Người phụ trách Văn Việt:

Trịnh Y Thư

Web:

vanviet.info

Blog:

vandoanviet.blogspot.com

Danh ngôn

Trong mọi cộng đồng, chúng ta cần một nhóm thiên thần gây rối.

We need, in every community, a group of angelic troublemakers.

(Bayard Rustin – trích bài phát biểu tại New York City 1963)

Trong mọi trường hợp, chắc chắn rằng sự thiếu hiểu biết, đi kèm với quyền lực, là kẻ thù tàn bạo nhất có thể có của công lý.

It is certain, in any case, that ignorance, allied with power, is the most ferocious enemy justice can have.

(James Baldwin - No Name in the Street 1972)

Các cuộc cách mạng và các cá nhân có thể bị giết hại, nhưng bạn không thể giết chết các ý tưởng.

While revolutionaries and individuals can be murdered, you cannot kill ideas.

(Thomas Sankara, một tuần trước khi bị ám sát, 1987)

Không có cảm giác nào cô đơn hơn việc bị chính đất nước mình trục xuất.

There's not a more lonely feeling than to be banished by my own country.

(Kiyo Sato – Kiyo’s Story 2009)

Ban Biên tập

Địa chỉ liên lạc:

1. Thơ

tho.vanviet.vd@gmail.com

2. Văn

vanviet.van14@gmail.com

3. Nghiên cứu Phê Bình

vanviet.ncpb@gmail.com

4. Vấn đề hôm nay

vanviet.vdhn1@gmail.com

5. Thư bạn đọc

vanviet.tbd14@gmail.com

6. Tư liệu

vanviet.tulieu@gmail.com

7. Văn học Miền Nam 54-75

vanhocmiennam5475@gmail.com

Tra cứu theo tên tác giả

Thứ Bảy, 28 tháng 6, 2025

Bao nhiêu kiếp-người cho một thuyền-nhân...

 Ngô Thị Kim Cúc

Chỉ một kiếp chăng, giống như tất cả đám đông. Chắc sẽ chẳng có bao điều đáng nhắc tới ...

Hai kiếp? Liệu đã đủ những khác thường để ghi nhớ và kể lại?

Hẳn phải là ba kiếp:

- Kiếp-thuyền-nhân, kiếp quan trọng nhứt dù ngắn ngủi, chỉ trong thời gian lênh đênh vô định trên Thuyền trên biển, với vô vàn thảm họa dù đã nghe/đã biết trước nhưng không chạy-lui mà lại chạy-tới, chấp nhận rủi may, cùng với đó là bi kịch tự thân cộng với vô vàn bi kịch đủ dạng từ những đồng hành.

- Tiền-kiếp là kiếp sống đã có trước khi bước chân xuống thuyền, trước khi quyết định vượt biên. Đó là quyết định nảy sinh từ những dồn ép vượt quá ngưỡng chịu đựng, đẩy người ta tới chỗ liều mình thí mạng, chỉ bám víu vào một tia sáng/một niềm hy vọng rất mong manh.

- Kiếp hậu-thuyền nhân, dài nhứt, là kiếp của kẻ bị cột trói suốt đời với con thuyền, cho dù đã lên bờ từ lâu, đã có một đời sống khác, một cách sống khác, một tương lai khác, nhưng vẫn mãi mang vác cả tên-gọi lẫn ký-ức-thuyền-nhân không thể thoát ra, vì vừa không nỡ lại cũng vừa không đủ sức.

*

Có phải Thuyền cũng là hải trình sống-chết của tác giả?

Có lẽ không, cho dù vẫn có một phần tác giả trong nhân vật và một phần nhân vật trong tác giả.

Quá nhiều chi tiết rất đời, rất thật, thật đến rợn người. Những chi tiết có thể tới từ sự quan sát, ghi nhận, cũng có thể tới từ bản năng/linh giác của một nhà văn.

Nhân vật/con người và tác giả/nhà văn cứ tan hòa vào nhau một cách chập chờn mờ tỏ, khiến người đọc cũng gắn kết vào câu chữ bằng những cảm xúc/cảm thức như hư như thật.

