Danh ngôn

Trong mọi cộng đồng, chúng ta cần một nhóm thiên thần gây rối.

We need, in every community, a group of angelic troublemakers.

(Bayard Rustin – trích bài phát biểu tại New York City 1963)

Trong mọi trường hợp, chắc chắn rằng sự thiếu hiểu biết, đi kèm với quyền lực, là kẻ thù tàn bạo nhất có thể có của công lý.

It is certain, in any case, that ignorance, allied with power, is the most ferocious enemy justice can have.

(James Baldwin - No Name in the Street 1972)

Các cuộc cách mạng và các cá nhân có thể bị giết hại, nhưng bạn không thể giết chết các ý tưởng.

While revolutionaries and individuals can be murdered, you cannot kill ideas.

(Thomas Sankara, một tuần trước khi bị ám sát, 1987)

Không có cảm giác nào cô đơn hơn việc bị chính đất nước mình trục xuất.

There's not a more lonely feeling than to be banished by my own country.

(Kiyo Sato – Kiyo’s Story 2009)

Ban Biên tập

Địa chỉ liên lạc:

1. Thơ

tho.vanviet.vd@gmail.com

2. Văn

vanviet.van14@gmail.com

3. Nghiên cứu Phê Bình

vanviet.ncpb@gmail.com

4. Vấn đề hôm nay

vanviet.vdhn1@gmail.com

5. Thư bạn đọc

vanviet.tbd14@gmail.com

6. Tư liệu

vanviet.tulieu@gmail.com

7. Văn học Miền Nam 54-75

vanhocmiennam5475@gmail.com

Tra cứu theo tên tác giả

Thứ Ba, 25 tháng 3, 2025

Về tự do (kỳ 8)

Tác giả: Timothy Snyder

Việt dịch: Nguyễn Quang A

Nhà xuất bản Dân Khí, 2025

Tương lai của Stalin

Sự di động, như một hình thức của tự do, liên quan đến các giá trị và thời gian cũng như đến không gian. Trong việc xua đuổi tương lai và lên án các đức hạnh, Hitler tạo ra một nền chính trị trong ba chiều, một nền chính trị mobilization (huy động) và demobilization (giải-huy động; giải ngũ). Việc giết những người Do thái và thống trị Đông Âu trở thành những mối bận tâm duy nhất. Sự di động trong chỉ ba chiều có nghĩa là sự tuyệt vọng và sự thuộc địa hóa.

Trong chủ nghĩa Stalin, có một tương lai, một ý niệm mơ hồ về chiều thứ tư, nhưng nó là một tương lai duy nhất, được ít người xác định. Có một lời ám chỉ về chiều thứ năm, nhưng nó là giá trị duy nhất của chủ nghĩa cộng sản, lấn át tất cả các giá trị khác một cách ghen tị. Rắc rối bắt đầu với chủ nghĩa Marx. Mặc dù 22phân tích của Marx về chủ nghĩa tư bản là quý giá, giải pháp do ông đề xuất phụ thuộc vào giả thuyết rằng có một bản chất con người duy nhất mà chúng ta sẽ quay về. Theo thế giới quan của Marx, tài sản tư nhân là cái xấu đặc biệt, và việc xóa bỏ nó sẽ khôi phục bản chất bị mất đó cho mỗi con người.

Đây là một hình thức phủ định của tự do: loại bỏ một rào cản; xem xét không đạo đức nào; lập kế hoạch không định chế nào; mong đợi những điều kỳ diệu. Khi chủ nghĩa Marx đã dẫn đến những chính sách giải phóng, như tại Vienna, Austria, được các nhà dân chủ xã hội xây dựng trong những năm 1920 và những năm 1930, nó không phải là một chương trình biến đổi toàn diện mà là một loạt cải thiện hàng ngày, hướng tới tự do. Ngay cả ngày nay Vienna thường được xếp hạng như thành phố tốt nhất trên thế giới.

Marx cho rằng lịch sử đang di chuyển theo hướng của một nền chuyên chính vô sản, vì chủ nghĩa tư bản đã xây dựng các nhà máy lớn mà các công nhân sẽ giải phóng một ngày nào đó. Các nhà bolshevik (không giống các nhà Marxist-Áo ở Vienna) có quan điểm rằng lịch sử nên được đẩy nhanh, và họ đã làm cách mạng của họ trong Đế chế Nga, một đất nước của các nông dân và những người du mục. Họ nghĩ rằng họ đã châm ngòi cho một cuộc cách mạng thế giới; khi điều đó tỏ ra không phải vậy, họ bị bỏ lại để xây dựng “chủ nghĩa xã hội trong một nước.” Lần nữa, điều này không phải là sự di động mà là sự huy động. Tự tin rằng lịch sử chỉ có thể theo một tiến trình, họ tin rằng họ phải thúc đẩy Liên Xô qua một sự bắt chước chủ nghĩa tư bản trước khi họ có thể tạo ra chủ nghĩa xã hội.

23Stalin đã phải trù tính một sự công nghiệp hóa. Các biện pháp được ông chọn, công nghiệp hóa cấp tốc của Kế hoạch-5-Năm 1928–33, đã huy động các nông dân để trở thành công nhân, 24trong khoảng một thế hệ. Hàng triệu nông dân đó đã chết đói hay ở trong 25các trại tập trung Gulag, xa xôi, được tạo ra vào cùng thời gian này. Họ đau khổ nhất ở Ukraine Soviet, nơi 26khoảng bốn triệu người đã chết đói. Cái chết phải có một ý nghĩa, và ý nghĩa sẵn có là sự tiến tới chủ nghĩa cộng sản. Vì chỉ có một tương lai, và nó được biết là tốt, thì cái chết hàng loạt dọc đường đã phải là cần thiết. Tại Đại hội Đảng cộng sản Liên Xô 1934, đó chính xác là những gì những người ủng hộ Stalin đã nói.

Tính chắc chắn của một tương lai duy nhất biện minh cho chế độ chuyên chế trong nguyên lý, và nó đã tạo ra một bạo chúa trong thực tiễn. Hình thức cổ điển của chế độ chuyên chế được trao vỏ bọc hiện đại của sự chắc chắn khoa học. Cho đến khi đạt được chủ nghĩa cộng sản, và tất cả mọi người được giải phóng, thì người dân chỉ là Körper để bị thao túng. Những hậu quả của tương lai duy nhất này, mà tất nhiên chẳng bao giờ đạt được, đã quét qua suốt thế kỷ thứ hai mươi và vào thế kỷ của chính chúng ta.

Cuộc đua Stalinist chống lại thời gian 27đã cung cấp tấm gương cho một cuộc cách mạng Trung quốc trong 1949, mà đã mang lại nạn đói lớn của riêng nó trong các năm 1950 và các năm 1960, đã 28giết ít nhất bốn mươi triệu người. Không có sự chắc chắn về một tương lai duy nhất và tấm gương huy động Stalinist, Đại Nhảy Vọt của Trung Quốc lẽ ra đã không xảy ra. Quả thực, không có tính kỳ dị Stalinist, Trung Quốc sẽ chẳng bao giờ có hình thức mà nó có ngày nay.

