọng ngoại mà tôi gần gũi với những dòng tóm lược sau đây của hai tác giả người Mỹ: William.L. Griffen và John Marciano:

“Hiệp định Genève, ký kết vào mùa hè năm 1954, thiết lập một đường ranh giới ngưng bắn gần vĩ tuyến 17 để hai bên rút quân, người Pháp về phía Nam, Việt Minh về phía Bắc, người Pháp tập kết để sau đó rút quân về nước và khoảng năm 1956 một tổng tuyển cử phải được tổ chức để chọn ra chính phủ thích hợp nhất”.

Vĩ tuyến 17 không chia đôi đất nước. Chương 1, điều 1 của hiệp định Genève qui định. “Một đường ranh giới quân sự tạm thời được vạch ra để lực lượng của hai bên tập kết về phía sau khi rút quân.” (tác giả nhấn mạnh). Mục 6 của tuyên bố cuối cùng qui định rằng: “đường ranh giới quân sự là tạm thời và trong bất cứ trường hợp nào cũng không được coi là biên giới lãnh thổ hay chính trị”. (Talawas 0307:14.2.2006).

Cho dù Hiệp định Genève được công bố hay dấu nhẹm ở mỗi vùng. (Cộng Sản hay Quốc Gia), và vĩ tuyến 17 thực tế được xem là “đường ranh giới tạm thời” trong mắt nhìn của Việt Minh, hay biến thành “biên giới lãnh thổ chính trị”, trong mắt nhìn của người Quốc Gia. Cho dù theo các luận điểm của chính quyền miền Nam, được Mỹ hậu thuẫn và muộn màng hơn (những năm đầu của thiên niên kỷ thứ ba) theo nhận thức của ông Bùi Tín thế nào đi nữa… thì theo tôi đất nước Việt Nam, theo tinh thần của Hiệp định Genève, trong những chừng mực nào đó cơ bản đã thuộc về người Việt Nam – người Việt Nam Cộng Sản ở miền Bắc đồng minh và lệ thuộc Liên Xô – Trung Quốc mức độ nào đó, và người Việt Nam Quốc Gia ở miền Nam cũng là đồng minh và lệ thuộc Mỹ mức độ nào đó.

Cộng sản - Quốc gia, đồng minh - lệ thuộc, thực chất nặng nhẹ ra sao, bản chất hay hiện tượng, là một vấn đề lớn; các nhà nghiên cứu và cả nhân dân còn phải trao đổi, phanh phui, trầm tư để tiếp cận và nắm bắt sự thật để, từ đó, rút ra bài học lịch sử cho các thế hệ Việt Nam mai sau và cho cả thế giới. Việc làm này đòi hỏi mọi người trong chúng ta, ở trong hay ngoài nước, cần phải giữ cho cái đầu mình mát mẻ, trí tuệ mình sáng suốt, tỉnh táo, tấm lòng mình ngay thật, rộng mở, công bình và thương yêu.

Tôi xin mở một ngoặc đơn để mạo muội đưa ra một nhận định, đề nghị ông Bùi Tín và quí vị độc giả đọc thư này sửa chữa bổ sung, là: Chính nhờ cuộc chiến tranh Đông Dương lần thứ nhất, nhờ các đề kháng của Việt Minh và chiến thắng Điện Biên Phủ, đặc biệt nhờ có hiệp định Genève còn rất nhiều hạn chế mà những người Quốc Gia, Cộng Hòa, sau 1954, mới có được một chỗ đứng tương đối vững chắc tại miền Nam, và trên trường quốc tế một thời gian.

Tuy nhiên, những người Quốc Gia và Cộng Hòa ấy đã đánh mất thời cơ (hiệp định Genève), đã tự huỷ hoại mình, huỷ hoại phe đảng mình, huỷ hoại cái mà họ thường rêu rao là “chính nghĩa Quốc gia”, một khi họ bắt chước y chang đảng Cộng Sản mà “độc tài đảng trị”. Đảng Cần Lao Nhân Vị, đảng Kaki, Đại Việt, Quốc Dân đảng, Đảng Công Giáo, đảng Phật giáo, đảng Dân chủ… đều như thế cả. Tất cả đều nhân danh Quốc Gia – Dân Tộc, Tự Do – Dân Chủ mà không giương cao được bất cứ ngọn cờ nào. Cái khác nhau giữa những người Cộng Sản và người Quốc Gia trong thời chiến – (chỉ trong thời chiến thôi) là ở chỗ này.

