Danh ngôn
Trong mọi cộng đồng, chúng ta cần một nhóm thiên thần gây rối.
We need, in every community, a group of angelic troublemakers.
(Bayard Rustin – trích bài phát biểu tại New York City 1963)
Trong mọi trường hợp, chắc chắn rằng sự thiếu hiểu biết, đi kèm với quyền lực, là kẻ thù tàn bạo nhất có thể có của công lý.
It is certain, in any case, that ignorance, allied with power, is the most ferocious enemy justice can have.
(James Baldwin - No Name in the Street 1972)
Các cuộc cách mạng và các cá nhân có thể bị giết hại, nhưng bạn không thể giết chết các ý tưởng.
While revolutionaries and individuals can be murdered, you cannot kill ideas.
(Thomas Sankara, một tuần trước khi bị ám sát, 1987)
Không có cảm giác nào cô đơn hơn việc bị chính đất nước mình trục xuất.
There's not a more lonely feeling than to be banished by my own country.
(Kiyo Sato – Kiyo’s Story 2009)
Ban Biên tập
Địa chỉ liên lạc:
1. Thơ
tho.vanviet.vd@gmail.com
2. Văn
vanviet.van14@gmail.com
3. Nghiên cứu Phê Bình
vanviet.ncpb@gmail.com
4. Vấn đề hôm nay
vanviet.vdhn1@gmail.com
5. Thư bạn đọc
vanviet.tbd14@gmail.com
6. Tư liệu
vanviet.tulieu@gmail.com
7. Văn học Miền Nam 54-75
vanhocmiennam5475@gmail.com
Tra cứu theo tên tác giả
- A. A. Fadeev
- A. Puskin
- A. T.
- Abdulrazak Gurnah
- Abraham F. Lowenthal
- Ace Le
- Ace Lê
- Adam Gopnik
- Adonis
- Adrian Horton
- Agi Mishol
- Ajar
- Akiko Miki
- Alain Guillemin
- Alan Phan
- Alăng Văn Gáo
- Alăng Văn Giáo
- Albert Camus
- Aldous Huxley
- Aleksandr Griboedov
- Alesandr Blok
- Alex Marshall
- Alex Smith
- Alex Thai
- Alex-Thái Đình Võ
- Alexander Fadeev
- Alexander Solzhenitsyn
- Alexandra Alter
- Alexandre FERON
- Alice Munro
- Alina Lesik
- Alison Flood
- Allen Ginsberg
- Amanda Gorman
- Amartya Sen
- Amelia Glaser
- Amos Oz
- An Nam
- Anatole France
- Anatoly Gavrilov
- Anders Olsson
- André Breton
- André Menras
- André Menras – Hồ Cương Quyết
- André Menras Hồ Cương Quyết
- Andrea Hoa Pham
- Andrea Kendall-Taylor
- Andreas Fulda
- Andreas Wimmer
- Andrew Postman
- Andy Cao
- Anh Anh
- Anh Hồng
- Anh Hồng (nhà thơ)
- Ánh Liên
- Anh Nhi
- Anh Văn
- Anika Zeller
- Anna Akhmatova
- Anna Maria Bracale Ceruti
- Anna Mitchell
- Anna Schmid
- Anne Carson
- Anne Cazaubon
- Anne Hébert
- Anne Henochowicz
- Anne Nguyễn
- Annie Ernaux
- António Jacinto
- Antôn Nguyễn Trường Thăng
- Archimedes L.A. Patti
- Arlette Quỳnh Anh Trần
- Arnold Schwarzenegger
- Artem Sakharov
- Arthur Koestler
- Arty Abel
- Arvind Subramanian
- Augustina
- Aurélie Coulon
- Aurelien Breeden
- Ba Sàm
- Bá Thụ Đàm
- Bạch Cúc
- Bạch Hoàn
- Bách Mỵ
- Bách Thân
- Bạch X. Phẻ
- Bạch Xuân Phẻ
- Bakhtin
- Ban Mai
- Bàn Văn Thòn
- Ban Vận động Văn đoàn Độc lập Việt Nam
- Bảo Chân
- Bảo Huân
- Bảo La
- Bảo Nhi Lê
- Bảo Ninh
- Bảo Phác
- Bảo Tích
- Bão Vũ
- Barbara Demick
- Bashô
- Batrioldman
- Bauxite Việt Nam
- Bắc Đảo
- Bắc Phong
- Bằng Việt
- BB Ngô
- Bei Dao
- Benjamin Péret
- Benjamin Ramm
- Bertolt Brecht
- Bertrand Russell
- Bettina Rheims
- Bích Ngân
- Biếm họa
- Biên Cương
- Biệt Hiệu
- Bilahari Kausikan
- Bill Hayton
- Billy Collins
- Bình Nguyên Lộc
- Brahma Chellaney
- Branko Milanovic
- Brett Reilly
- Brian Pascus
- Brian Wu
- Brice Pedroletti
- Brodsky
- Bryan
- Bùi An
- Bùi Bảo Trúc
- Bùi Bích Hà
- Bùi Chát
- Bùi Chí Trung
- Bùi Chí Vinh
- Bùi Công Thuấn
- Bùi Công Trực
- Bùi Đức Lại
- Bùi Giáng
- Bùi Hải Quảng
- Bùi Hoàng Tám
- Bùi Hoằng Vị
- Bùi Huệ Chi
- Bui Huy Hoi Bui
- Bùi Mai Hạnh
- Bùi Mạnh Hùng
- Bùi Mẫn Hân
- Bùi Minh Quốc
- Bùi Ngọc Tấn
- Bùi Quang Thắng
- Bùi Suối Hoa
- Bùi Thanh Hiếu
- Bùi Thanh Phương
- Bùi Thanh Tuấn
- Bùi Thụy Băng
- Bùi Tiến An
- Bùi Trân Phượng
- Bùi Trọng Hiền
- Bùi Văn Kha
- Bùi Văn Nam Sơn
- Bùi Việt Sỹ
- Bùi Vĩnh Phúc
- Bùi Xuân Bách
- Bùi Xuân Đính
- Bùi-Viết Văn Đức
- Bulgakov
- Bửu Chỉ
- C.D.
- Cái Lư Hương
- Cái Trọng Ty
- Cam Ly
- Cảnh Chánh
- Cao Bảo Vân
- Cao Bình Minh
- Cao Chi
- Cao Gia An
- Cao Hành Kiện
- Cao Huy Thuần
- Cao Kim Ánh
- Cao La
- Cao Quang Nghiệp
- Cao Tần
- Cao Thị Hồng
- Cao Thu Cúc
- Cao Việt Dũng
- Cao Xuân Hạo
- Cao Xuân Huy
- Carl Bildt
- Carl O. Schuster
- Carlos Assunção
- Carolyn Mary Kleefeld
- Cát Linh
- Cẩm Tú
- Cấn Thị Thêu
- Chan Phuong
- Chanh Tam
- Charles Bo
- Charles Bukowski
- Charles S. Kraszewski
- Charles Simic
- Chau Doan
- Chân Minh
- Chân Pháp Xa
- Chân Phương
- Chân Xuân Tản Viên
- Châu Diên
- Châu Hải Đường
- Châu Hồng Thủy
- Châu Hữu Quang
- Chenn
- Chế Diễm Trâm
- Chế Lan Viên
- Chi Mai
- Chi Phương
- Chiêu Dương
- Chiêu Khiêm
- Chiharu Shiota
- Chim Hải
- Chim Trắng
- Chinh Ba
- Chính Tâm
- Chính Vĩ
- Chinua Achebe
- Chơn Không Cao Ngọc Phượng
- Christian Gampert
- Christian Welzel
- Christina Mary Hjortlund
- Christoph Giesen
- Christoph Sator
- Christopher Balding
- Christopher Goscha
- Christy Wampole
- Chu Dương
- Chu Hảo
- Chu Hoạch
- Chu Kim
- Chu Mộng Long
- Chu Quang Tiềm
- Chu Tử
- Chu Văn Lễ
- Chu Văn Sơn
- Chu Vĩnh Hải
- Chu Vương Miện
- Chu Xuân Diên
- Chung Le
- Claire Simon
- Clay Phạm
- Concepcion de Leon
- Connie Hoàng
- Cora Engelbrecht
- Costica Bradatan
- Cổ Ngư
- Cù An Hưng
- Cù Huy Hà Vũ
- Cù Mai Công
- Cù Tuấn
- Cung Minh Huân
- Cung Tích Biền
- Cung Trầm Tưởng
- Cư sĩ Minh Đạt
- D. S. Likhachev
- Da Màu
- Dạ Ngân
- Dạ Thảo Phương
- Dã Tượng
- DAD
- Dadolin Murak
- Damien Keown
- Dan Bilefsky
- Dan Slater
- Dana Gioia
- Danh ngôn
- Dani Rodrik
- Daniel Halpern
- Daniel Hautzinger
- Daron Accemoglu
- David Brown
- David Gascoyne
- David Marchese
- David Weinberger
- Ðặng Thơ Thơ
- Demetrio Paparoni
- DEUTSCHE WELLE
- Di
- Di Li
- Diêm Liên Khoa
- Diễm Thi
- Diễm Tường
- Diễn đàn Thế kỷ
- Diệp Duy Liêm
- Diệp Huy
- Ðinh Cường
- Dino Buzatti
- Dipanjan Roy Chaudhury
- Dmitri Prokofyev
- Dmitry Burago
- Dmitry Muratov
- Doãn Cẩm Liên
- Doãn Mạnh Dũng
- Doãn Mẫn
- Doãn Quốc Sỹ
- Dominique Lemieux
- Donald Inglehart
- Donna Ashworth
- Ðỗ Quang Nghĩa
- Ðỗ Quyên
- Du Tử Lê
- Dung Nguyễn
- Dũng Phan
- Dũng Trung Kqd
- Dũng Vũ
- Duy Lam
- Duy Tân
- Duy Thanh
- Duy Thông
- duyên
- Duyên Anh
- Duyên Khánh
- Dư Hoa
- Dư Kiệt
- Dư Thị Hoàn
- Dư Thu Vũ
- Dương Đại Triều Lâm
- Dương Đình Giao
- Dương Khánh Phương
- Dương Kiền
- Dương Ngạn
- Dương Nghiễm Mậu
- Dương Ngọc Thái
- Dương Như Nguyện
- Dương Phương Vinh
- Dương Thắng
- Dương Thiệu Tước
- Dương Thu Hương
- Dương Thuấn
- Dương Tú
- Dương Tường
- Dương Văn Ba
- Dylan Suher
- Đà Văn
- Đàm Hà Phú
- Đàm Hách Thành
- Đào An Khánh
- Đào Anh Kha
- Đào Công Tiến
- Đào Duy Anh
- Đào Hiếu
- Đào Lê Na
- Đào Ngọc Chương
- Đào Nguyên
- Đào Nguyễn
- Đào Nguyên Phương Thảo
- Đào Như
- Đào Phương Liên
- Đào Quang Toản
- Đào Tấn Phần
- Đào Thái Tôn
- Đào Thị Hương
- Đào Tiến Thi
- Đào Trung Đạo
- Đào Trường Phúc
- Đào Tuấn
- Đào Tuấn Ảnh
- Đào Văn Thuỵ
- Đào Văn Tiến
- Đào Vũ Anh Hùng
- Đặng Anh Đào
- Đặng Bích Phượng
- Đặng Chương Ngạn
- Đặng Đình Cung
- Đặng Đình Mạnh
- Đặng Hà
- Đặng Hải Sơn
- Đặng Hoàng Giang
- Đặng Hồng Nam
- Đặng Hùng Võ
- Đặng Hương Giang
- Đặng Hữu
- Đặng Mai Lan
- Đặng Mậu Tựu
- Đăng Nguyên
- Đặng Phùng Quân
- Đặng Quốc Thông
- Đặng Sơn Duân
- Đặng Thái
- Đăng Thành
- Đặng Thân
- Đặng Thị Hảo
- Đặng Thơ Thơ
- Đặng Tiến
- Đặng Tiến (Thái Nguyên)
- Đặng Trung Nghĩa
- Đặng Túy
- Đặng Văn Dũng
- Đặng Văn Hùng
- Đặng Văn Ngữ
- Đặng Văn Sinh
- Đặng Vũ Vương
- Đặng Xuân Thảo
- Đặng Xuân Xuyến
- Đằng-Giao
- Điểm Thọ
- Đinh Bá Anh
- Đinh Cường
- Đinh Hoàng Thắng
- Đinh Hùng
- Đình Kính
- Đinh Lê Vũ
- Đinh Linh
- Đinh Ngọc Thu
- Đinh Phương
- Đinh Phương Thảo
- Đinh Quang Anh Thái
- Đinh Thanh Huyền
- Đinh Thị Như Thúy
- Đinh Trường Chinh
- Đinh Từ Bích Thuý
- Đinh Từ Bích Thúy
- Đinh Văn Đức
- Đinh Vũ Hoàng Nguyên
- Đinh Ý Nhi
- Đinh Yên Thảo
- Đoàn Ánh Thuận
- Đoàn Bảo Châu
- Đoàn Cầm Thi
- Đoàn Công Lê Huy
- Đoàn Hồng Lê
- Đoàn Huy Giao
- Đoàn Huyền
- Đoàn Khắc Xuyên
- Đoàn Lê Giang
- Đoàn Nhã Văn
- Đoàn Thanh Liêm
- Đoan Trang
- Đoàn Tùng Nguyễn
- Đoàn Tử Huyến
- Đoàn Việt Hùng
- Đoàn Xuân Kiên
- Đỗ Anh Hoa
- Đỗ Anh Tuấn
- Đỗ Bích Thuý
- Đỗ Cao Bảo
- Đỗ Duy Ngọc
- Đỗ Đức
- Đỗ Đức Đông Ngàn
- Đỗ Đức Hiểu
- Đỗ Hòa
- Đỗ Hoàng Diệu
- Đỗ Hồng Ngọc
- Đỗ Hồng Nhung
- Đỗ Hữu Chí
- Đỗ Kh
- Đỗ Kh.
- Đỗ Khiêm
- Đỗ Kim Thêm
- Đỗ Lai Thuý
- Đỗ Lai Thúy
- Đỗ Lê Anh Đào
- Đỗ Mạnh Hoàng
- Đỗ Minh Tuấn
- Đỗ Nghê
- Đỗ Ngọc
- Đỗ Ngọc Thống
- Đỗ Quang Nghĩa
- Đỗ Quang Vinh
- Đỗ Quý Toàn
- Đỗ Quyên
- Đỗ Quỳnh Dao
- Đỗ Thắng Cảnh
- Đỗ Thị Thu Trà
- Đỗ Thiên Anh Tuấn
- Đỗ Trí Vương
- Đỗ Trọng Khơi
- Đỗ Trung Quân
- Đỗ Trường
- Đỗ Tuyết Khanh
- Đồng Chuông Tử
- Đông Hoài
- Đông Hồ
- Đông Kha
- Đông Ngàn Đỗ Đức
- Đông Nghi
- Đức Ban
- Đức Đàm
- Đức Flying Bay
- Đức Hoàng
- Đức Lê
- Đức Phổ
- Đức Tâm
- Đức Tiến
- E. M. Forster
- E.E. Cummings
- E.M. Chernoivanenko
- Eamonn Butler
- Eckart Kleßmann
- Eduardo Galeano
- Edward Hirsch
- Elena Pucillo Truong
- Elias Canetti
- Ellen Bass
- Eloisa Amezcua
- Emiel Roothooft
- Emmanuelle Jardonnet
- Eric Henry
- Eric Weiner
- Erica Frantz
- Erik Harms
- Erik Korling
- Euan Ward
- Evgheni Dobrenko
- F.N.
- Federico García Lorca
- Feliks Kuznesov
- Filip Lech
- Flanny O’Connor
- Florence Noiville
- Florian Altenhöner
- Francis Fukuyama
- Francis Fukuyma
- Frank Dikötter
- Frank O'Hara
- Frankfurt
- Fred Hiatt
- Friedrich Dürrenmatt
- Friedrich Nietzsche
- Fritz J. Raddatz
- Gabriel García Márquez
- Gaither Stewart
- Gaiutra Bahadur
- Gary Leupp
- Gặp gỡ và trò chuyện
- Georg Bönisch
- Georg Trakl
- George Burchett
- George Orwell
- George Perreault
- George Siemens
- Georges Condominas
- Gerhard Will
- Germain Droogenbroodt
- Giang Dang
- Giang Lại Đức
- Giang Nam
- Giáng Vân
- Giáp Văn Dương
- Gideon Rachman
- Giuse Lê Công Đức
- Goethe
- Gonçalo Fernandes
- Gottfried Benn
- Graham Allison
- Grigory Yudin
- Günter Kunert
- Gyảng Anh Iên
- Hà Duy Phương
- Hà Dương Tuấn
- Hà Dương Tường
- Hà Đình Nguyên
- Hạ Đình Nguyên
- Hà Huy Sơn
- Hà Hương
- Hà Lệ Minh
- Hà Ngọc Hòa
- Hạ Nguyên
- Hà Nguyên Du
- Hà Nhân
- Hà Nhật
- Hà Phạm Phú
- Hà Quang Vinh
- Hà Sĩ Phu
- Hà Thanh Vân
- Hà Thế
- Hà Thị Minh Đạo
- Hà Thúc Sinh
- Hà Thủy Nguyên
- Hà Tùng Long
- Hà Tùng Sơn
- Hà Văn Thịnh
- Hà Văn Thùy
- Hà Vũ Trọng
- Hagi Kenaan
- Hai An Vu
- Hải Hạc
- Hải Ngọc
- Hai Thanh
- Han Dang
- Hàn Giang
- Han Kang
- Hàn Vĩnh Diệp
- Hạnh Diễm
- Hạnh Nguyên
- Hạnh Phước
- Hạnh Viên
- Hannah Beech
- Hào Thiện Nhân
- Haruki Murakami
- Hân Hương
- Heiko Buschke
- Heinrich Heine
- Henri Michaux
- Henry David Thoreau
- Henry Wadsworth Longfellow
- Heriberto Araújo
- Hermann Hesse
- Hiền Trang
- Hiệp Ikaria
- Hiệu Minh
- Hiếu Tân
- Ho Lai-Ming
- Hòa Bình Lê
- Hoa Níp
- Hoài Hương
- Hoài Nam
- Hoài Phương
- Hoài Thanh
- Hoài Việt
- Hoài Ziang Duy
- Hoan Doan
- Hoàn Nguyễn
- Hoàng Ánh
- Hoàng Anh Tuấn
- Hoàng Cát
- Hoàng Cầm
- Hoàng Chí Hiếu
- Hoàng Chính
- Hoàng Cường Long
- Hoàng Dũng
- Hoàng Dương Tuấn
- Hoàng Đăng Khoa
- Hoàng Đỗ
- Hoàng Đông
- Hoàng Đức Truật
- Hoàng Hà
- Hoàng Hải Thủy
- Hoàng Hải Vân
- Hoảng Hãn
- Hoàng Hưng
- Hoàng Khởi Phong
- Hoàng Kim Oanh
- Hoàng Lại Giang
- Hoàng Lan
- Hoàng Lan Anh
- Hoàng Lan Chi
- Hoàng Lê
- Hoàng Lệ
- Hoàng Linh
- Hoàng Long
- Hoàng Mai Ðạt
- Hoàng Mạnh Hải
- Hoàng Minh Trí
- Hoàng Minh Tường
- Hoàng Nam
- Hoàng Nga
- Hoàng Ngọc Biên
- Hoàng Ngọc Hiến
- Hoàng Ngọc Nguyên
- Hoàng Ngọc Tuấn
- Hoàng Nguyễn
- Hoàng Nguyên Vũ
- Hoàng Nhơn
- Hoàng Nhuận Cầm
- Hoàng Phong Tuấn
- Hoàng Phủ Ngọc Tường
- Hoàng Quân
- Hoàng Quốc Hải
- Hoàng Thị Hường
- Hoàng Thị Thu Thủy
- Hoàng Thu Phố
- Hoàng Thúy
- Hoàng Thuỵ Anh
- Hoàng Tiến
- Hoàng Trung Thông
- Hoàng Tuấn Công
- Hoàng Tuấn Phổ
- Hoàng Tùng
- Hoàng Tuỵ
- Hoàng Văn Sơn
- Hoàng Việt
- Hoàng Vũ Sơn
- Hoàng Vũ Thuật
- Hoàng Xuân Phú
- Hoàng Xuân Sơn
- Hoàng Xuân Tuyền
- Hoàng Yến
- Horst Bienek
- Howard Gardner
- Hồ Anh Thái
- Hồ Bạch Thảo
- Hồ Bất Khuất
- Hồ Diệu Vân
- Hồ Dzếnh
- Hồ Đắc Vũ
- Hồ Đình Nghiêm
- Hồ Hải Thụy
- Hồ Hữu Tường
- Hồ Minh Tâm
- Hồ Ngọc Đại
- Hồ Như
- Hồ Phú Bông
- Hồ Tịnh Tình
- Hồ Trường An
- Hồ Tú Bảo
- Hội những người ủng hộ GS. Chu Hảo
- Hồng Anh
- Hồng Hoang
- Hồng Lê Thọ
- Hồng Phú
- Huệ Hương Hoàng
- Huguette Bertrand
- Huong Nguyen
- Huy Bảo
- Huy Cận
- Huy Đức
- Huy Tưởng
- Huyền Thương
- Huỳnh Duy Lộc
- Huỳnh Hoa
- Huỳnh Hữu Uỷ
- Huỳnh Hữu Ủy
- Huỳnh Kim Báu
- Huỳnh Kim Quang
- Huỳnh Lê Nhật Tấn
- Huỳnh Liễu Ngạn
- Huỳnh Ngọc Chênh
- Huỳnh Như Phương
- Huỳnh Sơn Phước
- Huỳnh Tấn Mẫm
- Huỳnh Thế Du
- Huỳnh Thục Vy
- Huỳnh Trọng Khang
- Huỳnh Tuấn Anh
- Hứa Chương Nhuận
- Hứa Lập Chí
- Hương Lan
- Hường Thanh
- Hương Thủy
- Hữu Danh
- Hữu Đông
- Hữu Loan
- Hữu Mai
- Hữu Phương
- Ian Bui
- Ian Johnson
- Igor Poglazov
- Ilza Burchett
- Inrasara
- Iris Radisch
- Isabella Kwai
- Issa
- Issac Bashevis Singer
- Italo Calvino
- Iya Kiva
- J. M. Lotman
- J.B Nguyễn Hữu Vinh
- Jacques Attali
- Jacques Prévert
- Jake Johnson
- James Borton
- James Daniel Spears
- James G. Zumwalt
- James Grossman
- James Joyce
- James Poniewozik
- James Stavridis
- James WrightJuan Felipe Herrera
- Janos Kornai
- Jared Carters
- Jason Lopata
- Jason Morris-Jung
- Jay Nordlinger
- Jaya K.