Dọc đường, ý tưởng, rằng kinh tế phải mang lại một tương lai cộng sản duy nhất, phải liên quan đến và cổ vũ ý tưởng rằng kinh tế phải mang lại một tương lai tư bản chủ nghĩa duy nhất. Phiên bản Soviet của chủ nghĩa Marx là một bản sao của chủ nghĩa tư bản; các nhà tư bản chủ nghĩa (như chúng ta sẽ thấy) muộn hơn đã trả ơn.

Giữa các Đế chế

Sự di động là về sự di chuyển tự do của các cá nhân tới những tương lai riêng của chính họ; sự huy động là về tất cả mọi người bắt kịp (chủ nghĩa Stalin) hay quay lại (chủ nghĩa Xã hội Dân tộc-Nazism) lịch sử hay tự nhiên phải như thế nào. Cả nước Đức Nazi và Liên Xô đã là các đế chế ersatz (không đích thật, thế phẩm), những nỗ lực muộn để khai thác kinh nghiệm thực dân Âu châu của các thế kỷ trước. Hitler rút ra những tấm gương từ 29sự thực dân hóa Ấn Độ và châu Phi; 30Stalin tin rằng Liên Xô nên khai thác ngoại vi của nó như các đế chế tư bản chủ nghĩa đã khai thác các thuộc địa hải ngoại của chúng. Chủ nghĩa đế quốc, Lenin nói, là hình thức cao nhất của chủ nghĩa tư bản, và đó là cái cần phải bắt chước. 31Cả Hitler và Stalin đều lấy cảm hứng từ sự di động đế quốc mà họ thấy ở Hoa Kỳ.

Cái nhìn này từ bên ngoài, dù có thể là cục bộ và cường điệu, có thể giúp chúng ta xem xét bản thân mình. Trong khoảng bốn trăm năm, từ sự đến châu Mỹ của Columbus trong 1492 suốt đến sự bắt đầu của Chiến tranh Thế giới I trong 1914, các cường quốc Âu châu đã có thể bành trướng nhờ các lợi thế công nghệ và miễn dịch học của chúng. Hai mươi thế hệ của những người Âu châu đã có một mức độ di động đế quốc chưa từng có (mặc dù, chắc chắn, phần lớn sự di cư đã là sự chạy trốn khỏi nghèo hay sự bức hại hay là một hình thức trừng phạt tội phạm).

Hoa Kỳ nổi lên trong thời đại của các đế chế, mà đã làm cho một số người Mỹ quen với một kinh nghiệm về sự di động qua sự thống trị. Bối cảnh của nền độc lập Mỹ là Chiến tranh Bảy Năm, một xung đột toàn cầu giữa các đế chế Anh và Pháp, mà Chiến tranh Cách mạng Mỹ là một phần kết của nó. Đế chế Anh đã thắng Chiến tranh Bảy Năm trong 1763, mở rộng đế chế của họ ở nơi khác, nhưng cũng chồng chất nợ nần và tích tụ sự kiêu căng.

Tuyên ngôn Độc lập 1776 được nhắm để chống lại một Đế chế Anh có những yêu sách tài chính và chính trị trên các thuộc địa Mỹ của nó. Các nhà thực dân nổi loạn đã đánh bại những người Anh trong Chiến tranh Cách mạng với sự giúp đỡ của một đế chế Pháp, mà bằng cách đó có được một mức độ trả thù nước Anh. Các nhà thực dân trung thành với Đế chế Anh đã di cư lên phía bắc đến cái trở thành Canada. Những người Mỹ đã thành lập một nền cộng hòa trong 1787. Với những người Anh và Pháp tránh khỏi đường một cách dễ chịu, nó là một nền cộng hòa được đánh dấu cho sự mở rộng đế quốc.

Cùng năm đó, 1787, Hoa Kỳ tổ chức Lãnh thổ Tây Bắc, các vùng đất quanh các Hồ Lớn mà 32nước Pháp vừa nhượng cho nước Anh trong 1763. Đó là vùng Trung Tây của thời trẻ của tôi. Sau khi vũ khí Mỹ đánh bại các Thổ dân, một hiệp định tại Greenville trong 1795 đã mở Ohio cho sự chiếm làm thuộc địa. Các tổ tiên bên ngoại của tôi đã rời North Carolina, nơi chế độ nô lệ vẫn hợp pháp, để định cư ở Ohio. Trong 1803, năm Ohio được thêm vào như một tiểu bang, Thomas Jefferson thương lượng việc Mua Louisiana từ một đế chế Pháp. Việc này mở ra sự chiếm làm thuộc địa đến Sông Mississippi và một làn sóng tiếp của sự xâm chiếm và sự phân tán các Thổ dân.

Trong Chiến tranh 1812, giữa Đế chế Anh và Hoa Kỳ mới, Anh đã hậu thuẫn các dân tộc Thổ dân nào đó, rồi rút lui. Việc này đã tách các Thổ dân khỏi đồng minh Âu châu cuối cùng của họ và đã tạo ra những sự biện minh cho sự trả thù. Sức mạnh Mỹ lan về phía tây, thay thế dân cư Bản địa. Trong 1846 Hoa Kỳ tuyên chiến chống lại Mexico, nơi sự cai trị đế quốc Tây Ban nha chấm dứt chưa đến ba mươi năm trước. Sự bành trướng Mỹ xuống Tây Nam đã tiếp sau chiến thắng 1848.

Là điển hình cho các cựu thực dân để phô bày các đặc tính đế quốc. Chuẩn toàn cầu đã là (và là) cho 33các chế độ hậu-thực dân mới, ngay cả khi các nhà lãnh đạo của chúng nói về sự giải phóng, để đưa vào các hình thức thu nhỏ của sự bóc lột. Trường hợp Mỹ là đặc biệt ở chỗ các cựu thuộc địa có tiềm năng to lớn cho sự bành trướng lãnh thổ. Trong hơn một thế kỷ sau 1776, những người Mỹ đã có những lợi thế công nghệ và miễn dịch học to lớn hơn các Thổ dân. Trên thực tế, Hoa Kỳ đã thay thế các cường quốc Âu châu—Anh, Pháp, Tây Ban nha, Nga.

Một vấn đề trong chính trị Mỹ sau 1848 là liệu chế độ nô lệ nên được cho phép trong các tiểu bang mới thêm vào Liên bang hay không. Vấn đề đó được giải quyết bởi thắng lợi của miền Bắc trong Nội Chiến trong năm 1865 và sự bãi bỏ chế độ nô lệ liên quan. Những người Mỹ gốc Phi được phép gia nhập đời sống chính trị ở miền Nam, 34chỉ trong hơn một thập niên. Trong Thỏa Hiệp 1877, binh lính Liên bang rút lui khỏi miền Nam, và các chế độ độc đoán chủng tộc được thiết lập (bởi những người Dân chủ toàn năng khi đó). Quân đội Liên bang sau đó quay sang đánh các Thổ dân Mỹ ở miền Tây. Khi miền Tây trở thành một vùng đất đổi chỗ, miền Nam trở thành một vùng đất đàn áp.