Người Cộng sản vừa nhân danh (hay mang tiếng) chủ nghĩa Quốc tế, nhưng đồng thời nắm chắc ngọn cờ Dân tộc. Vì bởi ngọn cờ Dân tộc ấy mà nhiều người Việt Nam, tuy không tiếp thu được học thuyết Marx – Lenin, nhất là không đồng tình với những sách lược chuyên chính mà đảng Cộng Sản vẫn áp dụng tùy lúc tuỳ nơi, vẫn cống hiến xương máu, gia tài sản nghiệp, chấp nhận sự lãnh đạo của đảng Cộng Sản để đấu tranh cho độc lập và thống nhất tổ quốc.

Đến khi có độc lập, thống nhất rồi thì đảng Cộng Sản đã không hiểu được điều đơn giản rằng: độc lập, thống nhất chung quy cũng để có tự do và hạnh phúc thôi.

Đảng Cộng Sản đã để rơi ngọn cờ Dân tộc khi áp đặt sự lãnh đạo toàn diện và tuyệt đối, tước đoạt hết các quyền tự do, dân chủ cơ bản, cưỡng bức nhân dân xây dựng thiên đường hoang tưởng.

Bởi nói cho cùng độc lập và thống nhất tổ quốc chẳng có nghĩa lí gì khi mỗi người, mỗi cộng đồng sống trên đó không được hành xử các quyền hạn, nghĩa vụ của mình qua các khế ước xã hội (luật pháp) một cách phải chăng… Tôi chẳng mơ hồ gì về các thứ tự do và nhân quyền theo mẫu mực của các quốc gia đã có được một nền dân chủ trưởng thành. Và phải chăng để có được các nền dân chủ, tự do trưởng thành ấy, e rằng có sự đóng góp tích cực của “lí tưởng Cộng Sản và phe xã hội Chủ nghĩa”? Xin đóng ngoặc.

Thưa ông Bùi Tín,

Xin ông thứ lỗi về việc tôi đi hơi xa chủ đề cần trao đổi. Và cũng xin ông hiểu cho rằng nếu ông không đem “cái bức xúc ngày nay”, để “làm rõ” cái mù mờ lẫn lộn của ông về chuyện ngày xưa, thì tôi đã tránh được cái lỗi dông dài – xưa – nay, bắc – nam, đông – tây mắc míu trùng trùng.

Tôi hiểu rằng, sở dĩ ông khơi lại chuyện CCRĐ và chuyện hiệp định Genève, là để:

 – Tố cáo đảng Cộng Sản Việt Nam đích thực là tay sai của đảng Cộng sản Trung Quốc, cảnh báo đảng Cộng Sản Việt Nam và nhân dân Việt Nam về hiểm hoạ Trung Quốc Cộng Sản, đồng thời gợi mở một lối thoát, một hướng đi cho Việt Nam, theo xu thế toàn cầu hoá với sự bảo trợ hào hiệp của một nước nào đó giàu mạnh có nền kinh tế, khoa học kỹ thuật quốc phòng hiện đại. Ông không nói rõ là nước nào, nhưng người đọc, cũng chẳng sợ sai lầm khi bảo rằng ông Bùi Tín muốn nói đến nước Mỹ.

Thưa ông Bùi Tín,

Là công dân hạng ba trong chế độ XHCN từ những năm cuối tuổi thanh niên đến hết tuổi trung niên, cho nên thoạt đầu tôi đã chia sẻ rất nhanh các thông tin và luận điểm của ông. Nhưng rồi sực nhớ lại câu khẩu hiệu: “Tiến nhanh, tiến mạnh, tiến vững chắc lên Xã hội Chủ nghĩa” mà báo Nhân Dân đã lặp đi lặp lại mỗi ngày trong nhiều năm trời (thời kỳ ông Bùi Tín là một trong vài ông lớn của báo này), đột nhiên tôi chững lại. (Thời bấy giờ, mỗi ngày phải đọc báo Nhân Dân là kỷ luật của cơ quan). Tôi nhớ như in mỗi khi nghe đọc câu khẩu hiệu trên, tôi đã lẩm bẩm một mình: “Tiến nhanh thì làm sao mà vững chắc được”? Vả lại tiến nhanh, tiến mạnh trên con đường đã trật thì nguy hiểm và đau khổ quá”.