*

Cái gì trong tác phẩm khiến người đọc khi đã bắt đầu sẽ khó lòng buông sách, chỉ muốn đọc nhanh nhứt tới dòng cuối cùng, để biết quyển sách này/câu chuyện này thật ra muốn nói lên điều gì/nhắn gởi điều gì...

Câu-chuyện-thuyền-nhân là một phần của lịch sử hậu chiến Việt Nam, khi sau năm 1975 cả triệu người Việt miền Nam liều mình ra biển, xuống thuyền trong đêm tối và để mặc số phận đẩy đưa mình tới-đâu-thì-tới.

Đó là một câu chuyện bi thương, rất rất nhiều người muốn quên đi mà không quên được, cũng rất rất nhiều người muốn nó chìm lấp/muốn xóa mờ đi nhưng nó mãi vẫn không chịu chìm lấp/không bị xóa mờ.

Nó phân chia người Việt thành các nhóm khác biệt, tùy vị trí, góc nhìn của họ ở thời điểm mà chuyện vượt-biên trở thành một câu đố cho từng cá nhân/từng gia đình/từng nhóm người/từng miền đất...

Và giờ đây, sau nửa thế kỷ, đã có tới mấy triệu người gốc Việt mang quốc tịch các nước Âu Mỹ với thế hệ thứ ba không còn nói và viết sõi tiếng Việt vẫn ngoái về Việt Nam để biết về một ký ức mình không nghiệm sinh nhưng vẫn được nghe ông bà cha mẹ kể lại.

Trong hàng triệu người gốc-Việt ấy, cộng với gần trăm triệu người trong nước, có những người đã tìm đọc Thuyền để biết rõ thêm, tường tận hơn những gì đã từng nghe, từng sống...

*

Tiểu thuyết Thuyền có 55 phần. Không thể coi mỗi phần đó là một chương. Nó thích hợp để được gọi là khúc: khúc hoài niệm, khúc ký thác, khúc bi thương, khúc đoạn trường... Có khúc đúng là một chương sách hoàn chỉnh, cũng có khúc chỉ lơ thơ mấy dòng như phải vội ghi nhanh trước khi quên mất...

Ngay khúc đầu tiên - Thầy bói, câu đầu tiên đã là: “Có một nơi trên trái đất ở đó người ta không chết, họ chỉ biến mất”.

Vì sao? Vì không tìm thấy xác, không có huyệt mộ, không ai chứng kiến để khẳng định rằng cái chết ấy có thật, chỉ đơn giản là biến-mất ... Từ nỗi nhớ thương, từ một hy vọng phi lý, những người ấy dường-như-chưa-chết/không chết, nên mãi mãi về sau họ vẫn chập chờn hiện hũu, vẫn thổn thức sống, trong từng tế bào, trong phần tâm linh những người không bị chết, vẫn còn kẹt lại.

Khi viết lại câu chuyện thuyền nhân này, tác giả đã tự đặt ra bao câu hỏi. Hỏi không nhằm mục đích trả lời, mà như một xác tín: Vì sao lại xảy ra những chuyện này? Vì sao mọi thứ lại trở nên như vậy? Vì sao tôi phải kể lại, phải sống lại, phải đau lại... tất cả những gì đã gặm nhấm/xói mòn tuổi trẻ và tim óc tôi, những gì đã chiếm cứ tương lai, chiếm cứ từng ngày sống của tôi từ bấy đến nay...

Ở bến Ninh Kiều, khi hai người trẻ tuổi bắt đầu nhập vào cái đám đông lộn lạo đang chờ dịp xuống thuyền, chàng trai không thể không tự vấn:

“Ý nghĩa của tự do? Tự do không phải là số phận. Tự do là một chọn lựa cá nhân. Đó là chọn lựa khó khăn: một nửa nhân loại sẽ nói không với nó”.