Rồi, cuối thế kỷ thứ mười chín đặt ra những kỳ vọng nhất định cho sự di động đạt được thế nào: bằng việc đàn áp một số người, và bằng việc đuổi những người khác đi.

Biên cương Đóng

Lời kêu gọi nổi tiếng “Bạn trẻ, hãy đi miền tây!” bày tỏ một tinh thần Mỹ về sự di động đế quốc. Sự mơ hồ của miền tây và biên cương gợi ý rằng đã luôn luôn có nơi nào đó để đi. Một cuộc sống có thể được định hình giữa sự chắc chắn về tính ưu việt và sự không chắc chắn của địa hình mới. Những người đàn ông trẻ có nguồn gốc Âu châu đã mang tới biên cương sự dũng cảm và hy vọng của mình—và đạn và vi trùng của hắn. (Là khó hơn cho những người Mỹ gốc Phi để có được đất, cho dù họ không bị nô dịch. Những người Mỹ gốc Phi có trở thành những cowboy, mà là công việc mùa vụ, nhất thời.)

Vùng biên cương Mỹ là mênh mông nhưng không phải vô tận. Biên giới Hoa Kỳ ở bên đông và bên tây là các đại dương; ở phía bắc và nam, nó đã ít thay đổi sau giữa thế kỷ thứ mười chín. Tây Ban Nha đã nhượng Puerto Rico, Guam, và Philippines cho Hoa Kỳ sau thất bại của nó trong chiến tranh trong năm 1898. Nỗ lực đế quốc lớn cuối cùng đã là “cuộc chạy đua vì châu Phi” của các cường quốc Âu châu của các năm 1880 suốt đến 1914. Trong Chiến tranh Thế giới I, một số đế chế Âu châu (được những người Mỹ giúp đỡ sau 1917) đã đánh bại các đế chế Âu châu khác. Điều này đã dẫn đến sự xáo trộn nào đó (nước Đức mất các thuộc địa ở châu Phi và Thái Bình Dương, đất Ottoman được đặt dưới sự trông nom của nước Pháp hay nước Anh) nhưng 35không có sự thay đổi nào về hệ thống.

Chiến tranh Thế giới I gây ra cách mạng trong Đế chế Nga, được tiến hành bởi những người tin rằng chủ nghĩa đế quốc đang sụp đổ khắp thế giới. Những người Bolshevik sau đó đã cập nhật đế chế, 36phá hủy các nền cộng hòa trẻ dọc đường và kiểm soát hầu hết các lãnh thổ của Đế chế Nga trước kia. Stalin đã thúc đẩy “thực dân hóa nội bộ,” đã ép buộc tập thể hóa, và công nghiệp hóa. Nước Đức từ 1933 bị cai trị bởi một Đảng Nazi quyết tâm tạo ra một đế chế mới ở Đông Âu. Bọn Nazi coi Liên Xô (hay phần phía tây của nó) như một thuộc địa tương lai, dự định đảo ngược sự hiện đại hóa của Stalin và khai thác Ukraine vì thực phẩm.

Từ 1941 đến 1945, nước Đức Nazi và Liên Xô tiến hành 37một cuộc chiến tranh thuộc địa vì Ukraine, mà chúng ta nhớ như Chiến tranh Thế giới II. Sự thực là hai cường quốc Âu châu tranh giành một vùng biên giới Đông Âu cho biết rằng lãnh thổ ở nơi khác là không sẵn có. Ukraine bây giờ đã là tiêu điểm của chủ nghĩa thực dân toàn cầu.

Hitler đã coi Liên Xô như một nhà nước dễ vỡ và những người Ukrainia như một dân tộc chịu định mệnh bị thống trị, nhưng điều đó đã không phải vậy. Những sự khác biệt về công nghệ giữa nước Đức Nazi và Liên Xô đã là tối thiểu. Nước Đức đã không có lợi thế miễn dịch học nào; quả thực, những người Đức đã sợ các mầm bệnh khi họ xâm chiếm. 38Liên Xô được hỗ trợ bởi sức mạnh kinh tế Mỹ, mà đã tạo sự khác biệt. Sau khi đánh bại nước Đức Nazi, những người Soviet giành lại sự kiểm soát Ukraine và đã khôi phục đế chế. Nó đã kéo dài chỉ 46 năm.

Khắp thế giới, các lợi thế miễn dịch học và công nghệ đã hết trong phần tư thứ ba của thế kỷ thứ hai mươi. Sau 1959, khi Alaska và Hawai‘i trở thành các bang, Hoa Kỳ sẽ không thêm lãnh thổ nào nữa. Hoa Kỳ thường đã thua các cuộc chiến tranh mà nó tiến hành ở cái bắt đầu được gọi là Thế giới thứ Ba. Về khía cạnh này, nó là điển hình. 39Nước Pháp đã không thể quay lại tài sản đế quốc trước kia của nó ở Đông Dương: Lào trở nên độc lập trong 1949, như Cambodia đã trở nên trong 1953. Ngay cả được Hoa Kỳ tài trợ, nước Pháp đã phải thừa nhận Bắc Việt Nam trong 1954. Hoa Kỳ tiếp quản cuộc chiến tranh ở Việt Nam trực tiếp trong 1965, giết khoảng một triệu người Việt Nam, rồi thất bại rời đi trong 1973. Sau khi rút khỏi Việt Nam, nước Pháp tiến hành một cuộc chiến tranh thực dân ở Algeria cho đến khi bị đánh bại trong 1962.

Các đế chế Anh, Hà lan, Tây Ban nha, và Bồ Đào nha đã rời châu Á và châu Phi trong phần tư thứ ba của thế kỷ thứ hai mươi. Liên Xô đã trên một thời gian biểu hơi khác. Nó đã mở rộng lãnh thổ riêng của nó và 40đã thêm một đế chế bên ngoài gồm các chế độ Đông Âu sao chép trong và sau 1945. Nó đã có khả năng can thiệp quân sự ở Hungary và Tiệp Khắc trong 1956 và 1968. Thế nhưng khi Liên Xô xâm lấn Afghanistan trong 1979, nó đã chịu những thất bại. Các nhà lãnh đạo Soviet đã đẩy những người cộng sản Ba lan để tự mình đàn áp phong trào Đoàn kết trong 1981 hơn là lệnh cho Hồng Quân xâm lấn Ba Lan. Trong 1989 Liên Xô 41buộc phải rút lui khỏi Afghanistan; nó mất đế chế bên ngoài của nó ở Ba Lan và Đông Âu cùng năm đó.

Nếu cái Stalin và Hitler đã thử trong các năm 1930 và các năm 1940 là chủ nghĩa thực dân mới, thì các cuộc chiến tranh chống lại Ukraine 2014 và 2022 là tân-chủ nghĩa thực dân mới. Các nhà lãnh đạo Nga đã áp dụng chính lý lẽ từ lịch sử của chủ nghĩa đế quốc, kể cả chủ nghĩa thực dân mới Nazi và Soviet, đối với Ukraine và những người Ukrainia. Nhà nước đã không tồn tại; dân tộc đã không tồn tại; luật quốc tế đã không được áp dụng; các đường biên giới đã không thật; những người Ukrainia là những người dân thuộc địa khao khát sự thống trị mà các elite khác chủng tộc của họ phải bị tiêu diệt và thực phẩm và các nguồn lực khác của họ phải bị cướp bóc. Quy mô của những hành động tàn bạo Nga sau 2022 là có thể so sánh được với các sự tàn bạo của các cuộc chiến tranh thuộc địa tồi tệ nhất trong quá khứ.