Thưa ông Bùi Tín,

Tôi đã chững lại, nhớ lại, ngẫm nghĩ lại, và tôi nhận ra rằng cách sử dụng thông tin và lập luận của ông ngày nay cũng hàm hồ, cũng định kiến, cũng méo mó và xuyên tạc sự thật như báo Nhân Dân ông đã một thời tham dự vào việc cầm cân nẩy mực. Chỉ có cái khác là ngày xưa ông đứng ở góc này, ngày nay ông đứng ở góc kia. Và một Bùi Tín đứng ở hai góc mà xoi mói chửi bới nhau như hai kẻ cựu thù xa lạ trước một sự thật là một điều đáng buồn và rất thiếu thẩm mỹ.

– Chẳng hạn có bao nhiêu phần trăm sự thật khi ông viết như thế này: “Thái độ cam chịu làm chư hầu cho Trung Quốc là đường lối chiến lược nhất quán, xưa và nay của Đảng Cộng Sản Việt Nam, được khẳng định trong điều lệ của đảng kể từ năm 1960 (đại hội III ghi rõ lấy tư tưởng Mao làm nền tảng lí luận)”.

Theo sự hiểu biết ít ỏi của tôi thì đảng Cộng sản Việt Nam thành lập năm 1930 với hai nhiệm vụ chiến lược là đánh đuổi thực dân Pháp và làm cách mạng vô sản. Hai ông tổng bí thư đầu tiên là Trần Phú, Hà Huy Tập và những tên tuổi khác như Lê Hồng Phong, Nguyễn Văn Cừ, Nguyễn thị Minh Khai … là cán bộ của Đệ tam Quốc tế (thân Nga). Ông Hồ Chí Minh chưa bao giờ được Đệ Tam Quốc Tế, đặc biệt Stalin, thừa nhận là người Cộng Sản. Trong thời gian ở Tàu ông không những quan hệ với Tàu Cộng mà còn quan hệ với Tàu Tưởng, ông lãnh đạo Việt Minh và Đảng Cộng sản từ những năm đầu của thập niên bốn mươi. Cách mạng tháng Tám và sự ra đời của chính phủ Việt Nam Dân Chủ Cộng Hòa và công cuộc kháng chiến do ông lèo lái từ 1945, đến năm 1949 mới đặt quan hệ chính thức với đảng Cộng sản Trung Quốc và nước Công Hòa Nhân Dân Trung Hoa. Sự giúp đỡ của Trung cộng cho Việt Minh đánh Pháp là to lớn. Sự giúp đỡ này có hai động lực: một là tinh thần Cộng Sản và nghĩa vụ Quốc tế theo sự phân công với Mạc Tư Khoa, hai là những tính toán mưu cầu vì lợi ích của Trung Quốc. Động lực thứ hai này càng lúc càng mạnh và cuối cùng là động lực duy nhất trong mọi quan hệ của Trung Quốc với bên ngoài. Trung Quốc đã đòi lại những gì họ đóng góp qua việc áp lực với ông Hồ và Việt Minh ký kết một hiệp ước Genève có lợi cho họ và không xứng hợp với những thắng lợi trên chiến trường theo những dự ước của Việt Minh. Có vay có trả. Quan hệ giữa Việt Minh và Trung Cộng là quan hệ giữa con nợ và chủ nợ chứ không phải là quan hệ giữa chư hầu và thiên tử như Bùi Tín tố cáo và miệt thị.

Công cuộc cải cách ruộng đất cũng có hai động lực. Một là lý tưởng Cộng Sản, quan điểm đấu tranh giai cấp máy móc giáo điều ngây thơ và tàn ác mà Trần Phú đã thể hiện trong cương lĩnh từ 1930, thực hiện qua Xô Viết Nghệ Tĩnh. Hai là thúc ép của hai nước đàn anh Cộng Sản là Liên Xô và Trung Quốc. Đặc biệt Trung Quốc là nước đàn anh láng giềng được phân công trực tiếp “giúp đỡ cách mạng Việt Nam”. Do vậy mà việc học tập, rút kinh nghiệm từ cách mạng thổ địa Trung Quốc là tất nhiên. Việt Minh, đảng Cộng Sản Việt Nam, đặc biệt, ông Hồ Chí Minh và nhân dân Việt Nam đã trả giá quá đắt cho bài học tàn ác này. Tôi đồng ý với ông Bùi Tín là công cuộc sửa sai là hình thức, lấy lệ, chưa đúng với tầm mức tác hại. Tuy nhiên, nếu sửa sai đúng tầm mức e rằng phải bỏ luôn chủ nghĩa Cộng Sản và giải tán đảng. Yêu cầu này trên mặt nhận thức lẫn thực tế chính trị vào thời điềm đó là chưa có khả năng.