- Jean Chesnaux
- Jean d'Ormesson
- Jean Piaget
- Jean Przyluski
- Jean Toomer
- Jean-Jacques Brochier
- Jean-Jacques Roth
- Jean-Louis Rocca
- Jean-Luc Chalumeau
- Jean-Marc Roberts
- Jean-Patrick Géraud
- Jean-Paul Sartre
- Jefferson Cowie
- Jeffrey Hanfover
- Jeffrey Nall
- Jessica Swoboda
- Jessie Yeung
- Jiayang Fan
- Jimmy Carter
- Joan Hua
- João Guimarães Rosa
- Joaquin Nguyễn Hòa
- John Barrow
- John Cheever
- John Freeman
- John Keane
- John McCain
- Jon Fosse
- Jonathan Dee
- Jonathan London
- Jörg Wischermann
- Jorge Amado
- Jorge Luis Borges
- Joschka Fischer
- Josée Lapointe
- Joseph Wong
- Joseph Wright
- Josh Rogin
- Joshua Rothman
- Juan Pablo Cardenal
- Juan Pablo Cardenal & Heriberto Araújo
- Julia Cagé
- Julio Cortázar
- Jun’ichiro Tanizaki
- Kahil Gibral
- Kai Hoàng
- Kale
- Kalynh Ngô
- Kamel Daoud
- Kao Phú
- Kap Seol
- Karel Appel
- Karen Tongson
- Kate Chopin
- Kazuo Shiraga
- Kenneth Nguyen
- Keorapetse Kgositsile
- Kerstin Holm
- Kều Jang
- Kha Lương Ngãi
- Kha Tiệm Ly
- Khải Đơn
- Khái Hưng
- Khaly Chàm
- Khang Quốc Ngọc
- Khánh
- Khánh Bình
- Khánh Duy
- Khánh Ly
- Khánh Mai
- Khanh Nguyen
- Khanh Pham
- Khánh Phương
- Khánh Trâm
- Khánh Trường
- Khét
- Khế Iêm
- Khiêm Nhu
- Khổng Đức Thiêm
- Khuất Đẩu
- Khuất Thu Hồng
- Khuê Phạm
- Khuyết Thư
- Kiệm Hoàng
- Kiến Văn
- Kiệt Anh Hùng
- Kiệt Tấn
- Kiều Duy Vĩnh
- Kiều Loan
- Kiều Mai Sơn
- Kiều Maily
- Kiều Phong
- Kiều Thị An Giang
- Kim Ân
- Kim Chi
- Kim Dung
- Kim Hạnh
- Kim Thúy
- Kim Trần
- Kinh Bắc
- Kính Hòa
- Klaus Wiegerefe
- Kúm
- Kurt-Martin Mayer
- Kỳ Duyên
- Kyoko Numano
- L. N. Tolstoy
- L. V. H.
- La Khắc Hoà
- La Khắc Hòa
- Lã Nguyên
- Lại Nguyên Ân
- Lam Điền
- Lam Hạnh
- Lam Ngọc
- Lam Thái Hòa
- Lan Nguyên
- Lang Anh
- Langston Hughes
- LAP
- Larry Diamond
- Lars Vargö
- Laura Cappelle
- Laurent Sagalovitsch
- Lawrence Ferlinghetti
- Lâm Chương
- Lâm Duyên
- Lâm Hạnh
- Lâm Lê
- Lâm Ngân Mai
- Lâm Quang Mỹ
- Lâm Thị Mỹ Dạ
- Lenin
- Leon Trotsky
- Leonard Cohen
- Lê An Thế
- Lê Anh Hoài
- Lê Anh Hùng
- Lê Ân
- Lê Bá Đảng
- Lê Bích Vượng
- Lê Chiều Giang
- Lê Công Định
- Lê Công Giàu
- Lê Công Tư
- Lê Ðình Nhất Lang
- Lê Dũng
- Lê Duy Nam
- Lê Đạt
- Lê Đăng Doanh
- Lê Đình Cai
- Lê Đình Khẩn
- Lê Đình Thắng
- Lê Đỗ Huy
- Lê Đức Dục
- Lê Đức Thôn
- Lê Giang Trần
- Lê Hải
- Lệ Hằng
- Lê Hiệp
- Lê Hoài Nguyên
- Lê Hoàng Diễm Trang
- Lê Hoàng Lân
- Lê Học Lãnh Vân
- Lê Hồ Quang
- Lê Hồng Hà
- Lê Hồng Hiệp
- Lê Hồng Lâm
- Lê Hùng
- Lê Hùng Vọng
- Lê Huyền Ái Mỹ
- Lê Huỳnh Lâm
- Lê Hữu
- Lê Hữu Khoá
- Lê Hữu Khóa
- Lê Hữu Nam
- Lê Kế Lâm
- Lê Khải
- Lê Kim Duy
- Lê Ký Thương
- Lê Lạc Giao
- Lê Luân
- Lê Mã Lương
- Lê Mai
- Lê Mai Lĩnh
- Lê Mạnh Chiến
- Lê Mạnh Đức
- Lê Minh Chánh
- Lê Minh Hà
- Lê Minh Hiền
- Lê Minh Khuê
- Lê Minh Phong
- Lê Ngân Hằng
- Lê Ngọc Luân
- Lê Ngọc Sơn
- Lê Nguyễn
- Lê Nguyễn Duy Hậu
- Lê Nguyễn Hương Trà
- Lê Nguyên Long
- Lê Nguyên Vỹ
- Lê Như Bình
- Lê Oa Đằng
- Lê Phan
- Lê Phú Khải
- Lê Quang
- Lê Quang Đức
- Lê Quảng Hà
- Lê Quang Hợp
- Lê Quang Thành
- Lê Quân
- Lê Quốc Anh
- Lê Quỳnh
- Lê Quỳnh Mai
- Lê Sa Long
- Lê Si Na
- Lê Sơn
- Lê Tất Đạt
- Lê Tất Điều
- Lê Thanh Dũng
- Lê Thanh Hải
- Lê Thanh Phong
- Lê Thanh Trường
- Lê Thân
- lê thi diem thuý
- Lê Thị Hồng Minh
- Lê Thị Huệ
- Lê Thị Hường
- Lê Thị Oanh
- Lê Thị Thấm Vân
- Lê Thiết Cương
- Lê Thiếu Nhơn
- Lê Thọ Bình
- Lê Thời Tân
- Lê Thời Thôi
- Lê Thu Hiền
- Lê Thúy Bảo Liên
- Lê Tiên Long
- Lê Trí Tuệ
- Lê Trinh
- Lê Trọng Nghĩa
- Lê Trọng Nguyễn
- Lê Trung Tĩnh
- Lê Trường Thanh
- Lê Tuấn Huy
- Lê Tuyết Hạnh
- Lê Văn Bỉnh
- Lê Văn Hảo
- Lê Văn Hiếu
- Lê Văn Hòa
- Lê Văn Luân
- Lê Văn Sơn
- Lê Văn Trung
- Lê Văn Tùng
- Lê Vĩnh Tài
- Lê Vĩnh Triển
- Lê Vũ Trường Giang
- Lê Xuân Khoa
- Lê Xuyên
- Li Edelkoort
- Li Zhongqin
- Liêu Diệc Vũ
- Liêu Thái
- Liễu Trương
- Linh Nguyên
- Linh Văn
- Linh Vân
- Linh-Chân Brown
- LKH
- Lorca
- Louis Aragon
- Louise Glück
- Lộc Vàng
- Lợi Phan Mai
- Luân Hoán
- Ludwig von Mises
- Luke Hunt
- Luke Turner
- Lữ Kiều
- Lữ Quỳnh
- Lương Đào
- Lương Thiệu Quân
- Lương Thư Trung
- Lưu Á Châu
- Lưu Bình Nhưỡng
- Lưu Diệu Vân
- Lưu Đức Trung
- Lưu Hà
- Lưu Hiểu Ba
- Lưu Khánh Thơ
- Lưu Mê Lan
- Lưu Minh Hải
- Lưu Na
- Lưu Nhi Dũ
- Lưu Quang Vũ
- Lưu Thuỷ Hương
- Lưu Thủy Hương
- Lưu Trọng Văn
- Lưu Uyên Khôi
- Lý Đợi
- Lý Gia Trung
- Ly Hoàng Ly
- Lý Ngang
- Ly Phạm
- Lý Quang Hoàn
- Lý Thanh
- Lý Tiến Dũng
- Lý Toàn Thắng
- Lý Trực Dũng
- Lý Xuân Hải
- Lydia Davis
- Lynh Bacardi
- LysP
- M. Gorky
- M.L. Gasparov
- Mạc Phong Tuyền
- Mạc Văn Trang
- Mạc Việt Hồng
- Mạch Nha
- Mạch Quang Thắng
- Madeleine Riffaud
- Madlovics Bálint
- Magyar Bálint
- Mai An Nguyễn Anh Tuấn
- Mai Anh Tuấn
- Mai Bá Ấn
- Mai Bá Kiếm
- Mai Chanh
- Mai Hiền
- Mai Khôi
- Mai Kim Ngọc
- Mai Nhật
- Mai Ninh
- Mai Quốc Ấn
- Mai Quỳnh
- Mai Quỳnh Nam
- Mai Sơn
- Mai Thái Lĩnh
- Mai Thanh Sơn
- Mai Thảo
- Mai Tú Ân
- Mai Văn Hoan
- Mai Văn Phấn
- Mai Văn Tính
- Maki Starfield
- Mamleev
- Mạnh Kim
- Manuel Casimiro
- Mão Xuyên
- Marc Andrus
- Marcel Reich-Ranicki
- Marci Shore
- Marco Ferrarese
- Margarita Lyutova
- Maria Donovan
- Maria Ressa
- Mario Vargas Llosa
- Marion Hennebert
- Mark B. Hamilton
- Mark Binelli
- Mark Frankland
- Mark Osaki
- Mark Strand
- Marta Hillers
- Martin Jankowski
- Martin Kulldorff
- Marty Robbins
- Mary Morose
- Mary Walsh
- Mathias Mayer
- Matthew Clayfield
- Matthew Crawford
- Maurice Blanchot
- Maximilian Steinbeis
- May
- Maya Angelou
- Mặc Đỗ
- Mặc Lâm
- Mân Côi
- McAmmond Nguyễn Thị Tư
- Media Văn Việt
- Michael Burawoy
- Michael Scammell
- Miêng
- Mike Ives
- Mikhail Shishkin
- Mikhail Viktorovich Zygar
- Milan Kundera
- Mimmi Diệu Hường Bergström
- MInh Anh
- Minh Huệ
- Minh Hùng
- Minh Luật
- Minh Quang – Lê Chiên
- Minh Quang Ho
- Minh Tâm
- Minh Thùy
- Minh Thư
- Minh Toàn
- Minh Tuấn
- Monica Berlin
- Mỹ Hằng
- Mỹ Lan
- N. S. Khrushchev
- Nam Dao
- Nam Dao Nguyễn Mạnh Hùng
- Nam Đan
- Nam Đông
- Nam Nguyên
- Nam Sơn
- Naowarat Pongpaiboon
- Natalia lacovelli
- Nataliya Zhynkina
- Natsume Sōseki
- Nay Aung
- ng. anhanh
- Ng.Uyển Nicole Dương
- Ngải Vị VỊ
- Ngân Xuyên
- Nghệ thuật
- Nghĩa Đặng
- Nghiêm Lương Thành
- Nghiêm Phương Mai
- Nghiêm Xuân Hồng
- Nghiên Cứu Phê Bình
- Ngo Thu
- Ngọc Anh
- Ngọc Duy Phan
- Ngoc Hien Bui
- Ngọc Linh
- Ngô Anh Tuấn
- Ngô Bảo Châu
- Ngô Đình Thẩm
- Ngô Đồng
- Ngô Hương Giang
- Ngô Khắc Tài
- Ngộ Không Phí Ngọc Hùng
- Ngô Kim-Khôi
- Ngô Liêm Khoan
- Ngô Mai Phong
- Ngô Minh
- Ngô Minh Khôi
- Ngô Ngọc Loan
- Ngô Ngọc Trai
- Ngô Nguyên Dũng
- Ngô Nhật Đăng
- Ngô Quốc Phương
- Ngô Quốc Thịnh
- Ngô Thế Vinh
- Ngô Thị Kim Cúc
- Ngô Thị Thanh Lịch
- Ngô Tùng Phong
- Ngô Tự Lập
- Ngô Văn
- Ngô Văn Giá
- Ngô Viết Nam Sơn
- Ngô Viết Trọng
- Ngô Việt Trung
- Ngô Vĩnh Long
- Ngô Xuân Hội
- Ngô Xuân Phúc
- Ngô Xuân Thảo
- Ngu Yên
- Nguyen Duc Thanh
- Nguyễn Hải Hoành
- Nguyễn Anh Dũng
- Nguyễn Anh Tuấn
- Nguyễn Anh Tuấn - đạo diễn
- Nguyễn Bá Chung
- Nguyễn Bách Việt
- Nguyễn Bảo Chân
- Nguyễn Bắc Sơn
- Nguyên Bình
- Nguyễn Bính
- Nguyên Cầm
- Nguyên Cẩn
- Nguyên Chánh
- Nguyễn Chí Hoan
- Nguyễn Chí Thuật
- Nguyễn Chí Trung
- Nguyễn Chí Tuyến
- Nguyễn Chinh Trung
- Nguyễn Cung Thông
- Nguyễn Cường
- Nguyễn Danh Bằng
- Nguyễn Danh Huế
- Nguyễn Danh Lam
- Nguyễn Ðăng Thường
- Nguyễn Duy
- Nguyễn Dương Quang
- Nguyễn Đạt
- Nguyễn Đắc Kiên
- Nguyễn Đắc Xuân
- Nguyễn Đăng Điệp
- Nguyễn Đăng Hưng
- Nguyễn Đăng Khoa
- Nguyễn Đăng Mạnh
- Nguyễn Đăng Na
- Nguyễn Đăng Quang
- Nguyễn Đăng Thường
- Nguyễn Đình Ấm
- Nguyễn Đình Bin
- Nguyễn Đình Bổn
- Nguyễn Đình Chú
- Nguyễn Đình Cống
- Nguyễn Đình Đăng
- Nguyễn Đình Huỳnh
- Nguyễn Đình Thắng
- Nguyễn Đình Thi
- Nguyễn Đình Toàn
- Nguyễn Đổng Chi
- Nguyễn Đông Thức
- Nguyễn Đức
- Nguyễn Đức Dương
- Nguyễn Đức Hiệp
- Nguyễn Đức Mậu
- Nguyễn Đức Sơn
- Nguyễn Đức Thắng
- Nguyễn Đức Tiến
- Nguyễn Đức Tùng
- Nguyễn Đức Tường
- Nguyễn Gia Trí
- Nguyên Giác
- Nguyên Giác Phan Tấn Hải
- Nguyễn Hà Luân
- Nguyễn Hải Hoành
- Nguyễn Hải Yến
- Nguyễn Hàn Chung
- Nguyễn Hiến Lê
- Nguyễn Hoa Lư
- Nguyễn Hoài Nam
- Nguyễn Hoài Văn
- Nguyễn Hoài Vân
- Nguyễn Hoàn
- Nguyễn Hoàn Nguyên
- Nguyễn Hoàng Ánh
- Nguyễn Hoàng Anh Thư
- Nguyễn Hoàng Diệu Thủy
- Nguyễn Hoàng Diệu Thúy
- Nguyễn Hoàng Giao
- Nguyễn Hoàng Linh
- Nguyễn Hoàng Trung
- Nguyễn Hoàng Văn
- Nguyễn Hồng Anh
- Nguyễn Hồng Giao
- Nguyễn Hồng Hưng
- Nguyễn Hồng Lam
- Nguyễn Hồng Nhung
- Nguyễn Hồng Thục
- Nguyễn Huệ Chi
- Nguyễn Hùng
- Nguyễn Huy Hoàng
- Nguyễn Huy Thiệp
- Nguyễn Huy Vũ
- Nguyên Hưng
- Nguyễn Hưng Quốc
- Nguyễn Hương
- Nguyễn Hữu Đễ
- Nguyễn Hữu Hồng Minh
- Nguyễn Hữu Liêm
- Nguyễn Hữu Nhật
- Nguyễn Hữu Sơn
- Nguyễn Hữu Thiết
- Nguyễn Hữu Việt Hưng
- Nguyễn Hữu Vinh
- Nguyễn kc Hậu
- Nguyễn Khải
- Nguyễn Khánh Duy
- Nguyễn Khánh Trường
- Nguyễn Khắc An
- Nguyễn Khắc Bình
- Nguyễn Khắc Mai
- Nguyễn Khắc Ngân Vi
- Nguyễn Khắc Phê
- Nguyễn Khắc Phi
- Nguyễn Khắc Phục
- Nguyễn Khiêm
- Nguyễn Khôi
- Nguyễn Kiến Phước
- Nguyễn Kiều Dung
- Nguyễn Kiều Hưng
- Nguyễn Kim Hưng
- Nguyên Lạc
- Nguyễn Lãm Thắng
- Nguyễn Lan Phương
- Nguyễn Lân Bình
- Nguyễn Lân Thắng
- Nguyễn Lê Hồng Hưng
- Nguyễn Lệ Uyên
- Nguyễn Linh Giang
- Nguyễn Linh Quang
- Nguyễn Lộ Trạch
- Nguyễn Luận
- Nguyễn Lương Hải Khôi
- Nguyễn Lương Ngọc
- Nguyễn Lương Thịnh
- Nguyễn Lương Vỵ
- Nguyễn Mai
- Nguyễn Man Nhiên
- Nguyễn Mạnh An Dân
- Nguyễn Mạnh Côn
- Nguyễn Mạnh Đẩu
- Nguyễn Mạnh Tiến
- Nguyễn Manh Trinh
- Nguyễn Mạnh Trinh
- Nguyễn Mạnh Tuấn
- Nguyễn Mạnh Tường
- Nguyễn Minh Anh
- Nguyễn Minh Hòa
- Nguyễn Minh Kính
- Nguyễn Minh Nhị
- Nguyễn Minh Nhựt
- Nguyễn Minh Thuyết
- Nguyễn Mộng Giác
- Nguyên Ngọc
- Nguyễn Ngọc Chu
- Nguyễn Ngọc Đức
- Nguyễn Ngọc Giao
- Nguyễn Ngọc Hoa
- Nguyễn Ngọc Lanh
- Nguyễn Ngọc Liễm
- Nguyễn Ngọc Lung
- Nguyễn Ngọc Phương
- Nguyễn Ngọc Tâm
- Nguyễn Ngọc Thiện
- Nguyễn Ngọc Tú Anh
- Nguyễn Ngọc Tư
- Nguyên Nguyên
- Nguyễn Nguyên
- Nguyễn Nguyên Bình
- Nguyễn Nhật Lệ
- Nguyễn Nhật Tín
- Nguyên Nhi
- Nguyễn Như Huy
- Nguyễn Như Mây
- Nguyễn Phạm Hùng
- Nguyễn Phan Quế Mai
- Nguyễn Phú Yên
- Nguyễn Phúc Vĩnh Ba
- Nguyễn Phượng
- Nguyễn Phương Đình
- Nguyễn Phương Mai
- Nguyễn Phương Mạnh
- Nguyễn Quang
- Nguyễn Quang A
- Nguyễn Quang Bình
- Nguyễn Quang Duy
- Nguyễn Quang Dy
- Nguyễn Quang Đồng
- Nguyễn Quang Hồng
- Nguyễn Quang Hưng
- Nguyễn Quang Lập
- Nguyễn Quang Thạch
- Nguyễn Quang Thân
- Nguyễn Quang Thiều
- Nguyễn Quang VInh
- Nguyễn Quân
- Nguyễn Quốc Lâm
- Nguyễn Quốc Thái
- Nguyễn Quốc Toàn
- Nguyễn Quốc Trụ
- Nguyễn Quốc Tuấn
- Nguyễn Quốc Vương
- Nguyên Sa
- Nguyễn Sĩ Dũng
- Nguyễn Sơn Lâm
- Nguyễn Sỹ Phương
- Nguyễn Sỹ Tế
- Nguyễn Tà Cúc
- Nguyễn Tài Cẩn
- Nguyễn Tấn Cứ
- Nguyễn Tất Nhiên
- Nguyễn Thạch Giang
- Nguyễn Thái Hòa
- Nguyễn Thái Hợp
- Nguyễn Thái Sơn
- Nguyễn Thái Tuấn
- Nguyễn Thanh Bình
- Nguyễn Thanh Châu
- Nguyễn Thanh Giang
- Nguyễn Thanh Hiện
- Nguyễn Thanh Hùng
- Nguyễn Thanh Huy
- Nguyễn Thanh Huyền
- Nguyễn Thanh Mỹ
- Nguyễn Thành Nam
- Nguyễn Thanh Nghị
- Nguyễn Thanh Nguyệt
- Nguyễn Thành Phong
- Nguyễn Thanh Sơn
- Nguyễn Thành Sơn
- Nguyễn Thanh Tâm
- Nguyễn Thành Thi
- Nguyễn Thanh Tuyền
- Nguyễn Thanh Văn
- Nguyễn Thanh Việt
- Nguyễn Thế Hùng
- Nguyễn Thế Thanh
- Nguyễn Thị Ái Tiên
- Nguyễn Thị Bích Hậu
- Nguyễn Thị Bích Ngà
- Nguyễn Thị Bình
- Nguyễn thị Cỏ May
- Nguyễn Thị Dư Khánh
- Nguyễn Thị Hải
- Nguyễn Thị Hậu
- Nguyễn Thị Hiền
- Nguyễn Thị Hoàng
- Nguyễn Thị Hoàng Bắc
- Nguyễn Thị Hồng
- Nguyễn Thị Khánh Minh
- Nguyễn Thị Khánh Trâm
- Nguyễn Thị Kim Chi
- Nguyễn Thị Kim Phụng
- Nguyễn Thị Kim Thoa
- Nguyễn Thị Minh Ngọc
- Nguyễn Thị Minh Thương
- Nguyễn Thị Ngọc Hải
- Nguyễn Thị Ngọc Nhung
- Nguyễn Thị Oanh
- Nguyễn Thị Phước
- Nguyễn Thị Thanh Bình