“Lúc này đây, tôi chỉ ngồi im lặng, thu người hồi hộp trong khoảng tranh tối tranh sáng giữa năm cũ và năm mới, trước khi ra đi, theo đuổi tới cùng giấc mơ tự do”.

Khi chạy và bò trên Cầu khỉ để trốn tiếng súng tiểu liên đuổi sát sau lưng, chàng trai ý thức rằng cuộc đời mình và cuộc đời cô gái bên cạnh sẽ nhập lại làm một, cùng chịu chung mọi thử thách và cùng xẻ chia một số phận.“Tôi muốn tặng cho người con gái những ngày tôi đã sống, đẹp mê hồn, và những ngày tôi chưa kịp sống... Tôi tin vào trái tim. Sống là sống cho người khác. Đây có phải là cách mà người ta vượt qua cái chết?... Bạn sinh ra để sống thật đời sống của mình, không phải để sống nó một cách hoàn hảo”.

Và rồi, một run rủi khác, một chân dung khác, một cuộc đời khác, một chọn lựa khác... Nhưng, vẫn có điểm chung nào đó, điểm sáng mơ hồ nào đó trong cái đêm tai ách của chàng trai. Bị chộp bắt tại chỗ, bị áp tải và rồi lại được thả ra một cách bất ngờ: “Có một khoảng tối đen từ bóng râm tòa nhà cắt qua nửa khuôn mặt cô gái, một con mắt của cô chìm vào trong đó, một con mắt khác còn lại, vui tươi, tinh nghịch, nửa trêu cợt nửa thương xót. Nhiều năm sau, tôi vẫn nhớ khuôn mặt ấy, một nửa khuôn mặt, con mắt ấy, như một ngọn nến lấp lánh cuối đường phân ly”.

Phải chăng, chính “ngọn nến lấp lánh cuối đường phân ly” ấy đã khiến người đàn ông khi không còn trẻ đã quay về mảnh đất nơi tuổi thanh xuân của mình đã trôi dạt một cách đáng thương: “Người ta có thể nào yêu một đất nước mà không yêu những người dân trong đất nước ấy? Có thể nào tôi yêu tổ quốc mà không yêu đồng bào?”.

Không thể trích dẫn hết những nghĩ ngợi/suy tưởng của nhân vật vì chúng quá nhiều trong mỗi khúc. Rõ ràng, anh đang sống-từng-phút-một cuộc đời mình trong cuộc trốn chạy/vượt thoát này. Giữa một nhóm người khốn khổ lênh đênh giữa biển, đói, khát, cháy khô dưới nắng, vô vọng trước mũi súng của lũ cướp biển, giữa những cái chết bất ngờ cùng những cái chết dường như tất yếu, với chút năng lượng cạn kiệt còn sót lại, trí óc anh vẫn cần mẫn ghi nhớ từng chi tiết, từng âm thanh, mùi vị, chuyển động...

Đã có đủ những gì mà một cuộc vượt biên có thể gặp. Lũ cướp biển man rợ với súng trên tay và thú tính trong mỗi cái chớp mắt. Máu, và những xác người đổ xuống sau tiếng súng. Những phụ nữ phải tự lột trần truồng và bị hiếp dâm nhiều lần trước mặt những người còn lại. Một trẻ sơ sinh chết vì khát sữa. Một người cha chết khi nhảy xuống biển nhặt chiếc dép cho con gái...

Đau thương hơn mọi nỗi, cô gái của chàng trai đã lao-mình-xuống-biển, không để cho bọn cướp lùa mình sang thuyền của chúng, sau khi những người đàn ông ít hèn nhát nhứt, trong đó có chàng trai, đã cố vùng lên chống lại chúng và lập tức thất bại, nhiều người bị bắn chết ...

Chàng trai giờ đã thành một con người khác.

“Làm sao để yêu được thế giới này sau tất cả những đau khổ?... Chúng ta chết mang theo không phải chỉ thân xác mình, mà còn mang theo những đời sống khác, những kiếp trước, những người khác, tình yêu của họ, ký ức của họ...”.