Như một cuộc đấu tranh quân sự, tuy vậy, chiến tranh Nga-Ukrainia theo hình mẫu thông thường. Không có các lợi thế công nghệ và miễn dịch học lớn, ngay cả các nước tự coi mình là các siêu cường sẽ gặp khó khăn chiếm và giữ nhiều lãnh thổ. Trong thời khắc lịch sử của chúng ta, nước lớn hơn (đế chế) có khuynh hướng thua các cuộc chiến tranh. Sự di động đế quốc không còn khả thi nữa.

Sự di động Xã hội

Một người tự do đi khắp vùng biên giới của sự không thể dự đoán được. Nhưng phải làm thế ra sao trong thế kỷ đông đúc của chúng ta?

Sự di động đế quốc sử dụng một số vũ khí mạnh mẽ của tính có thể dự đoán: các vũ khí cao cấp và các bệnh truyền nhiễm. Cả sự miễn dịch và công nghệ đã lan truyền, cuối cùng hỗ trợ các nạn nhân của sự thực dân hóa.

Những người chống-thực dân nói chung đã chiến thắng chống lại các mẫu quốc hải ngoại từ cuối các năm 1940, tập trung vào chủ quyền quốc gia như sự phản ứng lại đế chế. Sự tự-quyết dân tộc trở thành chuẩn mực toàn cầu, được LHQ mới luật hóa.

Ngôn ngữ tự-quyết dân tộc được vay mượn từ các ý tưởng khai phóng của tự do cá nhân; quan niệm về các quốc gia tự chủ (có chủ quyền), tuy nhiên, bỏ ngỏ câu hỏi về các cá nhân trở nên tự chủ thế nào. Chủ nghĩa dân tộc có hiệu quả như sự kháng chiến, để xác định tự do một cách tập thể và một cách phủ định như sự xóa bỏ sự cai trị đế quốc. Nhưng nó không cung cấp công thức nào cho tự do cá nhân.

42Cuộc chiến đấu chống-thực dân tại châu Âu, chống lại đế chế Nazi trong những năm 1939–45, đã có một hình thức khác với cuộc đấu tranh chống-thực dân bên ngoài châu Âu chống lại sự cai trị Âu châu. Nhắm để khôi phục hơn là để tạo ra các nhà nước, những người Tây Âu đã có thể nghĩ về việc không lặp lại 43những sai lầm của các năm 1930. Những người phản kháng sự chiếm đóng Đức đã hầu như chẳng bao giờ chiến đấu chỉ để loại bỏ những người Đức, và chắc chắn không cho một sự quay lại của status quo (hiện trạng) trước-chiến tranh. Tự do mà họ nghĩ đến thường là tự do khẳng định, về một tương lai với một ý nghĩa rộng hơn về khả năng.

Những người Mỹ đã giúp những người Âu châu điều chỉnh với một thời đại sau-chiến tranh, mà thực sự là một thời đại sau-đế quốc, bằng việc cổ vũ 44sự hợp tác kinh tế Âu châu. Họ đã gián tiếp trợ cấp các hệ thống chăm sóc sức khỏe, các dịch vụ xã hội, sự tái phân phối, và đầu tư nhà nước của các nhà nước phúc lợi Âu châu. 45Điều đó tạo ra một ý tưởng về sự di động không phụ thuộc vào sự bành trướng đế quốc. 46Sự di động xã hội mới đã hoàn thiện sự di động đế quốc, trong khi làm giảm sự bóc lột một số người bởi những người khác.

Một hình thức di động rỉ nhựa vào hình thức khác. Nước Đức, sau khi đã thua cuộc chiến tranh đế quốc của nó trong 1945, đột nhiên trở thành quê hương của hơn mười triệu người tị nạn, 47phần lớn trong số họ bị đuổi từ Ba Lan và Tiệp Khắc. Nhưng họ đã không tìm thấy một vùng đất ngưng trệ. 48Những người Đức bị trục xuất đến một Tây Đức dân chủ đã thấy mình ở giữa một dự án di động xã hội mới. Có thể nói cùng thế về những người Pháp đến muộn hơn từ Đông Nam Á và Bắc Phi, những người Hà lan đến từ Indonesia, những người Bỉ từ Congo, và những người Tây Ban nha và Bồ Đào nha từ châu Phi. Những người Âu châu rời khỏi các cựu thuộc địa trong các năm 1950, 1960, và 1970 đã tìm thấy những khả năng mới cho sự di động ở bản thân châu Âu.

Các nhà nước phúc lợi Âu châu (và Canada) được tạo ra sau 1945 đã xây dựng hạ tầng cơ sở và giao thông công cộng, huấn luyện công nhân, và miễn cho các công dân khỏi phải lo lắng về những giai đoạn khó khăn của cuộc đời. Giáo dục, chăm sóc sức khỏe, và hưu trí công cũng đã cho phép những người Âu châu (và Canada) để chọn tự do hơn suốt cuộc đời của họ. Các chính sách như vậy đã giúp tạo ra ba hình thức đầu tiên của tự do: sự tự chủ, sự không thể dự đoán được, sự di động.

Bắt đầu trong 1957, các nhà nước Âu châu gia nhập vào một dự án hợp tác kinh tế và chính trị mà trong 1992 được gọi là Liên Âu. EU đã cho phép không chỉ thương mại tự do mà cả sự di chuyển tự do. Nó trợ cấp đường sá và nông nghiệp và tài trợ sự trao đổi sinh viên. Sự di động đế quốc bi quên đi khi sự di động xã hội trở thành quy tắc.

Quá trình này không hề vô hại. 49Những người Âu châu đã kìm nén (và quên) quá khứ thực dân của chính họ, gây khó chịu cho những người khác. Sự thiếu tự-suy ngẫm lịch sử đó đã gây khó khăn hơn cho những người Âu châu để nhận ra các cuộc chiến tranh của Nga năm 2008 (Georgia), 2014 (Ukraine), 2015 (Syria), và 2022 (Ukraine) như các cuộc chiến tranh thuộc địa. Những người Âu châu giàu có đã tìm thấy những cách để 50moi tiền của họ từ các cựu thuộc địa của họ và giấu nó khỏi tầm mắt của các nhà chức trách thuế Âu châu. Điều này làm cho sự phát triển kinh tế trong các nhà nước hậu-thuộc địa khó khăn hơn, và nó tạo ra một văn hóa tránh thuế tràn lan toàn cầu. Bây giờ nó đe dọa tự do ở Hoa Kỳ.

Giai cấp Trung lưu

Trong khoảng bốn thập niên trong thế kỷ thứ hai mươi, quỹ đạo Mỹ đã giống quỹ đạo Âu châu: sự di động đế quốc nhường đường cho sự di động xã hội.