- Nguyễn Thị Thanh Hải
- Nguyễn Thị Thanh Lưu
- Nguyễn Thị Thanh Xuân
- Nguyễn Thị Thanh Yến
- Nguyễn Thị Thảo An
- Nguyễn Thị Thúy Hạnh
- Nguyễn Thị Thùy Linh
- Nguyễn Thị Thụy Vũ
- Nguyễn Thị Thuyền
- Nguyễn Thị Tịnh Thy
- Nguyễn Thị Từ Huy
- Nguyễn Thị Vinh
- Nguyễn Thiện Tống
- Nguyễn Thiện Tơ
- Nguyễn Thói Đời
- Nguyễn Thông
- Nguyễn Thu Quỳnh
- Nguyễn Thu Trang
- Nguyễn Thụy Anh
- Nguyễn Thùy Dương
- Nguyễn Thúy Hạnh
- Nguyễn Thụy Long
- Nguyễn Thuỵ Phương
- Nguyễn Thùy Song Thanh
- Nguyễn Thỵ
- Nguyễn Thy Anh
- Nguyễn Tiến Dũng
- Nguyễn Tiến Lập
- Nguyễn Tiến Trung
- Nguyễn Tiến Văn
- Nguyễn Trần Bạt
- Nguyễn Tri Phương Đông
- Nguyễn Triệu Nam
- Nguyễn Trọng Bình
- Nguyễn Trọng Chức
- Nguyễn Trọng Huân
- Nguyễn Trọng Khôi
- Nguyễn Trọng Tạo
- Nguyễn Trung
- Nguyễn Trung Bảo
- Nguyễn Trung Dân
- Nguyễn Trung Hiếu
- Nguyễn Trung Kiên
- Nguyễn Trung Thuần
- Nguyễn Trường Giang
- Nguyễn Trường Huy
- Nguyễn Trường Uy
- Nguyễn Tuấn
- Nguyễn Tuấn Anh
- Nguyễn Tuấn Khoa
- Nguyễn Tùng
- Nguyễn Tùng Linh
- Nguyễn Tuyết Lan
- Nguyễn Tuyết Lộc
- Nguyễn Tư Nghiêm
- Nguyễn Tử Siêm
- Nguyễn Tường Bách
- Nguyễn Tường Thiết
- Nguyễn Tường Thụy
- Nguyễn Ước
- Nguyễn Vạn An
- Nguyễn Vạn Phú
- Nguyễn Văn
- Nguyễn Văn Ba
- Nguyễn Văn Chính
- Nguyễn Văn Ðậu
- Nguyễn Văn Dũng
- Nguyễn Văn Đài
- Nguyễn Văn Gia
- Nguyễn Văn Hạnh
- Nguyễn Văn Hiệp
- Nguyễn Văn Hòa
- Nguyễn Văn Hùng
- Nguyễn Văn Huyên
- Nguyễn Văn Lợi
- Nguyễn Văn Lục
- Nguyễn Văn Miếng
- Nguyễn Văn Nghệ
- Nguyễn Văn Nho
- Nguyễn Văn Phong
- Nguyễn Văn Phú
- Nguyễn Văn Phước
- Nguyễn Văn Sâm
- Nguyễn Văn Sơn
- Nguyễn Văn Tao
- Nguyễn Văn Thiệu
- Nguyễn Văn Thọ
- Nguyễn Văn Trọng
- Nguyễn Văn Trung
- Nguyễn Văn Tuấn
- Nguyễn Văn Vĩnh
- Nguyễn Văn Xuân
- Nguyễn Vi Khải
- Nguyễn Vi Yên
- Nguyễn Viện
- Nguyên Việt
- Nguyễn Việt Anh
- Nguyễn Việt Chiến
- Nguyễn Viết Dũng
- Nguyễn Viết Lãm
- Nguyễn Vĩnh Nguyên
- Nguyễn Vũ Hiệp
- Nguyễn Vũ Tiềm
- Nguyễn Vỹ
- Nguyễn Vy Khanh
- Nguyễn Xuân Diện
- Nguyễn Xuân Hằng
- Nguyễn Xuân Hoàng
- Nguyễn Xuân Hưng
- Nguyễn Xuân Khánh
- Nguyễn Xuân Khoát
- Nguyễn Xuân Nghĩa
- Nguyễn Xuân Nha
- Nguyễn Xuân Quang
- Nguyễn Xuân Thiệp
- Nguyễn Xuân Thọ
- Nguyễn Xuân Tiệp
- Nguyễn Xuân Tường Vy
- Nguyễn Xuân Vượng
- Nguyễn Xuân Xanh
- Nguyễn Ý Thuần
- Nguyên Yên
- Nguyễn-Chương Mt
- Nguyễn-hòa-Trước
- Nguyệt Chu
- Nguyệt Quỳnh
- Nguyệt Vi
- Ngự Thuyết
- Người Buôn Gió
- Ngyễn Trung Bảo
- Nh. Tay Ngàn
- Nhã
- Nhã Ca
- Nhã Duy
- Nhã Thuyên
- Nhan Do Thanh
- Nhân Hồng
- Nhật Chiêu
- Nhật Lệ
- Nhất Linh
- Nhật Tiến
- Nhật Tuấn
- Nhất Uyên
- Nhị Linh
- Nhị Ngã
- Nhóm Vì một Hà Nội xanh
- Như Huy
- Như Không
- Như Quỳnh
- Như Quỳnh de Prelle
- Như Ý
- Nhược Thủy
- Niall Ferguson
- Nick Hilden
- Nicolas Casey
- Nikulin
- Nina McPherson
- Ninh Dương
- Ninh Kiều
- Nobert Hummelt
- Nông Hồng Diệu
- NP Phan
- Obama
- Ocean Vương
- Octavio Paz
- Ogden Nash
- Oksana Zabuzhko
- Oleg Kashin
- Ondrej Slowik
- onggiaolang
- Orlando Figes
- Orwell
- Oscar Salemink
- Oscar Wilde
- Pablo Neruda
- Pablo Picasso
- Palmer
- Patrick Frater
- Patrick Lodge
- Paul Auster
- Paul Celan
- Paul Éluard
- Paul Hoover
- Paul Mendez
- Paul Mozur
- Paul Theroux
- Paul-François Paoli
- Paulus Lê Sơn
- Pavel Basinsky
- Pavlo Vyshebaba
- Paweł Kubiak
- Pawel Kuczynski
- Paweł Łepkowski
- Percy Mabandu
- Pervez Hoodbhoy
- Peter B. Zinoman
- Peter Hansen
- Peter Harvey
- Peter Kleiner
- Peter Singer
- Phạm Anh Tuấn
- Phạm Biểu Tâm
- Phạm Cao Hoàng
- Phạm Châu
- Phạm Chí Dũng
- Phạm Chi Lan
- Phạm Chu Sa
- Phạm Công Luận
- Phạm Công Thiện
- Phạm Công Trứ
- Phạm Công Út
- Phạm Duy
- Phạm Duy Nghĩa
- Phạm Đình Chương
- Phạm Đình Trọng
- Phạm Đình Vy
- Phạm Đoan Trang
- Phạm Hải Anh
- Phạm Hải Âu
- Phạm Hiền Mây
- Phạm Hoàng Quân
- Phạm Hồng Sơn
- Phạm Hùng Việt
- Phạm Huy Thông
- Phạm Khiêm Ích
- Phạm Kiều Tùng
- Phạm Kỳ Đăng
- Phạm Lệ Quyên
- Phạm Lê Vương Các
- Phạm Linh
- Phạm Lưu Vũ
- Phạm Minh Hoàng
- Phạm Minh Ngọc
- Phạm Minh Quân
- Phạm Minh Trung
- Phạm Ngọc Lư
- Phạm Ngọc Thái
- Phạm Ngọc Tiến
- Phạm Nguyên Trường
- Phạm Ngữ
- Phạm Phan Long
- Phạm Phú Cường
- Phạm Phú Hải
- Phạm Phú Minh
- Phạm Phú Phong
- Phạm Phú Thứ
- Phạm Phú Viết
- Phạm Phúc Thịnh
- Phạm Phương
- Phạm Quang Ái
- Phạm Quang Long
- Phạm Quang Trung
- Phạm Quang Tuấn
- Phạm Sỹ Sáu
- Phạm Tăng
- Phạm Thành
- Phạm Thành Hưng
- Phạm Thanh Nghiên
- Phạm Thảo Nguyên
- Phạm Thế Cường
- Phạm Thị
- Phạm Thị Anh Nga
- Phạm Thị Hoài
- Phạm Thị Kiều Ly
- Phạm Thị Ngọc
- Phạm Thị Phương
- Phạm Thiên Ân
- Phạm Thiên Thư
- Phạm Tín An Ninh
- Phạm Toàn
- Phạm Trần
- Phạm Trọng Chánh
- Phạm Trung Nghĩa
- Phạm Tuấn
- Phạm Tư Thanh Thiện
- Phạm Tường Vân
- Phạm Văn
- Phạm Văn Khoái
- Phạm Văn Quang
- Phạm Văn Tình
- Phạm Văn Vũ
- Pham Viem Phuong
- Phạm Viêm Phương
- Phạm Viết Đào
- Phạm Việt Hưng
- Phạm Vũ Lửa Hạ
- Phạm Xuân Đài
- Phạm Xuân Hùng
- Phạm Xuân Nguyên
- Phạm Xuân Trường
- Phan An Sa
- Phan Ba
- Phan Bội Châu
- Phan Cẩm Thượng
- Phan Châu Thành
- Phan Cự Đệ
- Phan Dương Hiệu
- Phan Đạo
- Phan Đắc Lữ
- Phan Đình Diệu
- Phan Độc Lập
- Phan Hải-Đăng
- Phan Hồng Giang
- Phan Huy Chú
- Phan Huy Dũng
- Phan Huy Đường
- Phan Huy Lê
- Phan Huyền Thư
- Phan Kế Toại
- Phan Khôi
- Phan Lặng Yên
- Phan Mạnh Quỳnh
- Phan Nam Sinh
- Phan Ngọc
- Phan Nguyên
- Phan Nhật Nam
- Phan Nhiên Hạo
- Phan Ni Tấn
- Phan Phương Đạt
- Phan Quang
- Phan Quỳnh Trâm
- Phan Tấn Hải
- Phan Tấn Uẩn
- Phan Thanh Bình
- Phan Thắng
- Phan Thế Hải
- Phan Thị Hà Dương
- Phan Thị Kim Phúc
- Phan Thị Trọng Tuyển
- Phan Thị Vàng Anh
- Phan Thu Vân
- Phan Thúy Hà
- Phan Trang Hy
- Phan Trí Đỉnh
- Phan Trọng Hoàng Linh
- Phan Văn Giưỡng
- Phan Văn Song
- Phan Văn Thắng
- Phan Vũ
- Phan Xine
- Phan Xuân Sinh
- Phannguyên Psg
- Phanxipăng
- Phaolô VI
- phap
- Pháp Hoan
- Pháp Vân
- Phapxa Chan
- Phát biểu nhận giải Văn Việt
- Phil Caputo
- Philip Larkin
- Philip Roth
- Phong Âm
- Phong Linh
- Phong Nguyen
- Phong Quang
- Phố Văn
- Phú Quang
- Phù Sa
- Phúc Lai GB
- Phúc Tiến
- Phunchok Stobdan
- Phùng Anh Kiệt
- Phùng Hi
- Phùng Hoài Ngọc
- Phùng Học Vinh
- Phùng Ngọc Kiên
- Phùng Nguyễn
- Phùng Quán
- Phùng Thành Chủng
- Phùng Thị Hạ Nguyên
- Phùng Thị Như Hà
- Phuong Ta
- Phương Hương
- Phương Phương
- Phương Thảo
- Phương Thuý
- Phương Uy
- Phương Xích Lô
- Pierre Darriulat
- Pierre Lemieux
- Prashanth Parameswaran
- Qladimir Pyljow
- Quách Hạo Nhiên
- Quách Tấn
- Quách Thoại
- Quảng Diệu Trần Bảo Toàn
- Quang Dũng
- Quang Đức
- Quang Minh
- Quang Phan
- Quảng Tánh Trần Cầm
- Quậy Nguyễn
- Quế Hương
- Quốc Dũng
- Quốc Phương
- Quốc Toản
- Quyên Di
- Quyên Hoàng
- Quỳnh Dao
- Quỳnh Hợp
- Quỳnh Iris de Prelle
- Quỳnh Vi
- Rabindranath Tagore
- Rachel Adams
- Rainer Maria Rilke
- Ralph Chaplin
- Rebecca Mead
- Rebecca Solnit
- Reiner Traub
- Remo Verdickt
- Riccardo Gazzaniga
- Richard C. Paddock
- Richard Millet
- Richard Serra
- Robert Desnos
- Robert McCrump
- Roger Vu
- Roland Barthes
- Romain Rolland
- Ronald F. Inglehart
- Ruben David Gonzalez Gallego
- Russell Edson
- Ruth Ingram
- Ryszard Legutko
- Salman Rushdie
- Salvatore Babones
- Sam Dresser
- Sạn chữ
- Sandra Kerschbaumer
- Sara Teasdale
- Sarah Pulliam Bailey
- Sarah Thornton
- Sáu Nghệ
- Sergio Bitar
- Shakespeare
- Shannon Van Sant
- Sheikha A
- Sheila Fischman
- Sheila Ngoc Pham
- Sheri Berman
- Shigeeda Yutaka
- Shirin Ebadi
- Shukshin
- Simon Johnson
- Sire Apm Lukwesa
- Slavoj Žižek
- Sohaniim
- Son Kieu Mai
- Song Chi
- Song Hà
- Song Nguyễn
- Song Phạm
- Song Phan
- Song Thao
- Số đặc biệt
- Sơn Ca
- Sơn Hoàng Liên
- Sơn Kiều Mai
- Sơn Nam
- Stalin
- Stefan Dege
- Stefano Harney
- Stephan Koester
- Stephen B. Young
- Steve Earle
- Susan Sontag
- Suzuki Katsuhiko
- Sương Nguyệt Minh
- Sương Quỳnh
- Svetlana Alexievich
- Svetlana Alexievitch
- Svetlana Alexiévitch
- Sylvia Plath
- T. Đ.
- T.Vấn
- Tạ Anh Thư
- Tạ Chí Đại Trường
- Tạ Duy Anh
- Tạ Tỵ
- Tạ Văn Tài
- Tạ Văn Thông
- Tạ Xuân Hải
- Tadeusz Rósewicz
- Tam Ích
- Tamarchenko
- Tàn Tuyết
- Tanaami Keiichi
- Taras Shevchenko
- Tarik Khaldi
- Tawada Yoko
- Tăng Quang
- Tâm An
- Tâm Bình
- Tâm Chánh
- Tâm Don
- Tâm Thường Định
- Tâm Việt
- Tấn An
- Teolinda Gersão
- Teresa Mỹ Chúc
- Thạch Đạt Lang
- Thạch Quỳ
- Thạch Thảo
- Thái Bá Tân
- Thái Bá Vân
- Thái Bảo
- Thái Hà
- Thái Hạo
- Thái Kế Toại
- Thái Kim Lan
- Thái Ngọc San
- Thái Sinh
- Thái Thanh
- Thái Thăng Long
- Thái Tuấn
- Thái Văn
- Thái Văn Đào
- Thái Vũ
- Thạnh Đà
- Thanh Hằng - Anh Khoa
- Thành Lộc
- Thanh Nam
- Thanh Ngọc
- Thanh Phương
- Thanh Tâm Tuyền
- Thanh Thảo
- Thanh Thuỷ
- Thanh Trúc
- Thanh Tùng
- Thanh Xuân
- Thanhhà Lại
- Thảo Dân
- Thao Dinh
- Thảo luận
- Thảo Nguyên
- Thảo Trường
- Thảo Vy
- Thẩm Đống
- Thẩm Hoàng Long
- Thận Nhiên
- Thân Trọng Mẫn
- Thân Trọng Sơn
- Thế Dũng
- Thế Giang
- Thế Quân
- THẾ THANH
- Thế Uyên
- Thi Hoàng
- Thi Nguyên
- Thi sỹ ỦA
- Thi Vũ
- Thích Nhất Hạnh
- Thích Nữ Chân Không
- Thích Phước An
- Thích Quảng Độ
- Thierry Leclère
- Thierry Lentz
- Thiên Di
- Thiên Điểu
- Thiền Lâm
- Thiền Nguyễn
- Thiên Thai
- Thiện Tùng
- Thiện Ý
- Thiền Zen Paul Vân Thuyết
- Thiết Thạch
- Thiếu Khanh
- Thiều Mai Lâm
- Tho Nguyen
- Thomas A. Bass
- Thomas Bo Pedersen
- Thomas Mahler
- Thomas S. Mullaney
- Thông Đặng
- Thơ
- Thu Phong
- Thu Vàng
- Thuận
- Thuần Ngô
- Thuận Paris
- Thuận Thiên
- Thục Quyên
- Thụy An
- Thùy Dung
- Thụy Khuê
- Thùy Linh
- Thụy My
- Thủy Tiên
- Thư Bạn Đọc
- Thường Quán
- Thy An
- Tịch Ru
- Tiet Hung Thai
- Tiêu Dao Bảo Cự
- Tiêu Kiện Sinh
- Tiểu Tử
- Tillman Miller
- Timothy Brennan
- Timothy Garton Ash
- Timothy Snyder
- Tina Hà Giang
- Tom Fawthrop
- Tomas Tranströmer
- Tô Đăng Khoa
- Tô Hải
- Tô Hoàng
- Tố Hữu
- Tô Lan Hương
- Tô Ngọc Vân
- Tô Thẩm Huy
- Tô Thùy Yên
- Tô Văn Trường
- Tôi Đây
- Tôn Thất Thông
- Tống Văn Công
- Trà Bình
- Trà Đóa
- Trà Nhiên
- Tracy K. Smith
- Tran Dinh Dung
- Tran Nam Dung
- Trang Châu
- Trang Hạ
- Trang Thanh
- Trang Thế Hy
- Trangđài Glassey Trầnguyễn
- Trangđài Glasssey-Trầnguyễn
- Trao đổi
- Trầm Tử Thiêng
- Trần Anh Hùng
- Trần Bá Đại Dương
- Trần Bang
- Trần Bình Nam
- Trần C. Trí
- Trần Cao Lĩnh
- Trần Cao Tường
- Trần Công Tâm
- Trần Công Tín
- Trần Dạ Từ
- Trần Dần
- Trần Doãn Nho
- Trần Dũng Thanh Huy
- Trần Duy
- Trần Duy Phiên
- Trần Duy Trung
- Trần Đăng Khoa
- Trần Đăng Tuấn
- Trần Đĩnh
- Trần Đình Bút
- Trần Đình Hoành
- Trần Đình Lương
- Trần Đình Sơn Cước
- Trần Đình Sử
- Trần Đình Thắng
- Trần Đình Triển
- Trần Đình Trợ
- Trần Độ
- Trần Đồng Minh
- Trần Đức Anh Sơn
- Trần Đức Nguyên
- Trần Đức Thảo
- Trần Đức Tiến
- Trần Đức Tín
- Trần Đức Toản
- Trần Gia Huấn
- Trần Gia Ninh
- Trần Hà Linh
- Trần Hạ Tháp
- Trần Hạ Vi
- Trần Hải
- Trần Hạnh
- Trần Hậu
- Trần Hoài Anh
- Trần Hoài Thư
- Trần Hoàng Phố
- Trần Hoàng Trúc
- Trần Hoàng Vy
- Trần Hùng
- Trần Huy Bích
- Trần Huy Minh Phương
- Trần Huy Quang
- Trần Huỳnh Duy Thức
- Trần Hữu Dũng
- Trần Hữu Khánh
- Trần Hữu Quang
- Trần Hữu Tá
- Trần Hữu Thục
- Trần Khánh Triệu
- Trần Kiêm Đoàn
- Trần Kiêm Trinh Tiên
- Trần Kim Trắc
- Trần Kỳ Trung
- Trần Lam
- Trần Lê Sơn Ý
- Trần Lương
- Trần Lý Trí Tân
- Trần Mạnh Hảo
- Trần Mạnh Tuấn
- Trần Minh Phi
- Trần Minh Quốc
- Trần Mộng Tú
- Trần Nam Bình
- Trần Ngân Hà
- Trần Nghi Hoàng
- Trần Ngọc Cư
- Trần Ngọc Hiếu
- Trần Ngọc Tuấn
- Trần Ngọc Vương
- Trần Nguyên Đán
- Trần Nhã Thụy
- Trần Nhương
- Trần Phong Giao
- Trần Phong Vũ
- Trần Quang Đức
- Trần Quang Lộc
- Trần Quốc Nam
- Trần Quốc Thuận
- Trần Quốc Toàn
- Trần Quốc Trọng
- Trần Quốc Vượng
- Trần Quyết Thắng
- Trân Sa
- Trần Song Hào
- Trần Thành
- Trần Thanh Ái
- Trần Thanh Cảnh
- Trần Thanh Huy
- Trần Thanh Vân
- Trần Thắng
- Trần Thế Vĩnh
- Trần Thị Băng Thanh
- Trần Thị Diệu Tâm
- Trần Thị Lai Hồng
- Trần Thị Lam
- Trần Thị NgH.