Những đồng hành của chàng trai, mỗi người có một câu chuyện, một mất mát, một nỗi bất hạnh khác nhau. Những đứa trẻ thất lạc cha mẹ. Những vợ chồng con cái đánh mất nhau. Những nỗi vô vọng kề bên những vô vọng...

Có một câu chuyện được kể lại với đầy đủ chi tiết, trong một ngày biển động: “Người thanh niên ngồi bên cạnh tôi kể rằng trước khi đi, anh về trại cải tạo ở Xuân Lộc để bốc mộ cho cha anh. Khi được cán bộ chỉ ra một nghĩa địa nơi chôn cất những người tù cải tạo, thấy có tên cha anh ở đó, trên một khúc gỗ. Anh đào bới suốt ngày, dùng xẻng và dùng tay không, nhặt hết xương cốt của người thân. Người mới chết nên xương cốt vẫn còn khá nguyên vẹn. Anh nhận ra tất cả xương sườn đều bị gãy ở giữa một nửa… Anh thề rằng anh sẽ không bao giờ trở lại. Anh kể câu chuyện ấy cho tôi nghe trong đêm tối trời, ngay khi cơn bão vừa đi qua. Sự im lặng bị đập vỡ bởi câu chuyện của đứa con trai kể về cha mình. Đó là ngày thứ mười bốn của chúng tôi trên biển”.

*

“Sau khi anh chết, em có đến dự tang lễ của anh không? Tôi không biết tại sao tôi hỏi thế”.

“Anh có đến dự tang lễ của em không? Anh sẽ đến. Nhưng anh không thể”.

Sao những người yêu nhau lại hỏi nhau như vậy? Cái chết quá hiển hiện, che lấp hẳn một cuộc sống rất mơ hồ đang ở tận đẩu đâu chưa thể biết/chưa thể tới, phải chăng?

Người ta chọn ra đi, không phải để chết. Nhưng rồi phải làm quen với cái chết, chấp nhận cái chết sâu từ trong tâm tưởng, coi đó là một trong những hồi kết hiển nhiên phải nhận lãnh. Bằng cách ấy, họ làm bạn với điều tệ hại nhứt trước khi nó xảy ra.

Và rồi, nó đã xảy ra, với hai người họ. Cô gái đã biến mất vào lòng biển.

“Khi tôi chết, gió sẽ không còn thổi nữa. Khi tôi chết, mọi đau khổ chấm dứt. Sự tra tấn chấm dứt. Sự đói khát chấm dứt. Sự nhục nhã chấm dứt. Khi chúng tôi chết, đừng hỏi vì sao chúng tôi đến đây. Khi chúng tôi chết, biển động sẽ im, bầu trời xanh trở lại”.

“Trong ngôi nhà của chúng ta có một giấc mơ, hay trong giấc mơ của chúng ta có một ngôi nhà, đó là nơi anh sinh ra và lớn lên, biến mất trong chiến tranh, được xây dựng lại sau hòa bình, biến mất lần nữa, anh muốn đưa em về đó nhưng em chưa bao giờ làm được điều ấy, có quá nhiều việc chúng ta không làm được...”.

“Mặt đất này thuộc về tôi nhưng bây giờ không còn của tôi nữa, tôi muốn biết tôi là ai, tôi từ đâu tới, tôi muốn biết căn nhà cũ của tôi ở đâu, tuổi thơ của tôi thất lạc nơi nào, tôi muốn gọi tên những người đã chết, tại sao người chết không trả lời tôi?...”.

*

Rời khỏi thuyền, khỏi biển mới chỉ là bước đầu, là may mắn hiếm hoi. Nhưng sống thế nào ở đảo mới là chuyện quyết định. Ngay phút đầu tiên để được phép lưu trú trên đảo, thuyền nhân đã lãnh ngay cú tát vãi máu mũi máu miệng từ tên trưởng trại người Thái cùng với câu chửi “Đồ thua trận” bằng tiếng Việt, để ý thức rằng mình rồi phải chịu nhục, phải nhẫn nhịn thế nào trước những kẻ ban ơn không cùng huyết thống.