Bắt đầu trong các năm 1930, một nhà nước phúc lợi Mỹ chớm nở đã hình thành. Các chương trình cải cách “New Deal (Giao ước Mới)” của Franklin D. Roosevelt, “New Frontier (Biên cương Mới)” của John F. Kennedy và “Great Society (Xã hội Vĩ đại)” của Lyndon B. Johnson mô tả sự thay đổi từ sự bành trướng đế quốc sang sự di động xã hội. Đối với nhiều người Mỹ, đấy là các thập niên của Giấc Mơ Mỹ. 51Suốt các năm 1970, khoảng cách giữa những người giàu nhất và phần còn lại đang thu hẹp hại, cho phép nhiều người Mỹ hơn bao giờ hết để gia nhập một giai cấp trung lưu rộng.

Giấc Mơ Mỹ có ý nói sự di động xã hội. Thay vì hứa hẹn nhiều đất hơn mãi mãi, nó đem lại một cảm giác về tiến bộ xã hội không thể dự đoán được nhưng có thể trên lãnh thổ Hoa Kỳ. Sự di động không còn là về các gia đình định cư trên đất nữa mà về những thế hệ mới tạo ra những loại cuộc sống mới. Theo quan niệm này, biên giới dễ thấm là ranh giới của các giai cấp xã hội.

Trong Giấc Mơ Mỹ, xã hội là lỏng (hay thay đổi), tùy thuộc vào thành tựu của các cá nhân trong suốt một cuộc đời duy nhất. Không giống các đẳng cấp lịch sử, như nông dân hay quý tộc, giai cấp trung lưu được xác định không phải bởi tổ tiên hay nghề nghiệp mà bởi cuộc sống. Việc bước vào giai cấp trung lưu không chỉ là về cá nhân những người Mỹ đạt một mức thịnh vượng nào đó mà là về khả năng chung mà mọi người có thể sống một cách không thể dự đoán được và kết thúc ở nơi nào đó mới. 52Những đứa trẻ sẽ không bị kẹt trong đẳng cấp hay nghề nghiệp của ông bà hay cha mẹ của chúng, như trong các thế kỷ trước, cũng chẳng bị vướng vào một cuộc đua hoặc sự huy động giai cấp, như các chế độ Nazi hay Soviet.

Mặc dù đôi khi được trình bày như kết quả tự nhiên của chủ nghĩa tư bản, Giấc Mơ Mỹ đã phụ thuộc vào các chính sách xã hội được phát triển sau sự sụp đổ tư bản chủ nghĩa trong thời Đại Suy Thoái. Nó kéo dài cho đến khi những nguồn gốc của nó bị quên đi và bản thân chủ nghĩa tư bản được tôn lên như nguồn đơn nhất của tự do. Điều đó xảy ra trong các năm 1980.

Trong thập niên đó, các phản ứng Tây Âu và Mỹ đối với thời đại sau-đế quốc đã phân kỳ (mặc dù Anh Quốc đã giống Hoa Kỳ hơn, và Canada thì giống Tây Âu hơn). Bắt đầu trong 1981, dưới chính quyền tổng thống Ronald Reagan, 53các chính sách Mỹ về sự di động xã hội đã bị đảo ngược. Việc phá vỡ công đoàn đã làm yếu khả năng mặc cả của các công nhân. 54Sự bỏ bê luật chống-trust (chống độc quyền) đã ngăn cản doanh nghiệp nhỏ. Một sự nới lỏng các thuế lên những người giàu 55đặt gánh nặng lên tất cả những người khác. Lý do căn bản tường minh là tự do phủ định: Tổng thống Ronald Reagan cho rằng chính phủ chẳng bao giờ có thể giúp, chỉ làm hại.

Sự kết thúc của chủ nghĩa cộng sản ở Đông Âu trong 1989 được coi là sự xác nhận phiên bản Mỹ này của tự do phủ định. Thật lý thú, trong láng giềng phương bắc của Mỹ, đã không có sự đổi hướng như vậy. Ở Canada, không lý lẽ ý thức hệ nào được đưa ra chống lại nhà nước phúc lợi. Trong 1981 thì 56người Canada sống trung bình lâu hơn người Mỹ 1,5 năm. Sự chênh lệch đã tăng lên 5 năm. Nếu chúng ta nhân số đó với dân số, cái giá mà những người Mỹ đang sống sẽ phải trả là khoảng 1,5 tỷ năm bị chết một cách không cần thiết. Và đó không phải là cái giá của tự do, như một số người thích nghĩ. Sự chết vô nghĩa là không-tự do.

Sự di động xã hội vào giai cấp trung lưu là một vấn đề về tự do khẳng định, một hỗn hợp của các giá trị và các định chế, ý niệm rằng mỗi cuộc sống có thể có một quỹ đạo độc đáo nhờ các cấu trúc cho phép. Ở Hoa Kỳ, sự đề cao tự do phủ định trong các năm 1980 đã tạo ra một phong thái chính trị kéo dài sâu vào thế kỷ thứ hai mươi-mốt: mục đích của chính phủ không phải là tạo ra các điều kiện của tự do cho tất cả mọi người mà để loại bỏ các rào cản nhằm để giúp những người giàu củng cố tiền-của kiếm được của họ. Của cải được phép trốn khỏi đất nước, 57sang các thiên đường thuế hậu-thuộc địa.

Sự đổi hướng đầu sỏ (đầu sỏ tài phiệt- oligarchical) làm cho sự di động rất khó và bẻ cong sự đàm luận về tự do. Sự giàu có càng được tập trung, sự thảo luận càng bị kiềm chế—cho đến khi, trong thực tế, từ tự do trong tiếng Anh Mỹ chỉ có nghĩa là đặc quyền của ít người Mỹ giàu có để không đóng thuế, là quyền lực của ít nhà tài phiệt (oligarch-kẻ đầu sỏ) để định hình diễn ngôn, và là sự áp dụng bất bình đẳng của luật hình sự.

Sự Tống giam Hàng loạt

Nhà tù bắt dừng sự di động trong không gian và lấy mất thời gian. Trong cuối thế kỷ thứ hai mươi và đầu thế kỷ thứ hai mươi mốt, nhà tù đã tước mất nhiều năm của 58hàng triệu người Mỹ khi họ lẽ ra có thể được giáo dục, tìm được một việc làm, hoặc có những đứa con. Nó cũng tước nhiều người trong số họ mất phiếu bàu, tiếng nói của họ trong chính trị tương lai.

Việc từ chối quyền bầu cử của các tội phạm là nguy hiểm về mặt đạo đức. Nó khuyến khích các bạo chúa khát khao để định nghĩa các trọng tội theo cách phù hợp với các khát vọng chính trị riêng của họ—nói ngắn gọn, để nhốt những người mà có thể bỏ phiếu chống lại họ. Căn bản hơn, nó không nhất quán với bất kể chương trình nào của tự do để tạo ra các vùng đô thị vô vọng như một vấn đề chính sách. Những người Mỹ, mà bị bắt giam từ các năm 1970 suốt đến những năm 2010, là 59những người da Đen một cách không cân xứng. Một người đàn ông da Đen có khả năng khoảng năm lần bị bỏ tù hơn một người đàn ông da Trắng.