- Trần Thị Nguyệt Mai
- Trần Thị Phương Phương
- Trần Thị Thanh Thoả
- Trần Thị Trường
- Trần Thiện Đạo
- Trần Thùy Mai
- Trần Tiến
- Trần Tiễn Cao Đăng
- Trần Tiến Dũng
- Trần Tiễn Khanh
- Trần Tố Nga
- Trần Trọng Dương
- Trần Trọng Thức
- Trần Trọng Vũ
- Trần Trung Chính
- Trần Trung Đạo
- Trần Tuấn
- Trần Từ Mai
- Trần Vàng Sao
- Trần Văn Chánh
- Trần Văn Chung
- Trần Văn Đỉnh
- Trần Văn Khê
- Trần Văn Minh
- Trần Văn Nam
- Trần Văn Thọ
- Trần Văn Thủy
- Trần Văn Tý
- Trần Vấn Lệ
- Trần Việt Hà
- Trần Viết Ngạc
- Trần Vinh Dự
- Trần Vũ
- Trần Vũ Hải
- Trần Vương Thuấn
- Trần Vương Thuận
- Trần Wũ Khang
- Trần Xuân Hoài
- Trần Xuân Kiêm
- Trần Xuân Linh
- Trần Xuân Lĩnh
- Trần Xuân Thảo
- Trần Yên Hòa
- Trần Yên Nguyên
- Trên
- Trên Facebook
- Trên Facebook/Minds
- Trên kệ sách
- Trên trang diaCRITICS
- Trí Hiệu Dân
- Triều Anh
- Triều Hoa Đại
- Triêu Nhan
- Triều Sơn
- Triệu Tử Dương
- Trịnh Anh Tuấn
- Trịnh Bá Phương
- Trịnh Bách
- Trịnh Cao Hòa Thanh
- Trịnh Chu
- Trịnh Công Sơn
- Trịnh Cung
- Trịnh Duy Kỳ
- Trịnh Hữu Long
- Trịnh Kim Tiến
- Trịnh Lữ
- Trịnh Minh Tuấn
- Trịnh Sơn
- Trịnh Thanh Thủy
- Trịnh Thu Tuyết
- Trịnh Vĩnh Phúc
- Trịnh Xuân Thuận
- Trịnh Xuân Thủy
- Trịnh Y Thư
- Trọng Anh
- Trọng Phú
- Trọng Thành
- Tru Sa
- Trúc Giang
- Trúc Thông
- Trúc Ty
- Trump
- Trung Bảo
- Trung Dũng Kqd
- Trung Dũng Kqđ
- Trùng Dương
- Trung Trung Đỉnh
- Trư Sa
- Trường An
- Trương Anh Ngọc
- Trương Anh Thụy
- Trương Chính
- Trương Duy Nhất
- Trương Đăng Dung
- Trương Điện Thắng
- Trương Đình Phượng
- Trương Hồng Quang
- Trương Huy San
- Trường Minh
- Trương Ngọc Chương
- Trương Nguyên
- Trương Nguyện Thành
- Trương Nhân Tuấn
- Trương Phượng
- Trương Quang
- Trương Quang Đệ
- Trương Quang Nhuệ
- Trương Quang Vĩnh
- Trương Thanh Thuận
- Trương Thị Ngọc Hân
- Trương Thiên Phàm
- Trương Thu Hiền
- Trương Tố Hoa
- Trương Trọng Nghĩa
- Trương Tửu
- Trương Văn Dân
- Trương Văn Vĩnh
- Trương Vũ
- Trương Xuân Thiên
- Tú Mỡ
- Tù Quốc Hoài
- Tù Sâm
- Tú Trung Hồ
- Tuấn Duy
- Tuấn Khanh
- Tuân Nguyễn
- Tuấn Thảo
- Tuệ Anh
- Tuệ Đăng
- Tuệ Nguyên
- Tuệ Nhân
- Tuệ Nhật
- Tuệ Sĩ
- Tuệ Sỹ
- Tùng Dương Cola
- Tung Nguyen
- Turner
- Túy Hồng
- Tuyết Nghi
- Tư
- Từ Dung
- Tư liệu
- Tử Linh
- Từ Mai Trần Huy Bích
- Từ Quốc Hoài
- Từ Sâm
- Từ Thức
- Tưởng
- Tương Lai
- Umberto Eco
- Uông Tăng Kỳ
- Uông Triều
- Uyển Ca
- Uyên Nguyên
- Uyên Nguyễn
- Uyên Thao
- Uyên Vũ
- V. Erofiev
- Vàng A Giang
- Varlam Shalamov
- Vasco Gargalo
- Vasily Makarovich
- Văn
- Văn Biển
- Văn Cao
- Văn Chinh
- Văn Công Hùng
- Văn Giá
- Văn học
- Văn học Miền Nam 54-75
- Văn Như Cương
- Văn Quang
- Văn Tâm
- Văn Việt
- Văn.
- Vấn đề hôm nay
- Vận Động Ứng Cử Đại Biểu Quốc Hội 2016
- Vân Hạ
- Vân Phi
- Velcrow Ripper
- Veronica Melkozerova
- Vi Lãng
- Vi Trần
- Vi Yên
- Viet Thanh Nguyen
- Viên Linh
- Việt Bách
- Việt Bình
- Việt Dzũng
- Việt Khang
- Việt Lang
- Việt Phương
- Viktor Astafyev
- Viktor Maslov
- Vinh Anh
- Vĩnh Hảo
- Vĩnh Quyền
- Virginia Heffernan
- Virginia Woolf
- Vladimir Nabokov
- Vladimir Voronov
- Võ An Đôn
- Võ Anh Minh
- Võ Anh Thơ
- Võ Bá Cường
- Võ Đắc Danh
- Võ Định Hình
- Võ Đức Phúc
- Võ Hồng
- Võ Huy Tâm
- Võ Hương Quỳnh
- Võ Kỳ Điền
- Võ Ngàn Sông
- Võ Phiến
- Võ Thị Hảo
- Võ Thị Thu Hằng
- Võ Tiến Cường
- Võ Tòng Xuân
- Võ Trí Hảo
- Võ Văn Quản
- Võ Văn Tạo
- Võ Văn Thôn
- Võ Xuân Quế
- Võ Xuân Sơn
- Volker Weidermann
- Volodymyr Vynnychenko
- Volodymyr Zelenskyy
- Vũ Bằng
- Vũ Biện Điền
- Vũ Cao Đàm
- Vũ Cát Tường
- Vũ Đình Hòe
- Vũ Đình Huỳnh
- Vũ Đình Liên
- Vũ Đình Phòng
- Vũ Đức Khanh
- Vũ Đức Phúc
- Vũ Đức Sao Biển
- Vu Gia
- Vũ Hà Văn
- Vũ Hạnh
- Vũ Hoàng Chương
- Vũ Hoàng Thư
- Vũ Hồng Ánh
- Vũ Huy Ngọc
- Vũ Huy Quang
- Vũ Khắc Hoè
- Vũ Khắc Khoan
- Vũ Kim Hạnh
- Vũ Kim Thu
- Vũ Lâm
- Vũ Lập Nhật
- Vũ My Lan
- Vũ Ngọc Giao
- Vũ Ngọc Hoàng
- Vũ Ngọc Tâm
- Vũ Ngọc Tiến
- Vũ Nho
- Vũ Oanh
- Vũ Quang Việt
- Vũ Quí Hạo Nhiên
- Vũ Quốc Ngữ
- Vũ Quỳnh Hương
- Vũ Quỳnh Nh.
- Vũ Thành Sơn
- Vũ Thanh Tâm
- Vũ Thanh Tùng
- Vũ Thành Tự Anh
- Vũ Thế Khôi
- Vũ Thị Hải
- Vũ Thị Nhuận
- Vũ Thị Phương Anh
- Vũ Thị Phương Lan
- Vũ Thị Thanh
- Vũ Thị Thanh Mai
- Vũ Thư Hiên
- Vũ Tiến Lập
- Vũ Trọng Khải
- Vũ Trọng Phụng
- Vũ Tuấn Hoàng
- Vũ Từ Trang
- Vũ Tường
- Vũ Viết Tuân
- Vũ Xuân Tửu
- Vương Bích Ngọc
- Vương Đan
- Vương Hỗ Ninh
- Vương Huy
- Vương Ngọc Minh
- Vương Tiểu Nhị
- Vương Trí Nhàn
- Vương Trọng
- Vương Trùng Dương
- Vương Trung Hiếu
- Vy Thảo
- W. H. Auden
- Wa Praong
- Walt Whitman
- Walter Isaacson
- Wayne Karlin
- Wells
- Wendy Barker
- Wiesiek Powaga
- Wilhelm Schmid
- Will Nguyen
- William Carlos Williams
- William Nee
- William Stafford
- William Stanley Merwin
- Winston Phan Đào Nguyên
- Wislawa Szymborska
- Władysław Reymont
- Wolf Biermann
- Wolfgang Borchert
- Wynn Gadkar Wilcox
- Xie Tao
- Xuân Ba
- Xuân Diệu
- Xuân Dương
- Xuân Đài
- Xuân Minh
- Xuân Phượng
- Xuân Sách
- Xuân Thọ
- Xuân Vũ
- Xương Văn
- Y Chan
- Ỷ Lan
- Ý Nhi
- Y Uyên
- Yanis Varoufakis
- Yevgeny Yevtushenko
- Yên Ba
- Yên Khắc Chính
- Yến Năng
- Yên San
- Yên San Thụy Miên
- Yên Thao
- Yiyun Li
- Yoko Ogawa
- Yōko Ogawa
- Yoko Tawada
- Young Sang Lee
- Yuliya Ilchuk
- Yuno Bigboi
- Yves Sintomer
- Yvette Tan
- Zac Herman
Về vấn đề ngôn ngữ và sự sáng tạo của nhà văn, nhà thơ (1)
Bùi Vĩnh Phúc
Rust and Blue (Mark Rothko, 1953)
Trên tập san văn học nghệ thuật biên khảo Hợp Lưu, số 13, tháng 10 & 11 năm 1993, tôi có cho phổ biến bài Mấy suy nghĩ thơ (mà tôi vừa xem lại & nhuận sắc/bổ sung ở một vài chỗ), qua đó, tôi bàn về một số yếu tính của thơ cũng như đưa ra một vài suy nghĩ về nghệ thuật thơ nói chung. Đặc biệt, khi bàn về những nét sáng tạo trong thơ của một số tác giả, xưa cũng như nay, tôi có nhắc đến câu thơ “[Sắc đâu nhuộm ố quan hà] Cỏ vàng cây đỏ bóng tà tà dương” của Tản Đà. Trong cái nhìn thi pháp và phong cách học, tôi có đưa ra một vài suy nghĩ về câu thơ trên. Đi vào cấu trúc ngữ pháp (một phần của thi pháp và phong cách học), tôi cho rằng Tản Đà đã làm mới câu thơ và, cùng lúc, làm mới cái nhìn của người thưởng ngoạn thơ trong phong cách dùng từ của mình.
Bài viết ấy có một số tiếng vang.
Mấy tháng sau số báo ấy, tòa soạn Hợp Lưu có nhận được một bài đóng góp khá kỹ về vấn đề câu thơ của Tản Đà và về những lập luận của tôi. Bài viết của một thức giả, một nhà văn/một nhà phê bình. Trong tinh thần làm việc nghiêm túc, tòa soạn Hợp Lưu đã trao cho tôi một phóng ảnh bản thảo viết tay của bài viết ấy (lúc này computer và internet chưa thật sự phổ biến) để tôi suy nghĩ và trả lời. Và để Hợp Lưu đăng cả hai bài trên cùng một số báo (vì báo cứ hai tháng mới ra một số). Bài đóng góp của vị độc giả đưa ra một số nhận xét và suy nghĩ lý thú. Và tôi đã gửi bài trả lời của mình cho Hợp Lưu. Tuy nhiên, chỉ tiếc là, sau đó, vì một vài lý do đặc biệt, cả bài đóng góp của vị thức giả lẫn bài phúc đáp của tôi đều không có cơ hội phổ biến.
Nhận thấy bài đóng góp vừa nói có những điểm lý thú và hữu ích, có thể làm căn bản cho một cuộc thảo luận nghiêm chỉnh và tích cực về mặt văn học, tôi xin tóm lược những nhận xét, những luận điểm và những đóng góp của tác giả bài viết trong phần dưới đây để, từ đó, trình bày một số những suy nghĩ và trao đổi về những điều đã được bài viết nêu lên.
Ngoài ra, từ những ý kiến trong bài góp ý, tôi thấy nảy sinh ra nhiều điều thật đẹp và thật đáng bàn về ngôn ngữ. Và sự thảo luận của tôi, mặc dù vẫn bám sát những câu hỏi được đặt ra cho tôi liên hệ đến quan điểm mà tôi đã trình bày trong bài Mấy suy nghĩ thơ, sẽ còn được mở rộng ra để bàn thêm về một số khía cạnh lý thú và đáng chú ý của ngôn ngữ.
Trong cái nhìn của tôi, những vấn đề được thảo luận trong bài viết dưới đây có liên hệ đến ngôn ngữ nói chung, ngôn ngữ văn học nói riêng, từ đó, phong cách văn học và sự sáng tạo trong văn chương của các nhà văn, nhà thơ.
Bài viết của vị thức giả đóng góp với tôi đã tạo được những tiền đề tốt cho phần trình bày của tôi trong bài thảo luận này. [Bài thảo luận này của tôi đã được in trong sách Lý luận và phê bình / Hai mươi năm văn học Việt ngoài nước, 1975-1995 (Bùi Vĩnh Phúc. California, Văn Nghệ, 1996) cùng với bài Mấy suy nghĩ thơ của tôi.] Phần thảo luận/trình bày dưới đây là nguyên văn bài viết ấy, vừa được nhuận sắc và bổ sung thêm một vài chi tiết. Cả bài viết gốc, đăng trong sách vừa nói, và bài mới nhuận sắc đều chưa được phổ biến trên các báo chí hay các diễn đàn mạng.
Tôi mong là vấn đề được trình bày và thảo luận trong bài sẽ được coi là một nỗ lực nhỏ trong việc tìm hiểu, soi chiếu thêm về một số khía cạnh của ngôn ngữ, đặc biệt ngôn ngữ văn học, cũng như một vài tìm hiểu/gợi ý về phong cách và các sáng tác văn học của người Việt. Xin, một lần nữa, được trân trọng cám ơn vị độc giả về những suy nghĩ và nhận xét lý thú và đáng quan tâm qua bài đóng góp, chia sẻ của mình.
BVP (III, 2025)
_________________________________________
Trong bài viết của mình, tác giả bài đóng góp đã đưa ra một số luận điểm để đặt vấn đề về những quan điểm mà tôi đã dùng để nhìn và phân tích câu thơ của Tản Đà. Có thể tóm gọn, nhưng vẫn đủ ý, những luận điểm ấy như sau:
1. Về vấn đề khu biệt từ loại: Vị độc giả cho rằng, ngày xưa, trong tiếng ta, các cụ không khu biệt từ loại, chỉ có một khái niệm chung chung về thực từ, hư từ; chỉ đến khi tiếp xúc với phương Tây, từ đầu thế kỷ XX, ta mới phân chia một cách mô phỏng theo văn phạm Tây phương, không có căn bản gì. Nhưng từ non nửa thế kỷ nay, từ loại đã được khu biệt rõ nét với Lê Văn Lý (1948, Le parler vietnamien), F. Martini (1950, L'opposition nom et verbe vietnamien), và gần đây với Nguyễn Tài Cẩn (1975, Từ loại danh từ trong tiếng Việt hiện đại – chung với một số tác giả khác). [Thật ra, cuốn này hoàn toàn chỉ do NTC viết. BVP chú]. Ông ghi nhận vắn gọn thêm: Lê Văn Lý đưa ra bảng so sánh, đối lập từ loại gồm 9 điểm; Martini thì đề xuất 7 tiêu chuẩn; Nguyễn Tài Cẩn nêu lên 3 đặc điểm của danh từ.
2. Theo quan điểm của ông, dù được dùng trong câu thơ của Tản Đà hay là dùng ở ngoài, bóng tà và tà dương là hai danh từ kép. Một thuần Việt và một Hán Việt. Ông coi bóng tà và tà dương đồng nghĩa với nhau, mặc dù chúng có những âm vang về ý nghĩa khá khác nhau do cấu trúc thuần Việt và Hán Việt của chúng. Trong hướng nhìn này, ông cũng coi bóng tà dương là một danh từ. Ông đưa thí dụ tên một quyển truyện của nhà văn Lê Minh, Bóng tà dương, in năm 1944 tại Hà Nội.
3. Theo ông, bóng dương là một từ chứ không phải là một cụm từ; bởi thế, ta không thể tách bóng và dương ra để phân tích riêng. Ông dẫn Chinh phụ ngâm:
Hướng dương lòng thiếp dường hoa
Lòng chàng lẩn thẩn e tà bóng dương
Bóng dương để hoa vàng chẳng đoái
Hoa để vàng cũng tại bóng dương.
Ông cho rằng từ bóng dương luyến láy trong bốn câu thơ trên là dịch chữ lưu quang, cũng được lặp đi lặp lại ba lần trong nguyên bản chữ Hán của Đặng Trần Côn. Ông coi bóng dương là danh từ, làm chủ từ hay vị từ gián tiếp trong bốn câu thơ trên.