Sự sai lầm do ý thức hệ, đảng Cộng Sản Việt Nam còn mắc phải nhiều lần sau 1975, mặc dù đã thoát khỏi áp lực của Trung Quốc. Cải tạo tư sản, cải tạo công thương nông nghiệp, cải tạo văn hoá văn nghệ, đưa đất nước thống nhất (về mặt lãnh thổ) tiến nhanh, tiến mạnh lên chủ nghĩa Xã hội là những ví dụ điển hình. Ông Bùi Tín đã viết đây đó nhiều lần rằng “mưu đồ thâm độc của Trung Quốc là không muốn Việt Nam độc lập, thống nhất, Trung Quốc muốn chia để trị…” Nhận xét này không sai. Tuy nhiên đảng Cộng Sản Việt Nam, theo những gì đa số quần chúng thấy được, đã lãnh đạo, tiến hành cuộc chiến tranh thống nhất đất nước. Điều này nói lên một sự thật là ông Bùi Tín đã sai khi cáo buộc: “(Đảng Cộng Sản Việt Nam), “cam chịu làm chư hầu cho Trung Quốc là đường lối chiến lược nhất quán, xưa và nay…”.

Hai sự kiện quan trọng mà đảng Cộng Sản Việt Nam tiến hành sau 1975 là cải tạo tư sản, cải tạo công thương nghiệp, và tiến quân qua Campuchia. Cả hai sự kiện này đều là những đòn nặng đối với sách lược “người Hoa ở hải ngoại” và chiến lược tấn công Việt Nam từ hai đầu mà các triều đại Trung Quốc (phong kiến hay Cộng Sản, Cộng Sản cũng chỉ là phong kiến trá hình) đã áp dụng nhiều lần trong lịch sử bành trướng của họ.

Ở miền Nam, người Hoa ở Chợ Lớn hầu như nắm hai phần ba các hoạt động công thương nghiệp. Buôn lậu chuyển vận và phân phối thuốc phiện, lũng đoạn chính quyền bằng các mánh lới mua chuộc, hối lộ là sở trường của họ. Công cuộc cải tạo tư sản công thương nghiệp, đứng trên bình diện kinh tế và xã hội là một hành động cực kỳ sai lầm, nhưng đứng trên bình diện dân tộc đối với mưu đồ của Trung Quốc lại là một vấn đề khác.

Sự kiện Trung Quốc xua mấy trăm ngàn quân đánh phá các tỉnh phía Bắc trong năm 1979 chứng tỏ sự mâu thuẫn, xung đột hai nước đã âm ỉ dồn nén từ lâu, chỉ chờ có cơ hội là bộc phát, chứng tỏ không có mối quan hệ chư hầu – thiên tử mà Đảng Cộng Sản Việt Nam lấy làm “đường lối chiến lược nhất quán từ “xưa và nay” như Bùi Tín đã viết.

Ông Bùi Tín còn lấy nghị quyết Đại hội III của đảng Cộng Sản để dẫn chứng cho luận điểm của mình:

“Đại hội III ghi rõ: lấy tư tưởng Mao làm nền tảng lí luận”.

Thưa ông Bùi Tín,

Riêng chuyện trích dẫn này cũng chứng tỏ thiếu sự thẳng thắng đàng hoàng nơi ông. Đại hội III của đảng Cộng sản ghi đầy đủ phải như thế này:

“… lấy chủ nghĩa Marx – Lenin, và tư tưởng Mao Trạch Đông làm nền tảng lí luận…”

Tại sao ông lại bỏ phần đầu quan trọng là chủ nghĩa Marx – Lenin mà chỉ ghi phần cuối ít quan trọng hơn: tư tưởng Mao Trạch Đông?