Một mối nguy đạo đức thứ hai là thủ tục Mỹ 60được biết đến như gerrymandering nhà tù. Những người bị bỏ tù được tính như những cư dân cho các mục đích để quyết định một khu vực sẽ có bao nhiêu đại diện được bàu. Khi các nhà tù được xây dựng và nhồi đầy, thân thể của các tù nhân làm tăng quyền lực của những người không bị bỏ tù quanh họ. Những người Mỹ đô thị bị hút ra khỏi các thành phố nơi họ lẽ ra đã bỏ phiếu và bị đặt vào [các nhà tù] ở các khu vực ngoại ô hay vùng nông thôn nơi thân thể của họ phóng đại quyền lực bỏ phiếu của những người khác—rất thường xuyên của những người khác bỏ phiếu cho các chính trị gia ứng cử với cương lĩnh xây dựng các nhà tù.

Nhà tù Connecticut nơi tôi dạy nằm ngoài các khu vực bầu cử của những thành phố mà từ đó các sinh viên của tôi đến. Trong 61tiểu bang Ohio quê hương của tôi, các tù nhân được chuyển từ các hạt với các thành phố lớn sang những quận hạt nông thôn. Theo cách này, không chỉ những người bị giam bị từ chối một tiếng nói, mà tiếng nói của họ bị lấy đi bởi những người khác—và chính xác bởi những người có một khuyến khích để xem các nhà tù như một nguồn việc làm và quyền lực chính trị.

Ở đây Leib trở thành Körper một cách đặc biệt nham hiểm: những gì mọi người có thể muốn chẳng có giá trị gì cả, trong khi đó sự tồn tại thể chất và vị trí của thân thể họ lại được bao gồm trong sự truy lùng quyền lực của ai đó khác.

Các tù nhân da Đen đã nhận ra tiền lệ lịch sử về việc tính các thân thể chống lại mọi người. Theo Hiến pháp, các nô lệ không thể được bỏ phiếu, nhưng thân thể của họ được tính (là 60 phần trăm của một thân thể đầy đủ) trong những tính toán về các tiểu bang có thể bàu bao nhiêu đại diện. Sự đại diện trong Quốc hội vì thế đã được chế độ nô lệ cấu trúc trực tiếp làm lợi cho các chủ nô và làm hại những người bị nô lệ hóa. Càng nhiều nô lệ sống trong một tiểu bang, càng nhiều người có thể được bàu để duy trì và mở rộng chế độ nô lệ.

Khi các nhà chức trách chính trị tiểu bang lập kế hoạch để xây một nhà tù, họ cũng đang lập kế hoạch để loại bỏ sự đại diện dân chủ khỏi một vùng và trao nó cho vùng khác. Bỏ phiếu cho các ứng viên như vậy có nghĩa là gì? Hay bỏ phiếu trong một khu vực bầu cử nơi tiếng nói của bạn được tính nhiều hơn tiếng nói của những người khác bởi vì có một nhà tù ở gần đó có nghĩa là gì? Đối với những người có ý sống trong một nền dân chủ, đó là một thất bại để “sống trong sự thật”—như Evan, một trong những sinh viên tù nhân của tôi, chỉ ra sau khi đọc “Quyền lực của những kẻ Không-Quyền lực” của Havel.

Gerrymandering nhà tù là một hiện tượng mà những người da Đen và Latino biết và những người da trắng không biết, hay chí ít tự thuyết phục mình rằng họ không biết. Nhưng đối với những người da Đen và Latino, mà thường sống trong các thành phố và cùng nhau tạo thành đa số của những người bị tù, thì logic tình huống là rõ ràng. Các thân thể bị tù của họ được biến thành quyền của ai đó khác để bàu những người sẽ xây dựng nhiều nhà tù hơn.

Là đúng rằng các cá nhân phạm tội, và rằng họ phải chịu trách nhiệm. Cũng đúng rằng những người khác có thể tạo ra những sự bất công lớn hơn xung quanh những cá nhân đó khiến cho tội phạm có khả năng xảy ra hơn và sự trừng phạt nó mang tính chính trị hơn. Cả hai thứ này có thể đúng cùng lúc. Sự thật chúng ta phải sống trong đó không phải là một sự thật duy nhất, thoải mái.

Zone Lớn

Trong lớp học về tự do tôi dạy trong nhà tù, chúng tôi đọc các công trình của các nhà bất đồng chính kiến dưới chủ nghĩa cộng sản. Các tù nhân chính trị Soviet nói về 62“zone nhỏ,” trại tập trung của họ, và “zone lớn (vùng lớn),” là bản thân Liên Xô. Các sinh viên tù nhân Mỹ, một khi họ nghe cách phát biểu này, nhặt nó lên và áp dụng nó cho Hoa Kỳ. Họ không làm việc này để khiêu khích tôi, mặc dù tôi thấy thật sửng sốt. Nó thật hợp với một trải nghiệm.

Sự bất động cùng cực của nhà tù (zone nhỏ) dường như đối với họ là tiêu điểm của sự làm bất động mà họ đã trải nghiệm toàn bộ đời sống của họ (trong zone lớn). Các sinh viên tù nhân này đã không phải là những người hay giễu cợt: họ đã phải cạnh tranh để được nhận vào chương trình đại học, họ muốn 63có được một học vị, và họ làm việc ở mức cao. Đúng hơn là họ đã bắt đầu đời họ trong một nước Mỹ nơi các chính sách xã hội để giúp sự di động phần lớn đã sụp đổ một cách đặc biệt bất lợi cho họ. Ý tưởng rằng những người da Đen là các tội phạm-nguyên mẫu 64đã hoạt động chống lại nhà nước phúc lợi, ngay cả khi các chính trị gia da trắng xác định các chính sách về sự di động xã hội như một lợi ích cho những người da Đen.

Trên thực tế, 65các chính trị gia da trắng đã thiết kế nhà nước phúc lợi để tạo ra một giai cấp trung lưu da trắng. Những người da Đen thường đã bị loại trừ. Đạo luật Nhà ở Quốc gia (NHA, 1934) đã tạo ra Cơ quan Quản lý Nhà ở Liên bang (FHA), bảo lãnh các khoản vay thế chấp, khiến cho những người Mỹ mua một căn nhà dễ dàng hơn. Nhưng nó chỉ làm vậy cho những người da trắng trong các khu dân cư da trắng. Nếu một gia đình da Đen có đủ sức để di chuyển vào một khu dân cư da trắng mà không có sự trợ giúp liên bang, FHA sẽ không còn bảo lãnh các khoản vay thế chấp của các gia đình gia trắng trong khu đó nữa. Kết quả là sự chia tách của các khu lân cận được biết đến như redlining (phân biệt đối xử), mà 66đã biến đổi thành các hình thức khác sau khi sự phân biệt đối xử nhà ở bị cấm muộn hơn.