Theo ông, khi ta nói bóng dương thì đây là một từ cố định, một thứ thành ngữ văn học. Người ta thỉnh thoảng thấy nó trong Chinh phụ ngâm (4 nơi) hay Cung oán ngâm khúc (2 lần, ẩn dụ hình ảnh vua). Bóng dương không thể coi là một cụm từ, cũng giống như Nguyễn Kim Thản đã khu biệt: trả lời là một từ; còn trả nợ là một cụm từ. Hoặc như Hồ Lê phân biệt: sân rộng là một cụm từ tự do; còn sân bay là một từ cố định.
Ông đưa thêm các từ cố định nữa như nhà đất, nhà thương điên, nhà thổ, mặt trời. Ông cho rằng bóng dương, bóng đá, bóng tròn được sử dụng theo một quy cách như nhau. Ông lý luận, người ta không nói bóng rất dương, bóng một dương, bóng ba đá...
4. Trong hướng lý luận coi tà dương là một từ, ông không chấp nhận việc tách tà ra khỏi dương. Tuy nhiên, dẫn Hồ Lê (1976, Vấn đề cấu tạo từ của tiếng Việt hiện đại), ông cho rằng, ở những nơi khác, tà cũng có nghĩa khi nó được coi như một “nguyên vị tiềm tàng” gốc Hán dùng để kết hợp thành từ Hán Việt. Ông dẫn chữ tà theo nghĩa là ác, xấu như trong tà đạo, tà thuyết, tà dâm. Ông cho rằng chữ tà tà Việt hóa ngày nay có một ý nghĩa và âm vang khác. Ông dẫn Trịnh Công Sơn: Và như thế tôi cứ say dài dài, và như thế tôi cứ say tà tà.
5. Tác giả cho rằng câu Cỏ vàng cây đỏ bóng tà tà dương phải được ngắt ra làm bốn khúc, theo nhịp 2/ 2/ 2/ 2. Ông cho rằng hơi thở và hơi thơ phải ngưng lại sau chữ bóng tà. Ông bảo, “quy luật thơ lục bát không cho phép có một biệt lệ nào khác.” Do đó, phải tách lìa hai chữ tà tà, vì chúng khác nhau về mặt ngữ âm (tà trước dài hơn tà sau), và về mặt ngữ nghĩa (tà trước là cấu trúc tiếng Việt, mô tả ánh nắng chiều cụ thể; tà sau là cấu trúc Hán Việt, tạo một không khí mông lung như một cảm từ.)
6. Bác bỏ hướng phân tích của tôi trên mặt lý thuyết ngôn ngữ, liên hệ đến vấn đề sáng tạo trong văn chương, ông cho rằng dương không thể là tính từ trong cụm bóng tà tà dương (trong câu thơ Cỏ vàng cây đỏ bóng tà tà dương). Ông đưa câu thơ Hoa ghen thua thắm liễu hờn kém xanh để lập luận: những hệ từ thua, kém (hay bằng, rất...) xác định những chữ xanh, thắm là tính từ. Từ dương không dùng kèm được như vậy thì không là tính từ. Cũng trong hướng phân tích ấy, ông cho rằng người ta có thể dùng những hư từ cầu khiến hãy, đừng, chớ với những chữ hờn và ghen; vậy hờn và ghen là động từ. Những hư từ kể trên không thể dùng kèm với hoa và liễu, vì hoa và liễu là danh từ.
7. Về sự hoán chuyển từ loại của từ, tác giả bài góp ý, giống như trong hướng trình bày của tôi về thao tác đặc biệt của từ loại, đã đóng góp thêm được nhiều thí dụ lý thú. Chẳng hạn:
Trăng rất trăng là trăng của tình duyên.
Ông cho rằng, trăng là danh từ, nhưng với phụ tố rất, Xuân Diệu dùng nó như tính từ.
Đã sương, đã khói, đã vài mấy năm (Hoa tiên)
Sương, khói dùng như tính từ.
Ảo tưởng nghiêng vầng trán khói sương.
(...) Chưa khuất đầu non đã cố nhân.
(...) Em đến thăm tôi nắng đã chiều.
(...) Tình cũng quan san từ đáy mắt. (Đinh Hùng)
Trong bài viết của mình, tôi trích Hàn Mặc Tử:
Mau rất mau trong hương hoa kiều mỵ
Mùa rất trai và ánh sáng rất cao
Tôi cho rằng trong hai câu thơ trên, với phong cách sáng tạo của mình, nhà thơ đã biến trai (trong Mùa rất trai) đang từ danh từ thành ra tính từ. Tác giả bài góp ý cho rằng, thật ra, về mặt từ loại, chữ trai không được khu biệt. Nó sẽ là danh từ khi ta nói: Vương viên ngoại có một trai, hai gái; nó là tính từ khi ta nói: Viên ngoại có ba người con, một người con trai và... Trong câu sau này, từ trai là tính từ bổ nghĩa cho danh từ người con (mà ta không nên nhầm với chữ con, loại từ, trong con mèo, con sông). Ông cho rằng câu thơ của Hàn Mặc Tử chỉ là một lối từ hoa: trai là một tính từ vì có chữ rất, nhằm nhân cách hóa chữ mùa ẩn dụ thời gian.
Bảy điểm trên là tóm gọn, và đủ, những luận điểm và trao đổi mà tác giả bài góp ý đưa ra. Nội dung của những luận điểm này, xét trên mặt ngôn ngữ, rất đáng chú ý. Nó đặt ra những câu hỏi và những vấn đề mà chúng ta nên thảo luận. Ngôn ngữ là chất liệu để con người xây dựng những công trình suy tư của mình; đặc biệt, đối với những người làm văn chương, ngôn ngữ tạo nên phong cách của mỗi một chúng ta. Trong suy nghĩ ấy, dưới đây, tôi sẽ đưa ra những suy nghĩ và luận điểm của tôi về những vấn đề đã được bài viết của vị thức giả đặt ra, trong tinh thần tôn trọng và trao đổi. Tôi hy vọng những trình bày dưới đây sẽ góp phần làm sáng rõ một vài quan niệm mà tôi có trên những khía cạnh ngôn ngữ, ngữ pháp, văn chương, và những sáng tạo văn chương.
BVP
_________________________________________
1.
Về vấn đề khu biệt từ loại: Theo sự hiểu biết của tôi, tôi không nghĩ rằng ngày xưa, các cụ ta đã không khu biệt chúng, mà chỉ có một khái niệm chung chung về thực từ và hư từ. Tôi cũng không nghĩ rằng chỉ từ đầu thế kỷ XX, ta mới chia một cách mô phỏng theo văn phạm Tây phương và, thực chất, chẳng có căn bản gì. Tôi công nhận là những đóng góp của các nhà ngôn ngữ như Lê Văn Lý, F. Martini, và Nguyễn Tài Cẩn đã giúp cho sự khu biệt ấy càng ngày càng rõ rệt hơn. Nhưng, tôi chỉ muốn nói là, theo chỗ tôi được biết, ngữ pháp tiếng Việt đã được xác lập trên một căn bản có hệ thống từ khoảng hai thế kỷ trước đó. Vào giữa thế kỷ XVII, giáo sĩ Đắc Lộ (Alexandre de Rhodes) đã soạn một cuốn sách về ngữ pháp tiếng Việt, Linguae Annamiticae seu Tunchinensis brevis Declaratio (Khái luận về tiếng An-nam hay tiếng Đàng Ngoài) mà Thanh Lãng, trong Biểu nhất lãm văn học cận đại (Tự Do, Sài Gòn, 1958, trang 23) viết: “Chính phần này được tục gọi là cuốn văn phạm Việt Nam đầu tiên.” Đỗ Quang Chính, trong Lịch sử chữ quốc ngữ (Ra Khơi, Sài Gòn, 1972, trang 85) cũng viết: “Đây là cuốn ngữ pháp Việt Nam, nhưng soạn bằng La ngữ”.
Trong sách này, ngữ pháp tiếng Việt 1651 hoàn toàn theo ngữ pháp La-tinh, cũng khu biệt từ loại, trong đó có bốn từ loại chuyển biến là danh từ, tính từ, đại từ và động từ, và bốn từ loại bất biến là phó từ, giới từ, liên từ và thán từ [1]. Sách này đã được dùng để hướng dẫn các cụ ta ngày xưa học về chữ quốc ngữ.
2.
Tác giả bài góp ý cho rằng bóng tà và tà dương là hai danh từ kép, một thuần Việt, một Hán Việt. Tôi nghĩ, tà dương là một danh từ kép thì tương đối có thể chấp nhận (dù sao, tôi sẽ nói thêm về danh từ này); còn bóng tà, hoặc bóng tà dương, hoặc bóng dương, thì không hẳn như thế.
Chúng ta thường dễ dãi cho rằng những cụm này là những danh từ (có những lúc, để giản dị hóa vấn đề, tôi cũng đã tạm chấp nhận như thế). Nhưng thật ra, trong thực chất, những ngữ tuyến ấy không phải là những danh từ.
Ta sẽ dần dần phân tích những vấn đề ấy ở đây.
Trước hết, nói về tà dương. Bây giờ, tạm thời, ta coi nó là một danh từ kép. Các tự điển Hán Việt cũng chấp nhận như thế. Nhưng, theo tôi, xét về mặt ngữ nguyên, dương là một từ độc lập. Về trường hợp từ tà dương được sử dụng như một danh từ kép, trong nhãn tuyến ngữ học lịch sử (historical linguistics), tôi nghĩ, lúc đầu, dương là một danh từ, tà là tính từ. Trong một số trường hợp để diễn ý mặt trời xế bóng, người Trung Hoa xưa kết hợp tà và dương lại với nhau. Có thể lúc đầu, tà dương đã được dùng như một danh ngữ (một cụm từ, một ngữ tuyến, kết hợp bởi danh từ dương và tính từ tà). Về sau, dùng mãi, cụm từ ấy trở nên quen thuộc trong lối nói và viết của quần chúng và của những người trước tác. Nó trở thành một cách dùng thường xuyên, và từ đó, được coi là một danh từ kép.
Bóng tà không có nghĩa (thật đúng) là tà dương như cách người góp ý nghĩ. Bởi người ta không luôn luôn chỉ nói bóng tà để chỉ tà dương; người ta còn nói bóng tà dương. Vậy, thật sự, theo lối nói của ngữ pháp Việt, bóng tà dương mới có cùng nghĩa với tà dương (không có mạo từ); còn bóng tà thì chỉ có nghĩa là cái bóng xiên, chếch mà thôi. Sở dĩ bóng tà thường hay được hiểu (ngầm) là mặt trời chếch bóng (tà dương) vì người ta hay tả cảnh mặt trời chếch bóng. Thật sự, người ta cũng có thể nói, theo ngữ pháp Việt, bóng nguyệt tà và bóng dương tà (thí dụ, bài hát Tình cố đô của Lam Phương & Mạnh Thường, có những câu “Rừng trùng trùng bao la, đường bao xa dưới ánh (bóng) dương tà. Này là dòng sông sâu, nguồn nước đổ biết đâu chăng là. Hôm nay đây bơ vơ vì nghiệp nước thương quê nhà. Hà Nội ơi nhớ nhé, ngày hồi hương ta vẫn mong chờ...”); và như thế, cái bóng ở đây (nếu bóng được dùng như một danh từ) có thể là bóng trăng hay bóng mặt trời.
Bóng nguyệt tà hay bóng dương tà, như thế, là những cụm từ, những danh ngữ (noun phrase), chứ không phải là danh từ (bóng: mạo từ, bổ nghĩa cho dương; dương: danh từ; tà: tính từ, bổ nghĩa cho dương). Bóng dương tà và bóng tà dương, cả hai đều được dùng theo kết cấu của ngữ pháp Việt (bóng+dương+tà; bóng+tà dương), và cả bóng tà (bóng+tà) cũng thế, đều là những danh ngữ.
So sánh: trong phân tích ngữ pháp, cái bát không phải là một danh từ. Bát là danh từ; còn cái là loại từ (có khi được xem là phó danh từ), bổ nghĩa cho bát. (Bát đứng một mình đã đủ nghĩa rồi, không nhất thiết phải luôn luôn đi với cái. Người ta có thể nói, Ăn một bát, ăn hai bát, chứ không cần, hoặc đúng hơn, không được nói, *Ăn một cái bát, ăn hai cái bát (!!); hoặc, người ta hát, “Lạy trời mưa xuống, lấy nước tôi uống, lấy ruộng tôi cầy, lấy đầy bát cơm, lấy rơm đun bếp...”). Cái bát (cũng như cái nhà, con chó, con mèo...), như thế, trong phân tích ngữ pháp, là một danh ngữ, là một cụm từ, một ngữ tuyến. (Nhà, chó, mèo... có thể đứng một mình làm chủ từ, không cần có một mạo từ đặt trước nó). Ngữ tuyến ấy là tổ hợp của hai đơn vị từ khác biệt, với hai yếu tố mang ý nghĩa nhỏ nhất, không thể phân tích ra được nữa, xét trên căn bản hình thái học (morphology). Mỗi đơn vị từ này là một âm hiệu, mang một ý nghĩa riêng biệt, và có một phận sự ngữ pháp nhất định.
Nếu cho tà dương là một từ, thì bóng tà dương, với bóng là mạo từ, cũng có kết cấu giống như kết cấu của cái bát. Nó là một danh ngữ. Còn bóng tà, cũng là một danh ngữ, nhưng, ở đây, sự kết cấu khác hẳn: bóng là danh từ, tà là tính từ. Danh ngữ này được tạo nên bởi một danh từ và một tính từ; khác với kết cấu của cái bát và bóng tà dương (một mạo từ + một danh từ). Bóng tà, như thế, không phải là một danh từ kép.
Ngoài ra, nếu ngắt câu thơ của Tản Đà ra như người viết bài đề nghị: Cỏ vàng, cây đỏ, bóng tà – tà dương (và nếu cứ tạm thời cho bóng tà là một danh từ kép như người viết bài góp ý đã làm), chưa nói đến chuyện rắc rối là đã có bóng tà rồi lại còn thêm tà dương, ba thành phần cỏ vàng, cây đỏ và bóng tà này không có được sự cân bằng cần thiết mà nó đáng lẽ phải có (căn cứ trên yếu tố thẩm mỹ của câu thơ). Chỉ bởi một lẽ giản dị là: cỏ vàng và cây đỏ không thể xem là những danh từ kép được. Chúng là những kết hợp danh ngữ. Vàng và đỏ có thể được thay thế bởi những tính từ chỉ màu sắc khác để kết hợp với cỏ và cây. Bỏ tà dương ra ngoài, Tản Đà còn ba thành phần cỏ vàng, cây đỏ và bóng tà. Hai phần đầu là cỏ vàng và cây đỏ đã là những kết hợp song song, hai danh ngữ hoặc hai mệnh đề, như tôi đã thử phân tích (danh ngữ: cỏ+vàng, cây+đỏ / mệnh đề: cỏ (thì) vàng, cây (thì) đỏ); nếu xem bóng tà là danh từ kép thì sự thăng bằng của câu thơ sẽ bị gãy đổ.
Bóng tà dương, tên quyển truyện của Lê Minh, trong nhãn tuyến ngữ pháp học, cũng là một ngữ tuyến. Ở đây, nó là một danh ngữ. Tà dương có thể đứng một mình được mà vẫn có nghĩa. Bóng, như thế, là mạo từ. Hoặc, bóng, tự nó, trên mặt ngôn ngữ, đã có nghĩa rồi. Người ta có thể thêm từ tà dương vào để xác định bóng ấy là bóng gì. Trong trường hợp này, bóng sẽ là danh từ; còn tà dương là một danh từ được dùng như tính từ, để bổ nghĩa cho bóng. Nhiều tên truyện, tên phim, tên bài hát... vẫn thường được đặt với một ngữ tuyến như thế.
Còn bóng tà tà dương? Vì ta phải tìm cách xác định ý nghĩa của hai chữ tà, nên ta đụng phải vấn đề mà ta đang thảo luận và tìm cách tháo gỡ. Bóng tà tà dương, trong cái nhìn của tôi trên mặt ngữ pháp để thử lý giải câu thơ của Tản Đà – một câu thơ mà tôi nghĩ là có thể có nét sáng tạo đặc biệt – từ bài Mấy suy nghĩ thơ, tôi đã nghĩ là nó không thể là một kết hợp của hai danh từ kép bóng tà và tà dương. Nó phải là một mệnh đề với hệ từ thì hiểu ngầm (mà trong tiếng Việt là không cần thiết): Bóng (thì) tà tà dương. Dương, ở đây, dùng một cách sáng tạo như một tính từ, là vấn đề mà tôi sẽ bàn thêm ở một phần dưới khi nói về tính cách “lệch chuẩn”, tính cách “đi ra ngoài cái bình thường”, tính cách “phá vỡ” trong tiến trình sáng tạo của nhà văn, nhà thơ.
The Gray Tree (Piet Mondrian, 1911)
3.
Như đã nói, tôi coi bóng dương là một cụm từ chứ không phải là một từ. Nó là một cụm được tổ chức theo cấu trúc hướng tâm (chính phụ), như các soạn giả của Ủy ban Khoa học Xã hội Việt Nam (Viện Thông tin Khoa học Xã hội) cũng đã làm với cụm hoa mai. Theo các nhà ngôn ngữ này, đồng ý và hoàn toàn chia sẻ với L. Bloomfield, họ cho rằng hoa mai là một cụm chứ không phải là một từ. [2]
Mặc dù trong một vài trường hợp đặc biệt, bóng dương được dùng như một từ cố định, ẩn dụ hình ảnh vua, đúng như người góp ý đã nói, nó không luôn luôn được dùng như vậy. Hay nói cho rõ hơn, sự dùng bóng dương như một từ cố định chiếm một tần số rất thấp. Có bóng dương, nhưng người ta cũng có bóng nguyệt, bóng câu, bóng hồng, bóng ô... Như trong câu thơ Bóng nguyệt leo song sờ sẫm gối (trong bài Thức khuya, hay Đêm không ngủ của Hàn Mặc Tử). Dĩ nhiên, ở đây, tôi chỉ giới hạn đưa ra một vài kết hợp khó, trong đó, bóng đi với một từ Hán Việt, đặc biệt là từ đơn. Còn nếu mở rộng hơn, cho bóng kết hợp cả với những từ kép HV, hay cả với những từ (đơn và kép) thuần Việt, thì chúng ta sẽ có vô số.
Bỏ ra ngoài vấn đề bản dịch Chinh phụ ngâm rất hay của Phan Huy Ích (hoặc Đoàn Thị Điểm?) đã làm cho chúng ta hãnh diện về khả tính và mỹ tính của tiếng Việt, chúng ta, ai cũng biết, khi dịch một đoạn văn, một đoạn thơ, từ ngôn ngữ này sang ngôn ngữ khác, không hẳn là lúc nào ta cũng tìm được một từ thật chính xác và song song về mặt từ loại để dịch một từ trong nguyên tác. Nhiều khi, để dịch một từ, ta phải dùng cả một ngữ (một cụm từ), hay ngược lại. Ở đây cũng vậy, lưu quang là một danh từ kép; nhưng như thế không có nghĩa bóng dương phải là một danh từ kép. Hơn nữa, theo tôi, cụm bóng dương cũng chưa diễn được hết ý thật đẹp của từ kép lưu quang. Mặc dù là bóng dương có diễn được một phần ý của lưu quang, nó đâu đã diễn được hết ý. Như thế, còn nói gì nữa đến chuyện song song về từ loại. (Ngoài ra, sở dĩ lưu quang được dịch thoát sang tiếng Việt thành bóng dương là vì, trong câu dịch đầu tiên, dịch giả đã cho chữ tà vào để xác định tính chất của bóng dương lúc ấy. Sau khi bóng dương đã được xác định như thế ngay từ đầu rồi, bấy giờ, dịch giả mới yên chí sử dụng nó thêm hai lần nữa, tin tưởng rằng từ tà và những dấu ấn của nó đã được ghi lại trong trí não, trong tưởng tượng của người đọc. Ta hãy cùng xem lại những câu dịch ấy:
Hướng dương lòng thiếp dường hoa
Lòng chàng lẩn thẩn e tà bóng dương
Bóng dương để hoa vàng chẳng đoái
Hoa để vàng cũng tại bóng dương.)
Một điều nữa mà ta cũng nên để ý là: có rất nhiều trường hợp giữa những từ Hán Việt và thuần Việt, có những lúc chúng được dịch rất sát mà, về mặt cấu trúc ngữ pháp, không hẳn cả hai đều phải giống nhau. Tôi sẽ bàn về điều này ở một phần dưới trong mấy câu thơ Đường của Nguyễn Du.