Lại nữa, giả dụ cứ lập luận như ông thì:

– Đảng Cộng Sản VN đâu chỉ có làm chư hầu cho mỗi một Trung Quốc (lấy tư tưởng Mao Trạch Đông), mà còn làm chư hầu cho cả Nga (nước đã khai sinh ra Lenin) và Đức (nước đã sản sinh ra Marx), nữa chứ?

–  Quốc Dân Đảng của Nguyễn Thái Học cũng tự nguyện làm chư hầu Trung Hoa Dân Quốc bởi đã lấy chủ nghĩa Tam Dân của Tôn Dật Tiên làm sách lược tư tưởng của mình.

 – Phan Bội Châu, Phan Châu Trinh và nhiều nhà yêu nước khác đã có lúc công khai chủ trương nương nhờ Nhật Bản (Phan Bội Châu), đề huề với Pháp (Phan Châu Trinh), như thế các vị ấy đều là tay sai của Nhật, của Pháp cả sao?

Tôi không hoàn toàn loại bỏ một khả năng là đã có lúc lập trường, sách lược của Đảng Cộng Sản Việt Nam chuệch choạc, nghiêng ngả về phía Liên Xô hoặc Trung Quốc, đã có lúc những đảng viên cao cấp như Tố Hữu chẳng hạn, đã công khai bày tỏ sự ngưỡng vọng, niềm tin tuyệt đối vào tinh thần quốc tế vô sản, thần thánh hoá các lãnh tụ Cộng Sản. Đó là những niềm tin, tình cảm ấu trĩ, hồn nhiên đáng xấu hổ cho những ai có suy nghĩ và kinh nghiệm sống bình thường, trong những bối cảnh bình thường.

Tuy nhiên đánh giá đảng Cộng Sản và cuộc hành trình của những người Cộng Sản qua những sai sút yếu kém trong những chặng đường ngắn, khúc khuỷu, là không công bằng và chưa phải là sự thật đầy đủ. Cuộc hành trình của họ là cả một con đường dài đầy khổ nạn, chông gai. Họ đã cùng với nhân dân vượt qua với không ít thông minh, tài trí, bản lĩnh, dũng lược và sự chịu đựng hy sinh vô bờ bến vì mục tiêu trước mắt và trên hết là độc lập dân tộc và lý tưởng Cộng sản. Không nên nhầm lẫn một cách máy móc đơn giản giữa lí tưởng (lí tưởng Cộng Sản hay lí tưởng dân chủ tự do) và thực tế chính trị ở cả hai miền Nam – Bắc vào thời điểm sau Genève, để cáo buộc bên kia Cộng Sản thì tay sai Nga – Hoa, bên này Quốc Gia thì tay sai đế quốc Mỹ. Không cần phải chứng minh dài dòng khi khẳng định rằng các tác giả trên báo Quân đội Nhân Dân hay báo Nhân Dân (trong đó có Bùi Tín), một thời gian dài, mỗi lần nhắc đến chế độ Ngô Đình Diệm thì ra rả một luận điệu rất hàm hồ là tay sai đế quốc Mỹ xâm lược. Có thể nói rằng cái chết nhục nhã của anh em nhà họ Ngô và sự sụp đổ của nền đệ nhất Cộng hoà (tại miền Nam) nguyên nhân gần là họ đã có một cách thực hành chính trị tương đối độc lập đối với ông bạn đồng minh Hoa Kỳ. (Nguyên nhân sâu xa hơn là họ chủ trương một sách lược cực kỳ phản động là cát cứ, cai trị miền Nam bằng một thứ chủ nghĩa ngu xuẩn: Cần Lao Nhân Vị, và, cũng như đảng Cộng Sản, áp đặt trên đầu trên cổ nhân dân một chế độ độc tài, toàn trị).

Trong chiều hướng suy nghĩ ấy, tôi cho rằng những sai lầm to lớn dẫn đến sự khủng hoảng trầm trọng của đảng Cộng Sản từ cải cách ruộng đất đến cách mạng Xã Hội Chủ Nghĩa sau khi nước nhà độc lập và thống nhất là bởi ý thức hệ Cộng Sản (ở giai đoạn đầu) và bởi nhu cầu bảo lưu các quyền lợi tầm thường, thiếu ngay chính và lương thiện (ở giai đoạn sau) – của một Đảng Cách Mạng suy thoái thành một tập đoàn các lãnh chúa nông dân rã rời mệt mỏi, cạn kiệt và thui chột lí tưởng của động cơ ban đầu.