Họ tập cho mình lặn mọi cảm xúc vào trong, bởi đang hít thở nhờ bầu không khí của một xứ sở khác, nên phải chấp nhận mọi sự khinh rẻ, chà đạp...

“Chúng tôi già hơn tuổi, đầy vết xước ly tan. Đó là một tuổi trẻ bị đánh cắp, lịch sử không thuộc về chúng tôi. Chỉ có ngôn ngữ giữ chúng tôi lại, như sợi dây thừng buộc chặt chiếc thuyền vào bờ, nhấp nhô sóng. Hơn ba tháng trên biển, lưu lạc ở một đất nước khác, giữa một văn hóa khác, thức ăn khác, trong hình dung rằng suốt đời chẳng bao giờ còn cơ hội dùng lại tiếng mẹ đẻ”.

“Một dân tộc không có tranh luận, tranh cãi, tìm đường, là một dân tộc không thể lớn lên. Tôi đồng ý với nhà văn Nga rằng thực ra ma quỷ không có, chỉ là do con người tạo ra chúng dựa trên khuôn mẫu của chính mình”.

*

Rồi một ngày nào đó, mọi thứ đã thay đổi, khi tất cả những nhục nhằn đau đớn đã thật sự thuộc về quá khứ, một quá khứ rướm máu nhục nhằn nhưng dù sao, quá khứ ấy cũng đã bị vượt qua.

“Người đàn ông là sự đứt gãy của lịch sử, người đàn bà là sự liên tục. Không có em, anh phải tới đám đông một mình. Anh tới đám đông một mình để học hành. Anh tới đám đông một mình để tìm danh vọng. Anh tới đám đông để tìm bạn bè. Anh tới đám đông để phản đối. Anh tới đám đông để tìm em. Nhưng em không ở đó. Em không thuộc về đám đông”.

“Tôi phải làm gì vào lúc này? Tôi không biết. Tôi chỉ bắt đầu. Điều quan trọng nhất là sống sót. Điều quan trọng nhất là không chết đi vì nỗi buồn, nỗi nhớ nhà, kí ức đầy thương xót, những đêm tàn bạo”.

Làm thế nào để rũ bỏ, để quên đi mọi thứ?

Làm thế nào để mỗi ngày, mỗi phút giây ta sống là sống cho hiện tại chớ không phải cho quá khứ?

Nhờ tình yêu chăng?

Có phải để có thể xóa bỏ một tình yêu thì phải cậy nhờ một tình yêu khác?

Liên Hương đã lao nình xuống biển, còn Kyra thì ở kề bên.

Tình yêu với Liên Hương mơ mơ hồ hồ như có mà cũng như chưa kịp có, chưa kịp nắm giữ. Còn tình yêu với Kyra thì quá thật, đầy nhục cảm, tràn ngập khoái lạc của thèm khát và thỏa mãn. Vậy mà tại sao anh vẫn không thể quên em, vẫn không thể yêu Kyra như đã yêu em...

Phải chăng tình yêu với một người con gái cũng giống như tình yêu với quê hương đất nước. Cho dù nó trầy xước, thương tật tới đâu, rách nát tới đâu, nó vẫn chiếm ngự ta trăm phần, không chừa lại phần nào cho thứ khác.

Phải chăng anh đã bị tước sạch, lấy sạch từ khi biết yêu em...

“Tôi cứ tưởng rằng kí ức là quá khứ, nhưng bây giờ tôi biết rằng kí ức là cách mà tôi đối xử với quá khứ trong tương lai. Hãy quên chúng đi, quá khứ bảo thế. Anh còn trẻ và anh cũng mới bắt đầu. Nhưng người ta không thể bắt đầu từ hư vô. Người ta bắt đầu từ cảm xúc của mình. Từ một buổi sáng có thật”.