Để lặp lại, trong một vài trường hợp, bóng dương có thể được xem là một danh từ kép. Nhưng trong nhiều trường hợp khác, nó là một cụm từ, một danh ngữ, chứ không phải là một danh từ kép. Nó là một ngữ tuyến, bao gồm một ý nghĩa vị (sémantème), dương, và một ngữ vị (một từ ngữ diễn tả những tương quan giữa những ý nghĩa vị), bóng. [3]
Ngoài việc bóng dương ẩn dụ vua, trong ít trường hợp đặc biệt, được dùng như một thành ngữ văn học, một từ kép cố định, bóng (trong bóng dương) có thể dùng với những danh từ đơn Hán Việt khác như đã nói (bóng nguyệt, bóng câu, bóng hồng, bóng ô...). Cụm bóng dương cũng còn có thể có những ý nghĩa khác nhau khi ta dùng nó trong những ngữ cảnh khác nhau. Chẳng hạn khi nói, “Bóng dương để những vệt lốm đốm trên sân”, có lẽ ta nên hiểu bóng dương ở đây là cái bóng nắng, cái ánh nắng của mặt trời. Còn khi nói, “Bóng dương đỏ ối đã khuất sau quả núi màu xanh lục”, ta nên hiểu bóng dương ở đây là mặt trời.
Bóng dương, hay bóng nguyệt, nếu được dùng để chỉ mặt trời hay mặt trăng, thì một mình từ dương hay nguyệt đã chở được ý đó rồi, bóng chỉ là một loại từ thêm vào. Bởi thế, trong cách nhìn của ngôn ngữ học hiện đại, nó là một cụm từ (như trong cụm a student, từ student đã đủ diễn cái nghĩa chính yếu của cụm ấy rồi. Loại từ/Mạo từ a chỉ giữ một vai trò xác định chức năng ngữ pháp của student, đồng thời giới hạn nghĩa của từ này ở một diện nào đó.) Nếu chủ ý của người viết (hay nói) muốn diễn tả ý cái bóng của mặt trời, mặt trăng..., thì bóng sẽ là chủ từ, dương chỉ là bổ từ hay còn gọi là định từ (tùy cách gọi của những trường phái ngôn ngữ khác nhau), bổ nghĩa cho bóng. Bóng gì? Bóng dương (bóng của mặt trời), không phải bóng nguyệt. Còn như nếu chúng ta chấp nhận để những từ kết hợp với bóng ở một dạng tự do hơn, thì, ngoài những từ đơn Hán Việt như ta đã thử kể (bóng hồng, bóng câu, bóng nguyệt, bóng ô...), ta có thể cho bóng kết hợp với những từ kép: bóng thời gian, bóng quá khứ, bóng hoàng hôn, bóng (ma) ảo ảnh... Mở rộng nữa, kết hợp với từ thuần Việt, ta có thể có bóng cây, bóng lá, bóng mây, bóng mặt trời, bóng nụ cười em (The shadow of your smile, tên một bài hát, một chiếc bóng mát của cuộc tình đầu!), bóng nhỏ giáo đường...
Ngoài ra, bóng dương còn được sử dụng trong phạm vi số lô đề, trong đó người ta dùng phương pháp “âm dương ngũ hành trong lô đề” để cho ra các con số thuộc về bóng âm (1-4, 2-9, 3-6, 5-8, 0-7) hay bóng dương (1-6, 2-7, 3-8, 4-9, 5-0). Mở rộng ra (nhưng không nhất thiết liên quan, gắn bó về mặt ý nghĩa của bóng dương trong bài), cụm bóng dương cũng còn được dùng trong lĩnh vực sản phẩm về bóng đèn LED của Hàn Quốc, như được phổ biến và quảng cáo trên báo chí. Bóng dương được dùng để đối chiếu với bóng lá, bóng đỏ, bóng trắng, v.v., của loại sản phẩm này. Dương, ở đây, được hiểu là màu xanh dương (của bóng đèn); cũng như lá được hiểu là màu xanh lá cây. Tôi sẽ trình bày thêm về ý nghĩa của dương, liên hệ đến màu sắc, ở một đoạn dưới.
Nhưng trong tiếng Việt, thường thường (nhưng không phải luôn luôn), hai từ bóng và dương hay đi chung với nhau để chỉ cái nghĩa của từ dương. Dù sao, nói như thế không có nghĩa là dương không thể đứng một mình làm chủ từ được (không nhất thiết là dương phải luôn luôn đi với bóng để làm thành một từ kép cố định trong một số trường hợp, hoặc để tạo một kết hợp danh ngữ). Người ta có thể nói, “Dương tà nguyệt lặn, rồi nguyệt lặn dương tà. Thời gian đi như bóng câu qua cửa sổ!”. Tà và lặn, trong câu này sẽ là hai động từ (tà ở đây được dùng với một thang độ Việt hóa rất cao). Dương và nguyệt, là những từ Hán Việt, sẽ đứng độc lập một mình để làm chủ từ. Chính vì dương có thể đứng một mình làm chủ từ như thế, nó không nhất thiết phải đi với bóng. Khi kết hợp với bóng để thành bóng dương, nó chỉ là thành phần của một cụm. Bóng dương là một cụm từ, một ngữ đoạn, một ngữ tuyến.
Sự khu biệt của Nguyễn Kim Thản (coi trả lời là một từ, còn trả nợ là một cụm), cũng như của Hồ Lê (coi sân rộng là một cụm và sân bay là một từ) rất đúng. Nhưng, như chúng ta đã phân tích về cấu trúc của bóng dương, các từ trả lời và sân bay không thể đem so sánh với bóng dương được, vì kết cấu ngữ pháp của chúng so với bóng dương khác hẳn nhau. Nếu muốn so sánh, tôi nghĩ ta có thể so sánh (mặc dù tôi vẫn thấy chưa hoàn toàn sát) trả lời, và đặc biệt, sân bay, với dế mèn, dế lửa, dế than, dế cơm, dế ốc tiêu... (hay với tàu chiến, tàu ngầm, tàu tuần dương.../chiến hạm, tiềm thủy đĩnh, tuần dương hạm...), và so sánh trả nợ, sân rộng với dế trống, dế mái (hay tàu cũ, tàu mới, tàu gỗ, tàu sắt...). Sự so sánh ấy, tôi nghĩ, tương đối hợp lý hơn. Cũng thế, những từ nhà đất, nhà thổ, nhà thương điên, mặt trời, bóng đá, bóng tròn không thể so sánh với kết cấu bóng dương. Chúng ta nên lưu ý là dương có thể đứng một mình được, và nó vẫn chuyên chở được cái ý của cả cụm. Những từ vừa liệt kê không có khả năng ấy. [4]
4.
Tác giả bài góp ý không chấp nhận việc tách dương ra khỏi tà. Tôi đã nói về trường hợp của từ tà dương rồi. Nhưng thật sự, trong bài viết của mình, tôi không có ý muốn tách dương ra khỏi tà. Nhưng tôi muốn tách tà tà ra khỏi dương, và tách bóng ra khỏi tà tà. Bóng trở thành chủ từ. Và dương trở thành tính từ, đứng làm bổ định từ (complement) trong một vị ngữ có hệ từ thì hiểu ngầm. Cái cần bàn vẫn là cách sử dụng một cách sáng tạo từ dương.
Tôi xin trở lại với tính chất sáng tạo và sự chơi chữ trong văn chương.
Hàn Mặc Tử viết, “Tôi sẽ đi tìm mỏm đá trắng / Ngồi lên để thả cái hồn thơ”. Cái hồn thơ, nghe rất thơ mộng và tội nghiệp! Từ cái dùng rất đắc. Cái hồn thơ. Như một cánh diều. Như một vì sao được thả vào hoang mang, cô đơn, giữa thiên địa. Nguyễn Bính viết, “Hoa chanh nở giữa vườn chanh / Thầy u mình với chúng mình chân quê / Hôm qua em đi tỉnh về / Hương đồng gió nội bay đi ít nhiều!”. Chân quê! Người ta nói chân thực, chân chất, chân thành, v.v., và gốc quê, dân quê, đồng quê, v.v. Nguyễn Bính nói chân quê, một từ Hán Việt vui vẻ bên một từ thuần Việt. Và chân quê trở nên nổi tiếng. Trịnh Công Sơn hát, “Có nắng vàng nghèo trên lối đi xa / Có tối thật đều trong linh hồn nhỏ / Có mắt thật chiều dưới trán ngây thơ.” Thật chiều, lối dùng này không đi theo những quy luật ngữ pháp, nhưng thực hay. Ông còn đi xa hơn trong bài Tôi ơi đừng tuyệt vọng:
(…) Tôi là ai mà còn khi giấu lệ?
Tôi là ai mà còn trần gian thế?
Tôi là ai, là ai, mà yêu quá đời này?
Đừng tuyệt vọng, tôi ơi, đừng tuyệt vọng
Nắng vàng phai như một nỗi đời riêng
Đừng tuyệt vọng, em ơi, đừng tuyệt vọng
Em hồn nhiên, rồi em sẽ bình minh (…)
Trở lại với Tản Đà, cụ viết, “Cái hạc bay lên vút tận trời”, mà không viết con hạc. Đó là một điều mới, đặc biệt trong thời điểm mà bài thơ được viết ra. Cũng thế, trong bài Cảm thu, tiễn thu (vốn có hai câu thơ là chủ đề chính của bài viết này), cụ viết, “Từ vào thu đến nay / Gió thu hiu hắt / Sương thu lạnh / Trăng thu bạch / Khói thu xây thành...”. A, trăng thu bạch. Từ bạch, ở đây, là một từ Hán Việt, thang độ Việt hóa thấp (nếu được dùng như một tính từ, chứ không như một trạng từ theo kiểu trắng bạch), thường là chỉ dùng trong những kết hợp Hán Việt khác như nguyệt bạch (kết cấu ngữ pháp thuần Việt, hay được dùng như một từ cố định, một thứ thuật ngữ văn học gốc Hán, xin xem thêm ở dưới), hay bạch thạch (kết cấu ngữ pháp Hán Việt, trong “Nam sơn xán bạch thạch lạn! Sinh bất phùng Nghiêu dữ thuấn thiện. Đoản bố đan y tài chi cán. Trường dạ mạn mạn hà thời đán?” (Phạn ngưu ca của Nịnh Thích – bài hát làm cho Tề Hoàn Công nhìn ra con người tài giỏi của Nịnh Thích – có nghĩa là “Núi Nam rực rỡ, đá trắng sáng sủa. Đẻ ra không gặp lúc vua Nghiêu nhường ngôi cho vua Thuấn. Vải ngắn áo đơn bó chịt lấy cái thân gầy mòn. Cứ lan man ở trong chỗ đêm tối biết đến ngày nào?) Nhưng “bạch” thường không, hoặc rất hiếm khi, được dùng kết hợp trong một ngữ tuyến (là một danh ngữ), đứng sau một danh từ thuần Việt, mà danh từ này đã có một tính từ (Hán Việt) khác làm bổ từ đứng ngay sau nó rồi. Và cả hai tính từ này đều bổ nghĩa cho danh từ trong danh ngữ ấy, theo dạng [Danh từ (thuần Việt) + tính từ ([HV], bổ từ 1 của DT) + tính từ ([HV (bạch)], bổ từ 2 của DT)]. Tức là, ở đây, cả “thu” và “bạch” đều bổ nghĩa cho danh từ thuần Việt “Trăng”. Hoặc, phân tích một cách khác, đúng hơn trong trường hợp này: một danh từ thuần Việt và bổ từ 1 (HV) kết hợp lại thành một danh ngữ nhỏ, và toàn bộ danh ngữ nhỏ này được tính từ “bạch”, là bổ từ 2, làm rõ nghĩa, qua dạng [[DT (thuần Việt) + TT ([HV], bổ từ 1 cho DT)] + TT ([HV (bạch), bổ từ 2 cho danh ngữ đi ngay trước nó]. Một kết hợp đặc biệt hơn. Tức là “bạch”, ở đây, bổ nghĩa cho cả cụm “Trăng thu”. Vậy mà Tản Đà, với sự bất ngờ và hứng cảm riêng của mình, đã tạo ra nó. Và thi sĩ đã làm cho câu thơ ấy trở nên thật đẹp. Trăng thu bạch.
Thật sự, ta không nhất thiết phải đưa ra những định dạng ngữ pháp như đã thử trình bày, phân tích ở trên. Cái mà ta muốn làm, ở đây, là cho thấy nét đặc biệt của từ “bạch” và cách dụng từ “thần sầu” của Tản Đà trong tiếng Việt. Như cách chúng ta sẽ dần dần phân tích ở những đoạn dưới.
Trở lại cấu trúc Trăng thu bạch rất đẹp của Tản Đà, ta có thể nghĩ cụm Hoa hồng bạch cũng có được cái kết cấu ấy. Dù sao, so sánh này, tôi nghĩ, không hoàn toàn đứng vững. Ta sẽ phân tích nó.
Trong cái nhìn của tôi, các từ “hồng bạch”, “chuột bạch”, “chuột cống”, “chuột chù”, “chuột chũi” (danh pháp khoa học Talpidae), “ngựa bạch” (từ “ngựa bạch tạng”), “chó ngao” (bulldog), “chó bạch tạng”, “chồn hôi” (Mephitidae), “dế trũi” (danh pháp khoa học Gryllotalpidae), “gấu trúc”, v.v., đều là một đơn vị từ, vì các từ bạch, cống, chù, chũi, ngao, bạch tạng, hôi, trũi, trúc, v.v., ở đây không phải là những hình vị tự do (free morphemes). Chúng là những những hình vị ràng buộc (bound morphemes), được dùng kết hợp với danh từ đi trước là hồng, chuột, ngựa, chó, chồn, dế, gấu, v.v., để chỉ thể loại, giống loài. Như trong các từ “dế than”, “dế lửa”, “dế trũi”. Hay trong các từ “tàu ngầm” (tiềm thuỷ đĩnh, tiếng Anh submarine), “tàu tuần dương” (tuần dương hạm, tiếng Anh cutter), hay, thậm chí “tàu lửa” (xe lửa, hoả xa, train). Tất cả đều là những đơn vị từ cố định, không tách ra được. Như trên, ta cũng không thể xem các đơn vị “than”, “lửa”, “trũi” / “bạch”, “chù”, “chũi” (liên hệ đến dế và chuột) là những đơn vị riêng lẻ, có thể tách ra hỏi những danh từ đứng ngay trước chúng. Vì chúng được kết hợp lại với nhau để chỉ một giống, một thể loại riêng biệt (species) trong một chủng loại chung (genus), lớn hơn (như đối với thể loại chung và lớn hơn là “dế” hay “chuột”). [Định nghĩa của “Species”: a category of biological classification ranking immediately below the genus or subgenus, comprising related organisms or populations potentially capable of interbreeding, and being designated by a binomial that consists of the name of a genus followed by a Latin or latinized uncapitalized noun or adjective agreeing grammatically with the genus name. (Merriam-Webster Dictionary / Một phạm trù phân loại sinh học xếp ngay dưới chi hoặc phân chi, bao gồm các sinh vật hoặc quần thể có quan hệ họ hàng có khả năng giao phối với nhau, và được chỉ định bằng một tên gọi kép/danh từ kép (một tên gọi gồm hai phần kết hợp cùng nhau) bao gồm tên của một chi theo sau là một danh từ hoặc tính từ không viết hoa theo tiếng Latin hoặc được Latin-hóa phù hợp về mặt ngữ pháp với tên của chi.]
Nhưng trong các cụm như “dế trống”, “dế mái”, “tàu cũ”, “tàu mới”, “chồn già”, “chồn non”, ta có thể tách các từ trống, mái, cũ, mới, già, non ra hỏi các danh từ đứng trước chúng. Vì trống, mái, cũ, mới, già, non là các hình vị tự do, không bị lệ thuộc.
Về các từ mang tính giống loài, thể loại, nằm trong một kết hợp cố định và bền vững, ta có thể nói đến cá. Cá là một chủng loại lớn, bao gồm trong nó các loài cá với những tên riêng để chỉ các tiểu loại riêng của chúng. Ta có thể tạm kể một số loại cá như: cá mú, cá thờn bơn, cá lóc, cá trê, cá mè, cá quả, cá hồi, cá mòi, cá trích, cá chép, cá nheo, cá chạch, cá lăng, cá tra, cá rô, cá sặc, cá bống, cá trắm, cá trôi, cá diếc, v.v.
Ta không thể tách, chẳng hạn, “mú”, hay “nheo”, hay “lóc”, hay “mòi”, hay “lăng” ra và xem những từ ấy là bổ nghĩa cho “cá”, hay, ngược lại, “cá” bổ nghĩa cho chúng. [Dù sao, đôi khi, người ta có thể nói gọn là “con diếc” hay “con trê” thay cho “con (cá) diếc” hay “con (cá) trê”]. Hay, nói về chim, ta không thể tách “nhại” ra hỏi “chim nhại” (như trong tựa truyện Giết con chim nhại / To Kill a Mockingbird của Harper Lee) được.
“Bạch” trong “Trăng thu bạch” là một hình vị tự do. Có thể thay thế “bạch” bằng “sáng”, “mờ”, v.v. Còn “bạch” trong “Hoa hồng bạch” là một hình vị ràng buộc, vì, như đã nói, “hồng bạch” (gần như “bạch hồng”) là một từ chỉ giống loại (ngay khi đó là một giống loại được lai phối), mang tính “cố định” như “hồng vàng”, “hồng trắng” (có thể xem là “hồng bạch”, xin xem thêm phân tích ở dưới), “hồng đen”, “hồng nhung” (xin xem thêm ở dưới), “hồng cổ” (hay “hồng bạch cổ”), “hồng đào cổ) (hay còn gọi là “hồng phấn”) đều là những tiểu loại nhỏ (species) của một chủng loại lớn là (hoa) hồng (Rosa). Về trường hợp “hồng bạch”, nó còn gọi là “hoa nhược tâm”, danh pháp khoa học của “hồng bạch” là Rosa alba [Alba, tiếng Latin, dạng giống cái của albus, là màu trắng]. “Tầm xuân” là Rosa canina. Như đã nói, những danh pháp này là tên gọi theo tiếng Latin hay được Latin-hóa, là tên gọi kép/danh từ kép bao gồm tên của một chi theo sau là một danh từ hoặc tính từ không viết hoa. Tên gọi đó, dù có hai phần, vẫn chỉ là một đơn vị, không được tách ra. “Bụp giấm”, danh pháp là Hibicus sabdariffa, còn có tên khác là “giền cá”. Dĩ nhiên, ta không nên phân tích là trong tên hoa “bụp giấm” hay “giền cá” thì “giấm” làm rõ nghĩa cho “bụp”, hay “cá” bổ nghĩa cho “giền”. Hay ngược lại. “Bụp giấm”, hay “giền cá”, là một tên riêng, một đơn vị từ. Cũng thế, “dế than”, “dế trũi”, “tàu thuỷ”, “tàu lửa”, “chồn hôi”, “chuột chũi”, “chuột chù”, “chuột bạch”, “hồng bạch”, v.v., đều là một đơn vị từ. Chúng là những tiểu loại (species) khác biệt, với tên riêng của tiểu loại, trong những chủng loại chung (genus), lớn hơn.
Tôi nghĩ ngữ pháp nước nào cũng có những cái tế vi và phức tạp như vậy. [5] Và người ta, hay, đúng hơn, các nhà ngôn ngữ hay ngữ pháp học, có thể có những cách nhìn khác nhau khi xét về sự kết hợp của một nhóm từ. Hay sự phân tích ngữ pháp của nó. [Xin xem chú thích 8 về câu “I told him to water the garden”]. Và, vì vậy, một điểm tế nhị khác của ngữ pháp Việt mà ta cũng có thể bàn ở đây: Trong tiếng Việt, “hồng bạch” và “hồng trắng” xem ra là đồng nghĩa. Nhưng, trong quan điểm của tôi, khi nói “hồng trắng”, ta nhấn mạnh đến (hoa) hồng, và hoa hồng này là loại hoa mang sắc trắng. Bởi thế, “trắng”, ở đây, trong một vài trường hợp nào đó, có thể được xem như là tính từ, bổ nghĩa cho (hoa) “hồng”. Và có thể được tách ra khỏi “hồng”. “Hồng trắng” vẫn là một tiểu loại của (hoa) hồng, nhưng về mặt ngữ pháp, trong cái nhìn của tôi, nó hơi khác với “hồng bạch”. Khi nói “hồng bạch”, cái mà ta muốn nhấn mạnh đến lại là về một tiểu loại của (hoa) hồng. Nó là “hồng bạch”, không phải các loại hồng khác, như “hồng đỏ”, “hồng vàng”, ‘hồng đen”. Tất cả đều là những tiểu loại riêng biệt, dù do lai phối mà thành. Cũng như “hồng bạch”, “hồng đỏ” là một “species” của “hồng”. Nhưng nó còn có các tiểu loại của riêng mình. Như “hồng đỏ đậm”, “hồng đỏ nhung”, “hồng đỏ tươi”. Nếu phân tích về mặt từ pháp, ngữ pháp, trong quan điểm của tôi, ta có thể tách “đậm”, “nhung” và “tươi” ra khỏi “hồng đỏ”, và nhìn chúng như những tính từ. Còn “hồng nhung”? Tôi nhìn nó như một từ cố định. Giống như “hồng bạch”, “chuột bạch”. Vì chữ “nhung”, ở đây, thay thế cho “đỏ (mịn, mềm như) nhung”, trong cụm “hồng đỏ nhung” được nhắc đến ở trên. Nó (“hồng nhung”) là một tiểu loại của “hồng đỏ”, và “hồng đỏ” bây giờ là một phân chi (subgenus) của (hoa) “hồng”.