Tôi nghĩ một tác giả, một nhà nghiên cứu, một người vận động xã hội, cũng giống như một thầy thuốc khám và chữa bệnh cho một bệnh nhân. Một thầy thuốc tay mơ thường lẫn lộn bệnh chính, bệnh kèm và biến chứng. Anh ta cũng không phân biệt đâu là nguyên nhân, đâu là hậu quả. Do vậy mà các chỉ định của anh ta thông thường là nguy hiểm cho người bệnh và hầu như chẳng có lợi gì cho sự phát triển của sự nghiệp y tế. Tôi có sự liên tưởng khá chặt chẽ giữa tác giả, nhà hoạt động xã hội Bùi Tín với một thầy thuốc tay mơ. Điều đáng buồn hơn nữa, là thầy thuốc Bùi Tín không chỉ tỏ ra tay mơ mấy năm đầu vào nghề mà tay mơ đến tận lúc răng long đầu bạc.

Tôi là một thầy thuốc trong một đất nước vào một thời điểm đặc biệt, đồng thời là công dân hạng ba, một phụ nữ có trình độ văn hoá và sử học phổ thông – tôi nhắc lại chi tiết này để ông Bùi Tín dễ nhận ra rằng tôi không có đủ các tiêu chí để trở thành một “trí thức dởm” bênh che cho thái độ quị luỵ dai dẳng của bộ chính trị Đảng Cộng Sản Việt Nam”và đồng thời tôi cũng không có ý định tham dự vào cuộc thảo luận về một lãnh vực chuyên môn cao không thuộc phạm vi của mình: vấn đề địa lí chính trị. Tuy nhiên mấy dòng sau đây của ông Bùi Tín tuy có dính đến địa lí chính trị, nhưng ở trình độ phổ thông, nên tôi trích dẫn để cùng ông thảo luận:

“Song chẳng phải một loạt nước sống cạnh Trung Quốc, có biên giới với Trung Quốc: Ấn Độ, Miến Điện, Mông Cổ…vẫn giữ được độc lập tự chủ đó sao? Họ đâu có thúc thủ chịu cái bất hạnh địa lí chính trị là có một nước láng giềng khổng lồ. Bản thân dân tộc Hán lớn đến như vậy, luôn tự hào là Đại Hán tộc, sống từ ngàn xưa trên đất Trung Quốc, thế mà từng bị những dân tộc nhỏ bé ở Mông Cổ và Mãn Châu tràn sang thời Nguyên Mông và Mãn Thanh”.

Trong mấy câu trên của ông Bùi Tín, chỉ có một nửa câu đầu là chính xác: “một loạt nước sống cạnh Trung Quốc có biên giới với Trung Quốc: Ấn Độ, Miến Điện, Mông Cổ…, nhưng đến nửa câu sau đã có vấn đề. Thẳng thắng mà nói, bất cứ câu nào trong đoạn văn trên cũng cần phải trao đổi với tác giả của nó:

– Thứ nhất, trường hợp Mông Cổ có ở trong tình trạng mà Bùi Tín khẳng định:

 “vẫn giữ được độc lập và tự chủ” không? (vấn đề sẽ được thảo luận ở đoạn sau)

–  Thứ hai: Trong các quan hệ quốc tế hoặc khu vực, không nhất thiết nước này có quan hệ hữu hảo với nước kia, tất sẽ không có vấn đề gì với nước thứ ba.

Ông Bùi Tín đã quá đơn giản khi đưa các trường hợp Ấn độ, Miến Điện và cả Mông Cổ ra để làm một so sánh với Việt Nam. Chủ đích cửa ông là để bêu riếu các nhà “trí thức dởm” đã sử dụng học thuyết địa lý chính trị để bênh che cho “thái độ quị luỵ dai dẳng của bộ chính trị ĐCSVN”, đồng thời tố cáo “đảng CSVN có đường lối chiến lược nhất quán xưa nay” là “cam chịu làm chư hầu cho Trung Quốc” (các từ in đậm trong ngoặc kép là của Bùi Tín).

Để làm sáng tỏ vấn đề, đề nghị ông Bùi Tín quan sát những nét chính trong quan hệ nhiều mặt giữa VN – TQ và giữa TQ – ÂĐ, TQ – MĐ trước khi đưa ra so sánh này nọ.