“Ký ức đang chờ bạn ở đó, cuối đường kia, không phải để níu giữ bạn như một người cũ, mà để chỉ đường. Bạn ngã xuống, bạn ngồi dậy, đứng lên, lạc đường. Bạn cần một người hướng dẫn. Người hướng dẫn ấy là kẻ đã đưa bạn tới đây, đứng ngay sau lưng chúng ta”.

“Thời gian như cuộc chiến tranh mà tất cả người tham dự đều thua trận. Tuổi trẻ đi thẳng vào tang lễ, nơi mọi người đến dự ngồi xa nhau, không ai trò chuyện, và lập tức ra về khi bông hồng đầu tiên được ném xuống huyệt mộ ký ức”.

“Không một ai có thể vượt qua được quá khứ nếu họ không đi tới tương lai”.

*

Và, cách thức duy nhứt/cuối cùng là Viết.

Viết, để bắt trái tim mình/đầu óc mình/tâm linh mình bận rộn vì một công việc cụ thể và không còn thì giờ để cảm thức về cái sức nặng quá tải đã phải mang vác từ khi bước chân xuống thuyền.

Viết, là cách tự giải tỏa, cho mình và cho cả những người đã gặp, đã liên quan. Và nhứt là, cho em, cho người anh đã yêu, trút cạn cuộc đời mình ngay khi nó còn chưa hoàn thiện.

Viết, một cách vô thức và ý thức, giống như ngày xưa đã chọn lựa xuống thuyền, ra đi, mà không cần biết rồi sẽ tới đâu...

“Câu chuyện kể không làm thay đổi số phận. Tuy vậy, chúng ta vẫn kể mãi. Vì sao? Vì bên dưới một sự thật, có những sự thật khác.Tôi muốn nói với Kyra về sự thật của mình. Phải kể lại tất cả, từng chi tiết, với những lời giải thích... Mỗi sự thật đều được kể lại bởi một người khác, với một trí nhớ khác, với một giọng nói khác. Có những sự thật đau đớn đến nỗi không có người nào muốn kể lại, không phải vì họ không can đảm, mà vì họ nhận thức được rằng chúng có thể gây tổn thương cho người khác. Kể lại sự thật không phải là một chọn lựa dễ dàng”.

“Viết là sống lại một lần nữa cuộc đời chưa được sống. Tôi có hai cuộc đời: một không thể sửa chữa, và một có thể. Đó là cách chúng ta làm ra quá khứ, quá khứ không phải là điều tôi đã sống, mà là những gì tôi nhớ lại, là mặt trời tôi chưa bao giờ thấy trong ngày u ám. Là người đàn bà tôi chưa bao giờ gặp, đã chết, và tôi nhớ lại khuôn mặt ấy trong cỏ. Quá khứ chờ tôi phía trước”.

“Tôi nhận ra rằng việc ghi nhớ trở lại những sự thật, và những sự thật khác bên dưới sự thật đầu tiên, không phải là niềm vui, không phải nỗi buồn, cũng không phải là bổn phận, nó tựa như con đường. Cái cách mà người ta sống trên đời, cái cách mà bạn bước đi... Đó là phương cách mà con người tồn tại cho đến khi hắn không còn tồn tại nữa”.

Viết, là cách trút bỏ và đồng thời gởi gắm.

Anh viết trước hết cho chính mình, đồng thời viết cho ai đó rồi sẽ đọc nó.

Đó là sự nối kết, sự chia xẻ, làm quen và hội nhập vào đám đông, một đám đông hoàn toàn mới lạ và vì thế đầy những bất ngờ.

Với Thuyền, Nguyễn Đức Tùng muốn trả món nợ quá khứ, với một ký ức đã dẫn dắt/điều khiển anh trong mọi chi tiết của cuộc sống đời thường từ đó tới bây giờ.

Là một bạn văn thân thiết của chúng tôi, Nguyễn Đức Tùng đã đăng rất nhiều tác phẩm trên Văn Việt: thơ, truyện, phê bình, dịch phẩm...

Khá nhiều khúc trong tiểu thuyết này anh đã gởi đăng trên Văn Việt.