Cũng thế khi ta so sánh “hoàng mai” và “bạch mai” với “mai vàng” và “mai trắng”. Trong cái nhìn của tôi, khi nói đến “hoàng mai” và “bạch mai”, ta quan tâm nhiều đến loại hoa; còn khi nói đến “mai vàng” và “mai trắng”, ta sẽ quan tâm, nhiều hơn, đến màu hoa. Dĩ nhiên, màu đây là màu của (hoa) mai. Và, đối với tất cả, tôi nhìn “hoàng mai”, “bạch mai”, lẫn “mai vàng” và “mai trắng” đều là những đơn vị cố định.
Trở lại với cấu trúc chính mà ta đang bàn. Là “Trăng thu bạch”. Trong “Trăng thu bạch” hay “Trăng thu sáng” có ba đơn vị, là ba từ riêng biệt. Còn cấu trúc “Hoa hồng bạch”, trong cái nhìn của tôi, tiếp tục theo hướng của những phân tích trên, chỉ có hai đơn vị thôi, là “hoa” và “hồng bạch”. Có thể biến cấu trúc này thành ba đơn vị, nếu ta chuyển nó thành “Hoa hồng bạch tươi”, “Hoa hồng bạch héo”, hay “Hoa hồng bạch thanh thoát” chẳng hạn. Vì thế, cấu trúc của “Hoa hồng bạch” (cứ tạm cho “Hoa” là một từ (thuần) Việt, vì nó đã được Việt hoá ở mức độ cao) không nên được xét là ngang bằng hay tương đương với cấu trúc của “Trăng thu bạch”.
Ta có thể mở rộng cụm “hoa hồng bạch” để nhìn rõ hơn thể loại của nó qua câu: “Một đoá hoa hồng bạch tươi thắm được cắm trong lọ.” Ở đây, ta có “một”, biểu thị bằng (A), là số từ; “đoá/(B): phó danh từ [*] ; “hoa”/(C): danh từ; “hồng bạch”/(D): danh từ; “tươi thắm”/(E): tính từ; “được cắm trong lọ”/(F): ngữ động từ (theo dạng participial phrase, dẫn đầu bằng một phân từ). Trong ngữ động từ này, ta còn có một giới ngữ (prepositional phrase) là “trong lọ” nằm lọt thỏm vào bên trong cụm. Về mặt phận sự, ta có A làm bổ từ cho B; B làm BT cho C; D cũng làm BT cho C; E cũng làm BT cho C; và F cũng làm BT cho C.
[[*] Có những người gọi các từ như con (bò), cái (dù), đoá (hoa), cánh (chim/hoa/diều), người (đàn bà), tấm (màn), bức (tường), bộ (bàn ghế, quần áo), cây (ổi/cột/kim/đinh), v.v., là “tiền danh từ” (Phan Khôi); “loại từ” (Trần Trọng Kim và nhóm làm Việt Nam văn phạm; và cũng là quan điểm của Trương Văn Chình & Nguyễn Hiến Lê); “danh từ giả tá” (Lê Ngọc Vượng); “quán từ” (E. Diguel); “hình thức chỉ danh của danh từ” (Trương Vĩnh Ký). Có người coi chúng là một loại nhỏ trong danh từ. Có người gọi là “phó danh từ” (Nguyễn Kim Thản, cũng như Nguyễn Lân). Và theo Nguyễn Kim Thản, phó danh từ có thể thay thế chỗ cho danh từ. Như thế, trong một câu như “Một cánh/đoá hoa thược dược bỗng nở một cách nhiệm màu”, thì trong cụm “Một cánh/đoá hoa thược dược” đứng làm chủ ngữ, nếu ta lược bỏ chữ “hoa”, vốn là danh từ trong cụm này, để thành “Một cánh/đoá thược dược” thì, lúc ấy, “cánh” hay “đoá” đang là phó danh từ sẽ biến thành danh từ, đứng làm đầu tố trong danh ngữ ấy. Cũng thế, trong một câu như “Một con cá quả đang bơi lội nhởn nhơ”, “quả” và “cá” không đứng riêng lẻ như ta đã bàn [vì như thế sẽ tạo một hiệu ứng nhiễu, có thể làm sai lạc thông tin], “cá quả” sẽ là một danh từ kết hợp, làm định ngữ (bổ từ) cho “con”. “Con”, như thế, trong trường hợp này, đang từ một phó danh từ biến thành danh từ. Đối với các chủng loại chim, dế, v.v., cũng thế. Chẳng hạn: “Một con (chim) chào mào đang bay lượn”, “Một con dế trũi đang bò đến”. Nếu bỏ chữ “chim” trong câu trước đi, “con” sẽ là danh từ thay vì là phó danh từ. Trong câu sau thì, vì “dế trũi” là một đơn vị kết hợp, “con” đã đứng trước nó để làm vai trò danh từ.
Các ông Trần Trọng Kim, Bùi Kỷ, Phạm Duy Khiêm, trong Việt Nam văn phạm (Hà Nội, 1940) cho các từ như cá, hoa, chim, v.v., đều được gọi là loại từ riêng, cũng như người, và cùng một từ loại với con, cái mà các tác giả gọi là loại từ chung. Trong khi, các tác giả trong sách Ngôn ngữ học/Khuynh hướng, Lĩnh vực, Khái niệm (xem lại chú thích 2) lại xem “hoa” là một danh từ. Như trong phân tích về cụm “Hoa mai”].
Và, để trở lại với những suy nghĩ về cách dùng từ của Tản Đà, như đã nói ở một phần trên, ta có một cụm từ Hán Việt là “nguyệt bạch”, được dùng từ xa xưa đến thời hiện đại. Và cho đến bây giờ. Dù sao, “nguyệt bạch” (tạm hiểu là trăng trong, trăng thanh) ở đây là một từ cố định trong tiếng Hán. Cũng giống như từ “phong thanh” (tạm hiểu là gió mát). Đó là những đơn vị cố định, một kiểu thuật ngữ văn học. Đây là “nguyệt bạch” và “phong thanh”, chứ không phải “bạch nguyệt” và “thanh phong”. Ta có thể thấy chúng, đặc biệt đang xét đến đơn vị “nguyệt bạch” 月白, trong nhiều bài thơ khác nhau, của các tác giả cổ bên Trung Hoa, cũng như của các tác giả Việt Nam. Nghĩa chung của “nguyệt bạch” là để chỉ màu sắc. Theo Đào Duy Anh, đó là “một thứ sắc nhuộm xanh lợt”. Theo Nguyễn Quốc Hùng, đó là “màu trắng xanh (như ánh trăng)”. Nó rất khác, về mặt kết cấu ngữ pháp, với cách dùng trong cấu trúc “Trăng (thu) bạch” của Tản Đà.
Hãy đọc trong Hậu Xích Bích phú của Tô Thức: “Dĩ nhi thán viết: “Hữu khách vô tửu, hữu tửu vô hào; nguyệt bạch phong thanh, như thử lương dạ hà?” 已而歎曰:有客無酒,有酒無肴;月白風清,如此良夜何 (“Rồi mà than rằng: “Có khách không có rượu, có rượu không có nhắm; trăng trong gió mát, đêm đẹp này biết làm thế nào?”). Hay trong Quá Thần Phù hải khẩu của Nguyễn Trãi: “Thần Phù hải khẩu dạ trung qua / Nại thử phong thanh nguyệt bạch hà” 神符海口夜中過 / 奈此風清月白何 (“Qua cửa khẩu Thần Phù vào lúc giữa đêm / Gió mát trăng thanh quá, làm sao đây?”). Hay trong Tái hạ khúc của Trình Khải Sung: “Ngũ Quốc thành đầu thu nguyệt bạch” 五國城頭秋月白 (“Trăng thu nhạt trên thành Ngũ Quốc”). Hay trong Văn địch của Lê Địch: “Giang thuỷ trừng thanh giang nguyệt bạch” 江水澄清江月白 (“Trăng trắng xoá trên dòng sông trong vắt”). Hay trong Tỳ bà hành của Bạch Cư Dị: “Đông thuyền tây phảng tiêu vô ngôn / Duy kiến giang tâm thu nguyệt bạch” 東船西舫悄無言 / 惟見江心秋月白 (“Thuyền mảng đông tây lặng im, không một tiếng nói / Chỉ thấy vầng trăng thu rọi sáng giữa sông”). “Thuyền mấy lá đông tây lặng ngắt / Một vầng trăng trong vắt lòng sông”. Hai câu thơ trong bài thơ dịch nổi tiếng này có nguồn cho là của Phan Huy Vịnh, nhưng các nguồn theo gia phả của dòng họ Phan Huy ghi rõ là của Phan Huy Thực (bố của Phan Huy Vịnh). Đọc bài thơ Tỳ bà hành qua bản Hán Việt đã hạnh phúc. Khi đọc bài dịch của Phan Huy Thực, thấy “thơm tho cả môi miệng”!
Còn đây là “nguyệt bạch” trong thơ Việt Nam. Chẳng hạn trong bài Tương tư của Nguyên Sa, “Tôi đã gặp em từ bao giờ / Kể từ nguyệt bạch xuống đêm khuya / Kể từ gió thổi trong vừng tóc / Hay lúc thu về cánh nhạn kia?”. Hay trong Phạm Thiên Thư của Ngày xưa Hoàng Thị: “Bước em thênh thang / Áo tà nguyệt bạch / Ôm nghiêng cặp sách/ Vai nhỏ tóc dài / Ta đi theo hoài / Gót giày thầm lặng…”).
Thuật ngữ/thành ngữ văn học “nguyệt bạch”, nguyên gốc có nghĩa như tôi đã trình bày ở trên theo Đào Duy Anh và Nguyễn Quốc Hùng, là để chỉ màu sắc (một màu xanh trong, nhẹ và sáng, như của ánh trăng). Sau, nó được dùng để chỉ cảnh trăng trong, trăng thanh, trăng sáng. Nếu đi chung với “phong thanh”, cả nhóm “nguyệt bạch phong thanh”, hay “phong thanh nguyệt bạch” là để chỉ chung cảnh gió mát trăng trong. Nếu “nguyệt bạch” đi với “thu” ở trước đó, nó chỉ cảnh trăng trong, trăng sáng đêm thu. Một cảnh thật đẹp.
Cụm “Trăng thu bạch” của Tản Đà, có thể đã có khởi nguyên từ “nguyệt bạch” chăng? Có thể. Một người viết văn, làm thơ, sáng tạo nghệ thuật, luôn luôn thực hiện những công trình tim óc không những chỉ với ý thức mà còn cả với tiềm thức và vô thức mình. Tất cả cái đọc, cái hiểu, cái biết, cái rung động, cái nằm sâu, thậm chí cái đã ngủ quên, trong con người hắn, sẽ cùng kết hợp để đưa hắn vào cuộc sáng tạo.
Ngoài ra, ngôn ngữ văn chương cũng chỉ là sự tái sử dụng, sự dùng lại những ngữ liệu đã có, chỉ là sự lặp lại, sự bắt chước nhau thôi. Nhưng với một phong cách. Với sự biến hoá, làm mới, chẳng hạn. Cái quan trọng của sáng tạo là phong cách. Nếu Tản Đà chỉ dùng “Trăng bạch” thôi, thì đó cũng đã là một cách dùng mới. Chưa thấy ai dùng. Khi ông dùng “Trăng thu bạch” thì, như đã thử trình bày, nó còn đặc biệt hơn. Vì cụm hay câu này có nhiều cách nhìn và phân tích. Và đều cho ta thấy cái mới trong những cách nhìn đó.
Chúng ta đã đi khá sâu vào “kiến trúc” Trăng thu bạch của Tản Đà. Nhưng còn một khả năng nữa mà tôi muốn nói về “kiến trúc” này. Đó là, để tạo những kết hợp đồng đẳng với các câu Khói thu xây thành, Lá thu rơi rụng đầu ghềnh, và Sông thu đưa lá bao ngành biệt ly, các cụm mà ta tạm gọi là danh ngữ trước đó là Gió thu hiu hắt, rồi Sương thu lạnh, và Trăng thu bạch, tác giả, và cả người đọc, có thể nhìn các danh ngữ đó, bây giờ, là các câu hoàn chỉnh. Nhìn như thế là nhìn theo cấu trúc Đề - Thuyết, một dạng cấu trúc mà người Việt rất thường sử dụng, nhìn theo cách lý giải của Cao Xuân Hạo. [6] Những câu như thế có thể không có những hệ từ (động từ) thì hay là. Nhưng, nói chung, trong trường hợp nếu ta có thể cho thì hay là (tuỳ trường hợp) vào vị trí sau phần Đề và trước phần Thuyết, ta sẽ đưa cả cụm mà trước đó ta có thể xem là một ngữ tuyến, vì chưa nhìn thấy rõ “hình dạng” của một câu trong nó, thành một câu rõ rệt theo cấu trúc Chủ - Vị. Thật sự, Chủ ngữ cũng là một loại Đề, nhưng nó hẹp hơn và không có nhiều “vai” bằng Đề. Nói gọn, phạm vi của Chủ ngữ không có được một biên độ rộng lớn đề bao quát những đối tượng, chủ đề mà người Việt có thể dùng để kiến tạo câu.
Trở lại phần phân tích của chúng ta. Các cấu trúc Khói thu xây thành / Lá thu rơi rụng đầu ghềnh / Sông thu đưa lá bao ngành biệt ly cho ta thấy rõ cấu trúc Chủ - Vị của chúng. Trong những cấu trúc rõ rệt là câu này, các động từ, theo thứ tự, sẽ là xây, rơi rụng, và đưa. Khi ta “xoay” các cấu trúc Đề - Thuyết của các cụm Khói thu hiu hắt, Sương thu lạnh và Trăng thu bạch sang cấu trúc Chủ - Vị, hệ từ thì sẽ nằm ngay sau phần Đề (bây giờ biến thành Chủ ngữ) là Khói thu, Sương thu và Trăng thu. Như thế, các “cụm” này trở nên các câu rõ rệt, với các tính từ theo thứ tự là hiu hắt, lạnh, và bạch nằm trong phần Vị ngữ, ngay sau hệ từ (động từ) thì hiểu ngầm. Hiu hắt và lạnh là những từ “thuần Việt”, không làm cho ta thấy có gì đặc biệt trong kiến tạo ngữ pháp của câu. Nhưng bạch là một từ Hán Việt, thường xuất hiện trong dạng kết hợp với một từ (Hán Việt) khác, lại đứng đơn độc sau thì, để làm sáng nghĩa của Chủ ngữ Trăng thu. Nó là một từ Hán Việt, trong vai tính từ, đứng đơn độc, ngạo nghễ, trong phần Vị ngữ, sau hệ từ thì hiểu ngầm. Cấu trúc này, Trăng thu bạch, thật lạ và đẹp.
Làm sao ta biết được trong ý thức của Tản Đà (và quan trọng hơn nữa, trong tiềm thức và vô thức của cụ) chuyện gì đã xảy ra khi cụ viết câu Cỏ vàng cây đỏ bóng tà tà dương? Ai là người kiểm soát thao tác ngôn ngữ trong sáng tạo của một nhà thơ, của một nghệ sĩ? Trên một số quy luật căn bản của ngôn ngữ, ta chỉ có thể đưa ra một vài suy giải có thể là khác nhau để giải thích những trường hợp như thế này. Và cũng chính là vì có những trường hợp như trường hợp của câu thơ Cỏ vàng cây đỏ bóng tà tà dương mà chúng ta đang thảo luận đây, mà một câu thơ, một bài thơ, một tác phẩm, một nghệ sĩ trở nên kỳ diệu trước mắt người thưởng ngoạn.
Về những từ tà và tà tà. Người góp ý dẫn Hồ Lê, cho tà là một “nguyên vị tiềm tàng”, có nghĩa là ác, xấu, như trong tà đạo, tà thuyết, tà dâm... Còn chữ tà tà Việt hóa ngày nay mang một ý nghĩa và âm vang khác, chẳng hạn trong say tà tà. Những đóng góp ấy đều đúng cả. Nhưng chưa đủ. Thật sự, cả tà lẫn tà tà đều là những từ Hán Việt. Tà, ngoài nghĩa là ác, xấu ra, còn có nghĩa là nghiêng, xéo, xiên, chếch. Còn tà tà là chênh chếch, xiên xiên [7]. Từ đó, những danh từ Hán Việt, biểu thị tính chất lệch, cong, nghiêng, xéo, xiên, xuất hiện rất nhiều trong ngữ vựng Hán Việt: tà giác (Toán, gọi chung các góc tù và các góc nhọn), tà giác chùy (khối chóp xiên), tà khán (nhìn xiên), tà nguyệt (mặt trăng xế), tà nhãn (mắt lé), tà phương hình (hình thoi), tà viên chùy (hình nón xiên), v.v. Còn từ tà tà, nếu nó không phải là một từ Hán Việt đã được dùng từ rất lâu đời rồi, như Nguyễn Du đã dùng nó (trong câu thơ Tà tà bóng ngả về tây), tôi đã chẳng dám xem nó là một trạng từ trong mệnh đề (hoặc trong cụm) bóng tà tà dương của Tản Đà. Có lẽ, một phần lớn, vì không nghĩ rằng tà tà là một từ Hán Việt, đã được dùng từ rất lâu đời rồi (mà nghĩ rằng nó chỉ là một từ được Việt hóa trong thập niên 60, 70 của thế kỷ XX), nên người góp ý mới không chấp nhận cho tôi nhìn nó như một trạng từ.
Kinh nghiệm nghiên cứu ngữ pháp của các nhà ngôn ngữ học trên thế giới cho ta thấy là, trong một số trường hợp tế vi, trong một số cụm, một số câu, khi lý giải và phân tích, người ta không dám bảo nhau là hoàn toàn sai. Họ chỉ dám đề nghị một cách nhìn mới mà thôi.[8]
Chúng ta đã bàn về bóng dương ở một đoạn trên, nhưng thật sự, đó không phải là điểm quan trọng của sự thảo luận. Trong cái nhìn của tôi, điểm quan trọng nằm ở những từ bóng, tà tà, dương, bóng tà, tà dương, cùng với phận sự và ý nghĩa của chúng trong cấu trúc thẩm mỹ chung của câu thơ tạo nên sự thảo luận. Vấn đề bây giờ là bóng tà tà dương có nhất thiết phải là bóng tà và tà dương không. Hay là ta nên nhìn nó một cách khác để thấy sự bất ngờ và đẹp đẽ của câu thơ. Tác giả bài góp ý không chấp nhận việc tách dương ra khỏi tà. Vấn đề tôi nghĩ chúng ta cũng nên để tâm trong lúc thảo luận là ý nghĩa và cấu trúc ngữ pháp của nguyên cụm từ bóng tà tà dương cùng với liên hệ của nó trong cấu trúc ngữ pháp của toàn câu thơ tám chữ. Cách nhìn đề nghị của tôi không phải là chỉ tách dương ra khỏi tà, mà là tách cả bóng và dương ra khỏi tà, xem tà tà như một trạng từ, bóng là chủ từ, hệ từ thì hiểu ngầm, dương là tính từ. Cách nhìn này có thể bị xem là “táo bạo”, nhưng nó cũng dựa trên những hiện tượng bất ngờ xảy ra trong ngôn ngữ mà tôi sẽ bàn ở một đoạn dưới.
5.
Coi bóng tà và tà dương là hai từ riêng biệt trong cấu trúc của toàn câu thơ, người góp ý cho rằng câu Cỏ vàng cây đỏ bóng tà tà dương phải được ngắt ra làm bốn khúc, theo nhịp 2/ 2/ 2/ 2. Ông cho rằng hơi thở và hơi thơ phải ngưng lại sau chữ bóng tà, và, theo ông, quy luật thơ lục bát không cho phép có một biệt lệ nào khác.
Trong suy nghĩ của tôi, thời Tản Đà, trong thơ lục bát, người ta thường hay gieo vần và ngắt vần ở những quãng chẵn. Thơ, như thế, rất êm đềm, chảy thư thái một dòng. Dù sao, với con người nghệ sĩ Tản Đà, tôi không chắc câu thơ mà chúng ta đang thảo luận nhất thiết đã phải được ngắt như thế. Trước hết là vì khi ngắt như vậy, sự cân bằng về mặt cú pháp và thẩm mỹ của câu thơ bị gãy đổ như tôi đã phân tích. Thứ hai, chúng ta đã có kinh nghiệm rằng Tản Đà không chịu câu thúc. Trong cách sử dụng ngôn ngữ nói chung. Về mặt nhịp điệu, chúng ta sẽ đưa ra ngay dưới đây một câu thơ lục bát của ông mà cách ngắt nhịp đã phá bỏ quy luật chẵn vừa nói. Tôi nghĩ, một cách ý thức, hoặc một cách vô thức, Tản Đà có thể đã ngắt như cách tôi đã thử trình bày trong bài Mấy suy nghĩ thơ: 2/ 2/ 4, trong đó bốn chữ cuối cùng – nếu phải ngắt – có thể đã được ngắt, rất nhanh, thành 1/ 3. Như thế, tà tà đi với nhau. Là một trạng từ, nó chỉ một trạng thái của buổi chiều đổ nghiêng theo triền nắng. Nó diễn tả được một cách rất cụ thể cái dáng nghiêng nghiêng, phai phai, nhạt nhạt ấy. Của nắng. Của bóng mặt trời.