Đạo luật Wagner (1935) tạo cơ sở pháp lý cho cho sự công đoàn hóa khu vực tư nhân, nhưng nó cũng cho phép các công đoàn loại trừ các công nhân da Đen. Giống Đạo luật An sinh Xã hội cùng năm, 67Đạo luật Wagner đã loại trừ những người lao động nông nghiệp và những người giúp việc gia đình, mà là những người da Đen một cách không cân xứng. 68Các công đoàn đã trở thành một trong các định chế đa chủng tộc quan trọng vào các năm 1970—mà là một trong những lý do chúng bị tấn công trong các năm 1980.

Trong bài phát biểu “Tôi Có một Giấc mơ” 1963 của mình, Martin Luther King, Jr., có ý nói Giấc Mơ Mỹ như một giấc mơ cho tất cả mọi người. Một Giấc Mơ Mỹ cho tất cả mọi người sẽ phải liên quan đến một sự quan niệm lại tự do như tự do khẳng định. Nếu không có một sự hiểu về quá khứ (để có một cảm giác về sự tự chủ), một số người trong chúng ta (nếu chúng ta là có thể dự đoán được) sẽ tìm kiếm những hình thức di động mà không còn sẵn có nữa. 69Trong một bản giao hưởng buồn của sự hiểu lầm và sự đồi bại, chúng ta có thể tái tạo các thói quen tinh thần của đế chế, lần này với không lợi ích vật chất nào cho những kẻ bóc lột. Những người tìm cách làm bất động những người khác lại kết thúc làm bất động chính bản thân họ.

Trong tự do khẳng định, chúng ta nhận ra rằng có nhiều thứ tốt, và chúng ta cố gắng đưa chúng lại với nhau. Công bằng xã hội và tinh thần kinh doanh (entrepreneurship) được đưa lại với nhau như Giấc Mơ Mỹ. Dưới một chế độ tự do phủ định, chúng ta tưởng tượng ra một lựa chọn bi thảm, qua đó chúng ta phải hy sinh mọi thứ khác cho một chính phủ nhỏ, rối loạn chức năng. Chủ nghĩa kỳ thị chủng tộc ngăn cản chúng ta khỏi việc trở thành những người đa nguyên và như thế ngăn cản chúng ta trở nên tự do.

Không-tự do Chủng tộc

70Ý tưởng Mỹ rằng chúng ta phải chọn giữa tinh thần kinh doanh và công bằng xã hội là ý tưởng phân biệt chủng tộc. Nó hoạt động trong chính trị trong chừng mực những người da trắng (và không-da Đen khác) nghĩ về mình như các nhà kinh doanh, còn về những người da Đen (hay những người nhập cư, hay các nhóm khác) như những kẻ lười biếng.

71Hình ảnh về sự lười biếng hoặc những người da Đen vốn là tội phạm quay lại thời kỳ trước Nội Chiến, khi những người bị nô lệ hóa gốc Phi làm công việc nặng nhọc, và “tội” chính của họ là cố gắng của họ để trốn thoát. Bóng ma kỳ thị chủng tộc kéo dài này thay thế thực tế rằng nhà nước phúc lợi phục vụ Giấc Mơ Mỹ. 72Bị một cảm giác danh dự sắc tộc quyến rũ, những người da trắng (và những người không-da Đen khác) ngoảnh mặt đi chỗ khác khi hệ thống nhà tù lớn nhất thế giới mọc lên xung quanh họ, thay thế một nhà nước phúc lợi mà, trong nhiều trường hợp, đã giúp họ hay gia đình họ.

Socrates nghĩ rằng việc làm cho những người khác bất lực ngăn cản chúng ta khỏi việc cho phép bản thân chúng ta. Dù Toni Morrison cho rằng việc trừng phạt một thiểu số sẽ giáo dục một đa số. Cuộc đời tôi là thời kỳ tống giam hàng loạt của lịch sử Hoa Kỳ, và nửa thế kỷ này đã để lại một dấu ấn lên tâm trí của những người Mỹ. Sự bỏ tù những người da Đen đã truyền đạt rằng việc là người da trắng là thượng đẳng và an toàn hơn. Những người Mỹ da trắng đo đó đã lớn lên với một quan niệm bị chủng tộc hóa về tự do như tự do phủ định: như không bị vào tù. Sự thiếu vắng áp bức đó, dù là một loại đặc quyền tồi, tuy nhiên là khó xử để ghi nhận. Và như vậy chính đối tượng của luật và trật tự kích cảm xúc tức giận ngay lập tức. Trở nên khó để nói về tự do chút nào.

Liệu tôi có tự do hơn như một vị thành niên bởi vì cảnh sát đã không bắt tôi trong những hoàn cảnh nơi 73ai đó khác, người da Đen nào đó, chắc có khả năng hơn để bị giam giữ? Chắc chắn, tôi đã khấm khá hơn một người da Đen ngang hàng bước vào hệ thống tư pháp hình sự. Nhưng một sự trải nghiệm như vậy dạy tôi để xác định tự do như chỉ sự vắng mặt của quyền lực nhà nước, thì tôi bị lôi kéo vào việc phạm một sai lầm khổng lồ. Quan niệm rằng cái tốt về nhà nước là nó bắt giữ những người khác là một cái bẫy được giăng ra cho những người Mỹ da trắng, một sự chuẩn bị cho sự đình trệ và sự tức giận xã hội.

Các chế độ chuyên chế làm cho sự lo âu có vẻ bình thường. Chúng gắn một mối đe dọa cho một nhóm (trong trường hợp này cho những người da Đen) mà các nhà chức trách không thực sự sợ, rồi khoe khoang với những người ủng hộ của họ về việc đã bảo vệ họ khỏi mối đe dọa đó. Họ thay thế sự giải thoát khỏi nỗi sợ hãi đó cho tự do và dạy các công dân để lẫn lộn hai thứ. Vòng lo âu và giải thoát, tất nhiên, không phải là sự giải phóng mà là sự thao túng.

Nó không phải là cách làm bất động như nhà tù làm. Tuy nhiên nó là một chính sách gây bất động mà mở rộng từ các thân thể da Đen ở bên trong sang các tâm trí Mỹ khác ở bên ngoài.

Chính trị làm Bất động

Trong phần tư cuối của thế kỷ thứ hai mươi, thuật hùng biện về sự phạm tôi và sự lười biếng của người da Đen đã thuyết phục một số người Mỹ da trắng rằng họ quá may mắn vì các chính sách xã hội đã cho phép sự di động xã hội của chính họ trong hai thế hệ. Được thuyết phục sai rằng sự công bằng kinh tế là cho những người khác, họ đã chấp nhận sự tự-dối mình rằng những người độc lập như bản thân họ không cần sự giúp đỡ nào từ chính phủ. Đấy chắc chắn là một tình cảm rất mạnh mẽ trong trường trung học của tôi vào các năm 1980.