Không có vẻ ngoài kiểu nhà văn bụi bặm ồn ào, hay vẻ bình thản thường thấy ở một bác sĩ, Nguyễn Đức Tùng giống một nhà giáo, trong dáng vẻ hiền lành nghiêm túc. Chúng tôi đã quen với một Nguyễn Đức Tùng như vậy, và chính anh cũng quen với hình ảnh của mình như vậy, trong những lần về Việt Nam trước đây, với những cuộc cà phê ít người, thân mật.

Lần này, Nguyễn Đức Tùng buộc phải trở thành một con người khác, nhân-vật khác.

Không quen xuất hiện trước đám đông, anh bỗng trở thành một nhân-vật-hot được săn đón, phải trả lời nhiều câu hỏi và chụp ảnh chung với nhiều người-hâm-mộ.

Vừa vui mừng cho tác phẩm mới của bạn, chúng tôi cũng ái ngại phần nào trước những cuộc gặp đông người mà Nguyễn Đức Tùng buộc phải vào vai người nổi bật nhứt...

Chỉ vì anh đã viết một tiểu thuyết. Nó có tên là Thuyền.

“Tiểu thuyết không phải là cách thoát khỏi thực tại, tiểu thuyết là cách nhìn vào thực tại, nhờ thế tình yêu được trở lại là nó, là thân xác và ngôn ngữ...”.

“Khi còn trẻ, tôi nghĩ rằng kể một câu chuyện là đi tìm lại những gì đã mất. Bây giờ, tôi nghĩ rằng kể một câu chuyện là đi tìm những gì vẫn còn ở đó, chưa bao giờ mất”.

“Lịch sử là quá khứ đã được chọn lọc. Con người có cần biết những quá khứ khác không? Để làm gì? Chẳng để làm gì cả.

Ý nghĩa của sự ra đi? Mất mát. Tức là biến mất khỏi một thế giới? Mất mát là biến mất khỏi một thế giới không được chấp nhận và hiện hữu trong một thế giới khác”.

“Chúng ta đã chọn lựa sự sống. Không. Chúng ta chọn ý nghĩa của sự sống”.

“Tôi nhìn thấy sự đau khổ của con người, sự tuyệt vọng của đồng bào tôi, tôi đã nghe thấy tiếng khóc. Tôi đã nhìn thấy cái giá phải trả quá lớn. Tôi đã từng hối hận. Có một điều gì rất lạ ở tâm hồn người Việt, ấm áp, dịu dàng, cả tin và cuồng nộ, chúng làm nên tính cách chúng ta...”.

“Cuối con đường tự do của chúng tôi, lòng tôi bị chiếm lĩnh bởi nỗi buồn, tựa như hư vô, như sự biến mất....”.

“Tôi không thể chống lại nỗi buồn, bởi vì nó cần thiết. Khi tôi bắt đầu nhận ra sự cần thiết của nỗi buồn, nó trở nên im lặng và đẹp đẽ, sâu sắc biết bao”.

“Tất cả sự mất mát nói cho cùng là sự hy sinh của kẻ đi trước lót đường, mở đường máu cho đồng loại... Những con bướm phải chết trên đường bay nghìn dặm...

Những kẻ đẹp nhất đã chết. Không có mất mát nào có thể bù đắp được. Ý nghĩa của sự sống là nằm ở chỗ ấy: ở chỗ đi tìm ý nghĩa của sự chết”.

Nguyễn Đức Tùng đã viết về thuyền-nhân. Nhưng thuyền nhân nào cũng có một tiền-kiếp, cái kiếp đã khiến họ phải chọn việc xuống thuyền ra đi, dạt trôi trên biển, bất chấp sóng gió và sự man rợ của lũ quỷ người có tên là hải tặc.

Tôi (và hẳn nhiều người khác) chờ đợi tác phẩm mới của anh, nối tiếp cái mạch thuyền nhân và bổ sung cho tiểu thuyết Thuyền...

Tất nhiên phải sau khi anh đã hồi sức và nạp thêm năng lượng mới...