Trong một phần của bài, nói chuyện Tản Đà dịch thơ, chính tác giả bài góp ý cũng đã nhắc hai câu thơ Tản Đà dịch Thu tịch lữ hoài của Lý Bạch. Tản Đà dịch
Lương phong độ thu hải
Xuy ngã hương tứ phi
thành
Lạnh lùng gió vượt bể thu
Hồn quê theo gió như vù vù bay.
Câu thơ có thể hơi buồn cười ở hai chữ vù vù, dùng hơi ép. Nhưng chắc chẳng ai trong chúng ta nghĩ là Tản Đà sẽ cắt hai chữ vù vù ra để chiều nhịp chẵn của hai câu thơ lục bát. Tản Đà, một cách rõ ràng, đã phá nhịp thơ chẵn của lục bát trong hai câu thơ dịch này.
Ngoải ra, ngay trong bài thơ Cảm thu, tiễn thu, ngoài câu Cỏ vàng, cây đỏ, bóng tà tà dương, Tản Đà còn có một câu gieo nhịp lẻ nữa. Câu thơ quá hay, quá nổi tiếng, nên đa số chúng ta không để ý là nó đã phá luật nhịp chẵn (thường xuyên) trong sự gieo vần trong thơ lục bát:
Vèo trông lá rụng đầy sân
Công danh phù thế có ngần ấy thôi
Có ngần ấy là một cụm từ cần cả ba chữ mới đủ nghĩa. Bởi thế, ta không thể ngắt nhịp chẵn được. Còn nếu ngắt nhịp ngay sau “có ngần” để chiều nhịp chẵn, thì cách đọc, cách ngắt ấy thật là không hợp lý!
Còn thơ bây giờ? Như Tản Đà, và dĩ nhiên là còn đi xa hơn cụ, các nhà thơ hiện đại của chúng ta không coi quy luật về nhịp chẵn của lục bát là một quy luật bất biến. Thử đọc một vài câu thơ của chúng ta hôm nay.
ngày tôi. Trôi trên lưng, đồi
cây khô gốc đợi, lá bồi hồi, reo (...)
(Khúc 19 tháng Chín, Du Tử Lê)
(...)
rơi. Im. Rừng vươn tay che
chỗ sâu: lũng, cỏ. Khe tì vết, quen
đêm. Hôn. Mùi. Vùng thân. Thơm
trắng. Xanh. Tím. Đỏ. Hồng. Đen. Nâu. Vàng.
(Xuống thấp. Du Tử Lê)
hồi còn ở núi Quảng Yên
nằm không ngủ được, ngồi thiền mỏi lưng
đêm khuya uống nụ trà sâm
ngâm thơ lục bát cũng thành nhớ em
những ngày hai đứa nằm im
những sông tóc chảy cắt miền thịt da
những giờ mây núi bay qua
chiều quen tím xẫm chỗ tà huy non (...)
(Hồi ở Quảng Yên, Nguyên Sa)
Và bài thơ sau đây của Nguyễn Tất Nhiên. Nó không chỉ thả nhịp lẻ ở ba chữ cuối của câu tám như các đoạn thơ vừa trích ở trên, mà rất nhiều chỗ trong cả bài thơ được đánh nhịp lẻ. Như cách tôi thử dùng các dấu chéo để tách bạch chúng:
Đò qua sông / chuyến đầu ngày
Người qua sông / mặc áo dài suông eo
Sông hiền / sóng lạ lùng reo
Trời mênh mang / cũng nhìn theo / ái tình
Người qua sông / qua một mình
Nắng trên sông / nắng vàng hanh mái đầu
Xin em vài sợi tóc nhầu
Trói thân ta / với nghìn sầu chung nơi
Mong em gìn lấy ơn trời
Thấy quanh năm / thấy ta / đời tai ương!
Người qua sông / mặc áo hường
nắng dương gian / nắng buồn hơn trước nhiều...
(Chuyến đò Cửu Long, Nguyễn Tất Nhiên)
Đó là thơ của ta bây giờ.
Hãy thử trở về quá khứ một chút:
(...)
Chiều nay chẳng có mưa dầm
Mình sao nước mắt lại đầm đầm tuôn
(Nỗi buồn vô duyên – Cẩm Châu duyên, Hàn Mặc Tử)
Hay đi xa hơn nữa. Hãy trở về với Truyện Kiều của Nguyễn Du:
(...)
Lỡ chân trót đã vào đây
Khóa buồng xuân để đợi ngày đào non
Người còn thì của hãy còn
Tìm nơi xứng đáng làm con cái nhà (...)
Tôi chỉ trích thử một vài đoạn thơ để chia sẻ với người góp ý và với bạn đọc những nét mới trong thơ ta, trong sáng tạo của nhà thơ. Những câu thơ phá nhịp chẵn của lục bát như những câu thơ vừa dẫn có thể được tìm thấy rất nhiều trong thơ của ta bây giờ. Ngày xưa, có thể chúng là biệt lệ. Bây giờ thì đó là một hơi thơ rất tự nhiên. Nhưng vẫn mới và đẹp.
Avond (Evening): The Red Tree (Piet Mondrian, 1908)
Chú thích:
[1] Nguyễn Khắc Xuyên, Ngữ pháp tiếng Việt của Đắc Lộ 1651, nhà xuất bản Thời Điểm, California, 1993.
Đàng Ngoài, hay Đông Kinh (Tunchinensis, theo cách gọi của đời Lê Thái Tổ), qua cách trình bày của Đắc Lộ trong quyển Hành trình và truyền giáo, xuất bản tại Paris năm 1653, bao gồm cả Đàng Trong, lúc đó chưa ly khai với Đàng Ngoài và còn nằm trong Đàng Ngoài.
(2) Ủy ban Khoa học Xã hội Việt Nam, Ngôn ngữ học/Khuynh hướng, Lĩnh vực, Khái niệm, nxb Khoa học Xã hội, Hà Nội, 1986, trang 124.
Trong tập hai của bộ sách này, phần viết về Ngữ pháp học, các soạn giả Hà Nội đã hoàn toàn đồng ý với Bloomfield và nhiều nhà ngôn ngữ học khác trên thế giới về cách khu biệt từ và cụm từ. Đưa ra thí dụ Hoa mai / nở, họ coi hoa mai là một cụm từ, cấu tạo theo lối chính phụ hay hướng tâm.
Hoa mai là chủ ngữ. Nó là một cụm chứ không phải một từ, trong đó hoa là yếu tố chính; mai là định tố, miêu tả tính chất, tên gọi của hoa. Hoa là yếu tố trung tâm (gọi là đầu tố); các yếu tố miêu tả (yếu tố đặt sau nó) và hạn định (yếu tố đặt trước nó) đều hướng về nó.
Một thí dụ nữa, cũng trong quyển sách trên, để làm rõ khái niệm này: Cành hoa mai (Cành: định tố; hoa: đầu tố; mai: định tố).
Theo hướng phân tích ấy, tùy theo cách sử dụng và cách hiểu, cụm bóng dương có thể được diễn tả như sau: Bóng dương (định tố+đầu tố), hoặc Bóng dương (đầu tố+định tố). So với cấu trúc Cành hoa mai ở trên, bóng có thể đứng ở vị trí của cành hay hoa. Dương đứng sau bóng. Nó có thể đứng ở vị trí của hoa hay mai.
(Trái với cụm từ hướng tâm là cụm từ ly tâm, còn gọi là cụm từ tường thuật hay chủ vị (Bloomfield). Đây là cụm từ mà hình thức lập thành không cùng chức năng với yếu tố có sẵn. Thí dụ: Hoa / nở – Hoa nở khác với “hoa” và “nở”. Cụm từ hướng tâm là cụm từ mà yếu tố thêm vào không cùng chức năng với yếu tố có sẵn: Hoa mai).
Và một điều thêm nữa ở đây, nếu mai hoa có thể được coi như là một danh từ kép [Hán Việt] (nhưng cẩn thận những trường hợp như mai hoa hoàng diệp lý của Nguyễn Du), thì hoa mai lại không phải. Hoa mai là một cụm, một ngữ tuyến.
[3] Lê Văn Lý, Le parler vietnamien. Sa structure phonologique et morphologique fonctionnel. Esquisse d'une grammaire vietnamienne, nxb Hương Sơn, Paris, 1948. Bản dịch Sơ thảo ngữ pháp Việt Nam, nxb Dân Chúa in lại từ bản của Sài Gòn, trang 27.
Các nhà ngữ pháp thế giới hiện nay đều xem những tập hợp sau đây là một cụm, chứ không phải là một từ: une fille, a student, v.v. Mỗi cụm như thế chứa hai yếu tố tạo nghĩa nhỏ nhất có thể tách ra được về mặt ngữ pháp và ngữ nghĩa; chẳng hạn student là danh từ và a là loại từ/mạo từ. Kết hợp lại, chúng tạo thành một danh ngữ (noun phrase). Chúng không phải là một danh từ (dù đơn hay kép). Student được gọi là một ý nghĩa vị (sémantème), hay theo một lối nói khác là đầu tố; a được gọi là một ngữ vị, hay một định tố.
[4] Như đã phân tích, dương cũng như nguyệt không nhất thiết phải bám vào bóng, bởi vì bóng dương, bóng nguyệt không (nhất thiết) phải là những từ kép cố định. Như một từ Hán Việt, chúng có thể đứng một mình trong câu văn thuần Việt như nhiều từ Hán Việt khác. Ta đã thử xét vai trò của chúng ở vị trí chủ từ. Bây giờ, ta xét chúng ở những vị trí khác. Chẳng hạn, từ nguyệt, nếu được dùng một cách sáng tạo, hình ảnh của nó trở nên rất mới và đẹp.
* Dùng như danh từ đứng làm bổ định từ (complement – từ do tôi đặt, vì nếu gọi là túc từ như người ta vẫn thường gọi, có thể nó sẽ bị lộn với túc từ trực tiếp hoặc gián tiếp):
Từ khi em là nguyệt, lòng tôi bỗng nghe ra: buồn vui kia là một, như quên trong nỗi nhớ... (TCS)
* Dùng như một tính từ, trong một cụm làm rõ nghĩa cho một bổ định từ:
Đó là một nhan sắc đã rất nguyệt rằm.
(Phong cách dùng từ và hình ảnh của nhiều nhà văn, nhà thơ hiện nay, đặc biệt theo phong cách của Mai Thảo. Đã rất nguyệt rằm là một cụm, một tính ngữ (adjective phrase), dùng như tính từ, làm rõ nghĩa cho nhan sắc. Nguyệt là tính từ chính trong ngữ tuyến này. Rằm là tính từ được dùng đặc biệt trong cụm như một trạng từ chỉ sắc thái hay mức độ. Đã chỉ thời.)
[5] Ngữ pháp nước nào cũng có cái tế nhị và phức tạp của nó. Xin xem thêm chú thích 8 bên dưới để thấy rõ hơn về nhận xét này. Ở đây, trong tiếng Việt, xin nói về cái rắc rối của sự định danh khác biệt, chồng chéo giữa loại từ/mạo từ và phó danh từ (cũng như một số từ ngữ định danh khác đã được nhắc đến trong bài) của các tác giả khác nhau. Khi nói về chủng loại “hoa”, có vẻ như chúng ta xem “hoa” là danh từ, như trong cụm “hoa mai” đã thảo luận ở chú thích 2. Dù sao, có những tác giả xem “hoa” là loại từ. Nhưng “hoa” cũng có thể bị lược bỏ đi (hoặc không cần thiết). Bởi thế, ta có thể nói “mai”, “lan”, “cúc”, “diên vỹ”, “thược dược”, v.v., mà không nhất thiết phải có từ “hoa” đứng trước đó. Trong nhiều trường hợp. Đối với loài chim cũng vậy, có những tác giả xem “chim” là loại từ: ta có thể nói “chích choè”, “sáo”, mà không cần nói “chim chích choè” hay “chim sáo”. Nhưng, đối với những loài chim khác, chẳng hạn như “chim nhại” (mockingbird), từ “chim” là một phần bất khả tách biệt khỏi cái tên chung. Ta phải nói là “chim nhại”, “chim gõ kiến”, hay rõ hơn, “con chim nhại”, “con chim gõ kiến”, chứ không thể, để chỉ những loài chim này, chỉ nói thoải mái là “nhại” hay “gõ kiến” là đủ. Trong những trường hợp giống như dạng “con chim nhại”, “con” đang là phó danh từ sẽ được dùng như danh từ, và “chim nhại” sẽ là một từ kết hợp, làm rõ nghĩa cho “con”. Ta không thể tách “nhại” ra hỏi cái “chi”, cái “genus” của nó là “chim”, không giống như ta có thể nói trống kiểu “thược dược”, “diên vỹ”, “lan”, “cúc”, v.v. Đối với một vài chủng loại khác cũng có thể có trường hợp tương tự. Thế nhưng, có những chủng loại, như dế hay cá, khi nói về tiểu loại của chúng, thường thì ta phải xem từ “dế” hay “cá” là một thành phần gắn liền với tên của tiểu loại đó. Phải nói “dế trũi”, “dế lửa”, v.v., hay “cá mè”, “cá quả”, v.v., chứ không thể chỉ nói là “trũi”, “lửa”, hay “mè”, “quả”. Nói vậy sẽ tạo nên sự khuyết nghĩa, thông tin sẽ không được chuyển tải đầy đủ, tạo hiệu ứng nhiễu trong giao tiếp, đưa đến việc hiểu sai thông tin. Trong những trường hợp như thế, loại từ (hay phó danh từ) được dùng, khi cần thiết, sẽ không phải là tên của loài/tiểu loại nữa (như với các tiểu loại hoa, như hoa mai, hoa hồng, hoa hồng bạch [“Hồng” (Rosa) là một tiểu loại (species) của chi (genus) “Hoa”; còn “Hồng bạch” (Rosa alba) là một tiểu loại (species) của “Hồng” (và trong liên hệ này, bây giờ, “Hồng” là phân chi (subgenus) của “Hoa”] , hoa tường vy, v.v.), mà sẽ là “con”, hay ‘chú”, hay “chàng”, chẳng hạn (như, con dế than, chàng dế lửa, chú cá mè, v.v.) Đối với một số tác giả, như đã trình bày trong bài, họ xem các từ theo dạng con, cái, chú, chàng, cậu, v.v., là phó danh từ (chứ không phải là loại từ). Và trong trường hợp không có danh từ chính như thế, các dạng phó danh từ ấy sẽ thay thế danh từ, xem như được chuyển thành danh từ. Theo Nguyễn Kim Thản, ông nghĩ rằng, có lẽ trong một thời gian lịch sử xa xôi, phó danh từ đã là những từ độc lập, đóng vai trò trung tâm, còn danh từ ngày nay thì khi đó đóng vai trò phụ thuộc, vai trò định ngữ. Tôi nghĩ là nhận xét của ông có cơ sở, vì ngay từ thế kỷ XV, trong thơ của Nguyễn Trãi, ta đã thấy những cụm từ như con am, cái râu bạc, con lều, bà ngựa, v.v. Những từ con, cái, bà, v.v., như thế, có lẽ đã xuất hiện trước cả thời Nguyễn Trãi nữa. Các tên gọi như loại từ, phó danh từ… chỉ được tạo ra sau này. ]
[6] Một cách nói quen thuộc của người Việt, như câu “Chó treo, mèo đậy”, là câu Cao Xuân Hạo đưa ra để giải thích và làm sáng cấu trúc Đề - Thuyết. Nếu nhìn theo lối của cấu trúc Chủ - Vị mà người Tây phương và Âu Mỹ thường dùng, ý nghĩa của câu nói này rất khó để nắm bắt cho đúng. Thật sự, đây là một câu có hai mệnh đề: Chó treo / Mèo đậy. Khi nghe (hay đọc) mấy chữ “Chó treo, mèo đậy”, như Cao Xuân Hạo phân tích, phản ứng tự nhiên của người nước ngoài “là hiểu “chó” như “chủ ngữ”, “treo” như “động từ”, và hiểu câu ấy là “chó làm cái việc treo, mèo làm cái việc đậy”. Đó là cái nghĩa duy nhất mà một câu tiếng Âu châu có cấu trúc như trên cho phép hiểu. Ngoài cái vai “kẻ hành động” ra, chủ ngữ của tiếng châu Âu chỉ còn đóng được hai ba vai khác, như vai người hay vật mang một tính chất (nó mập), có một tình cảm (nó buồn), v.v., mà thôi.
Trong khi đó, câu trong những thứ tiếng không có chủ ngữ như tiếng Việt có một cấu trúc khác hẳn: nó gồm hai phần trong đó phần thứ nhất nêu lên một cái Đề (một đề tài) còn phần hai nói một điều gì có liên quan đến cái Đề ấy. Phần này gọi là Thuyết. Đề có thể bất cứ là vai gì, có bất cứ quan hệ gì với Thuyết, miễn sao thành một nhận định có ý nghĩa, có một nội dung thông báo nào đấy, cho nên các kiểu câu trong các thứ tiếng này đa dạng gấp mấy mươi lần các kiểu câu của tiếng châu Âu.”
Vậy, thành ngữ “Chó treo, mèo đậy”, nhìn theo cấu trúc Đề - Thuyết, nên được hiểu thành “Chó thì treo, mèo thì đậy”. Ý muốn nhắc chúng ta cần cất trữ thức ăn cho cẩn thận trước chó và mèo là những con vật chúng ta có thể nuôi trong nhà. Đối với chó thì ta phải treo thức ăn lên cao, vì chó không leo trèo được; nhưng đối với mèo thì ta chỉ cần đậy thức ăn lại, vì mèo không có sức như chó để lật tung thức ăn lên hay phá đổ nó nếu thức ăn để trong bát hay một thứ gì tương tự như thế để cất giữ.
Quan hệ Đề - Thuyết cho thấy có nhiều sự phù hợp với đặc điểm loại hình của tiếng Việt là một ngôn ngữ thiên chủ đề. Câu, theo lối đề - thuyết, được cấu trúc thành hai phần đề và thuyết, trong đó, theo Cao Xuân Hạo, “đề là điểm xuất phát, là cái cơ sở, cái điểm tựa làm bàn đạp cho đà triển khai của câu” được trình bày ở phần thuyết.
Xin xem các công trình Tiếng Việt – Sơ thảo Ngữ pháp chức năng (1991) và Tiếng Việt – Văn Việt – Người Việt (2001) (trong đó đặc biệt là bài Linh hồn tiếng Việt) của Cao Xuân Hạo.
[7] Nguyễn Văn Khôn, Hán Việt tự điển, nxb Đại Nam in lại bản của nxb Khai Trí, Sài Gòn, trang 810. Tà 邪 (bộ nhĩ) là lệch, cong và tà 斜 (bộ đẩu) là nghiêng, xéo, xiên, được viết với những bộ khác nhau.
[8] Một thí dụ: trong ngữ pháp Anh, một câu theo dạng
I told him to water the garden.
đã làm điên đầu bao nhà ngữ pháp học nổi tiếng trên thế giới. Hornby, người soạn bộ từ điển Oxford, cùng với nhà ngữ pháp học Ekersley, cho rằng ngữ tuyến him to water the garden có dạng của một accusative-infinitive construction. Nhà ngữ học Nestfield thì cho cụm to water the garden là một infinitive phrase, dùng như một objective complement. Ông nhìn cụm ấy như nhìn từ green trong câu I painted the door green, trong đó, green, theo quy chuẩn ngữ pháp, là một tính từ, đứng làm objective complement trong câu.
Có những trường phái ngữ pháp khác xem cụm him to water the garden được dùng như một túc từ trực tiếp (D.O.). Một trường phái khác xem him là túc từ gián tiếp (I.O.), còn cụm to water the garden giữ vai trò của một túc từ trực tiếp (D.O.).
Như vậy thì ai đúng ai sai? Dĩ nhiên, những nhà ngôn ngữ ấy cũng tranh luận để nêu ra cái lý của mình. Và theo dõi những lý giải ấy, người ta học hỏi được nhiều điều về chính cái ngôn ngữ mà người ta sử dụng hằng ngày kia. Thật ra, các nhà ngôn ngữ cũng chẳng ai dám bảo ai là sai, mặc dù họ rất nhiệt huyết trong những cuộc thảo luận hay trong những bài viết để lý giải cái nhìn của mình. Họ chỉ muốn đưa ra một cái nhìn, cùng lúc, vẫn tôn trọng cái nhìn của người khác.