74Trong năm 1968 Richard Nixon, một ứng viên tổng thống lúc đó, đã đưa các khái niệm tội ác và chủng tộc lại với nhau. Ronald Reagan sau đó đã liên kết phúc lợi và chủng tộc (mà, nhờ Nixon, đã được liên kết rồi với tội ác). Reagan đã quảng bá ý tưởng về “nữ hoàng phúc lợi” trong cuộc vận động tổng thống thất bại 1976 của ông và rồi lần nữa trong cuộc vận động thành công 1980 của ông; đã là 75một khuôn mẫu mà những đứa trẻ gia trắng lớn lên trong các năm 1970 và các năm 1980 đã buộc phải nghe. Tôi không thể nhớ không biết cái nó (nữ hoàng phúc lợi) chỉ rõ: một khuôn mẫu của những người phụ nữ da Đen đòi tiền thuế của những người da trắng làm việc chăm chỉ để nuôi nấng lũ con cái phạm tội. Trong việc chấp nhận logic này, và trong việc bỏ phiếu chống lại nhà nước phúc lợi, những người Mỹ da trắng đã đưa sự lo âu vào cuộc sống của chính họ—bằng cách đó làm cho bản thân họ và con cái của họ dễ bị tổn thương hơn đối với các chiến thuật kỳ thị chủng tộc tương lai.

Một người da trắng lớn lên trong cuối thế kỷ thứ hai mươi hay đầu thế kỷ thứ hai mươi-mốt được dạy để liên kết phúc lợi với cái gì đó mà những người da Đen đã lợi dụng; thế nhưng rất có thể, sớm hơn nó đã cho phép cha mẹ hay ông bà của họ để gia nhập giai cấp trung lưu. Những đứa trẻ Mỹ bây giờ đã mất Giấc Mơ Mỹ, phần lớn nhờ các phiếu bàu của cha mẹ và ông bà của chúng. Như nhà triết học Richard Rorty suy tưởng, 76“Cứ như, vào khoảng 1980, con cái của những người, mà đã vượt qua Đại Suy Thoái và vào các vùng ngoại ô, đã quyết định để kéo chiếc cầu kéo lên sau lưng họ.”

Nhiều người Mỹ gốc Âu châu đã quen với sự di động. Nói chung, họ đã quen với hệ thống hoạt động cho họ. 77Được bảo rằng hệ thống hoạt động cho những người khác, thì họ bỏ phiếu chống lại nó—và như thế chống lại sự di động xã hội của con cái họ và các cháu của họ. Trong các năm 1980, những người Mỹ đã ngăn cản chính họ hoàn tất sự chuyển đổi từ sự di động đế quốc sang sự di động xã hội, rồi tìm kiếm những người để đổ lỗi. Sự oán giận nảy sinh từ chính sách tồi trở thành một nguồn lực chính trị cho chính các chính trị gia đã thiết kế chính sách đó. Sự bất động tạo ra cơ hội cho các chính trị gia cho rằng một chủng tộc là vô tội và chủng tộc khác là có tội, và rằng vấn đề duy nhất ở nước Mỹ là sự hiện diện của các chủng tộc khác đó.

Kể từ cuối thế kỷ thứ hai mươi, thanh thế ma quái của đế chế đã cản trở tự do sống động. Thanh thế của một quá khứ bành trướng đế quốc, một thời khi chúng ta đã “vĩ đại,” là hấp dẫn bởi vì nó pha trộn sự khẳng định và sự bác bỏ. Nó hứa với nhân dân rằng họ là phần của một nhóm chiến thắng bằng sự nhắc đến một quá khứ đắc thắng, rồi biến họ thành những kẻ thua trong những tương lai bị xem rẻ của chính họ. Sự trộn lẫn gây nghiện này, sự bất động sau-đế quốc, dẫn đến sự trì trệ và sự cô lập. Ở Hoa Kỳ đầu thế kỷ thứ hai mươi-mốt, nó đã mang lại 78sự tự tử và sự nghiện ngập.

Sự bất động sau-đế quốc gợi lên một tiếng vang bi thảm của thời đại di động đế quốc. Nơi một thời các tù nhân bị buộc phải làm việc, bây giờ họ bị buộc để không làm gì cả. Nơi một thời bệnh tật là một công cụ của đế chế, bây giờ ma túy trở thành một phương tiện tự-áp bức. Nơi một thời súng ống đã cho phép người ta thuần phục một vùng biên cương, bây giờ chúng là các công cụ tự-hủy diệt. Sự bất động sau-đế quốc 79không đơn giản là bi kịch cá nhân mà là sự ra đời của nền chuyên chế.

Khách Nga

Chúng ta không sống trong sự thật thường xuyên như chúng ta có thể. Những người Mỹ da trắng biết nhiều về chủng tộc hơn họ thú nhận họ biết, nhưng sự nhận biết có khuynh hướng xuất hiện chỉ khi họ nói về người da trắng đau khổ cạnh người da Đen, như trong câu chuyện bệnh viện của tôi. Tuy nhiên, là hữu ích để bị “chấn động,” như triết gia Czech Jan Patočka diễn đạt. Những thời khắc khi chúng ta sống trong sự thật, khi chúng ta thoáng thấy hoàn cảnh khó khăn của người khác, có thể ở lại với chúng ta. Những câu chuyện của tôi đến từ một vị thế nào đó, mà sự nhận ra nó cho phép đưa ra một điểm tổng quát.

Trong tháng Mười 1990, như một sinh viên sát lớp cuối đại học, tôi giúp vận hành một hội nghị của các quan chức và các chuyên gia an ninh Soviet và Mỹ ở Washington, D.C. Vào cuối ngày đầu tiên của hội nghị, một người bạn và tôi được cử đi đón một vị khách quan trọng cho buổi chiêu đãi tối: Giorgy Arbatov, một chuyên gia Soviet xuất chúng về Hoa Kỳ và một cố vấn cho lãnh tụ Soviet Mikhail Gorbachev. Khi chúng tôi bước vào khách sạn nơi ông ở, chúng tôi đi qua một tấm biển trong tiền sảnh chào mừng Philadelphia Eagles, đội bóng bầu dục chuyên nghiệp, trong thành phố để chơi với đội Washington Redskins. Bạn tôi và tôi vui vẻ phấn chấn. Arbatov đã hòa nhã đồng ý cho tờ Brown Foreign Affairs Journal, mà chúng tôi biên tập, phỏng vấn. Chúng tôi đã có một cuộc trò chuyện lý thú trong phòng của ông. Sau đấy, ba chúng tôi ở trong một tâm trạng thân mật khi chúng tôi đi thang máy xuống.

Nó dừng lại sau vài tầng, cửa mở ra để lộ hai người đàn ông to lớn mang áo hoodie màu xanh, rõ ràng các cầu thủ đội Eagles. Ngay cả không có manh mối của tấm biển và áo, tôi nghĩ tôi cũng đoán ra. Tôi đã học một trường trung học nơi bóng bầu dục là vua. Tám trong số học sinh tốt nghiệp của nó đã chơi trong NFL (Liên đoàn Bóng bầu dục Quốc gia). Tôi nhớ từ những kỳ công phòng tập của vài gã khác, lớn hơn tôi hai tuổi, mà đã đi tiếp để chơi cho các đội Ohio State và UCLA. Đứa ngồi cạnh tôi trong lớp học lái xe ở trường trung học, trong mùa thu 1990 đó, có thể đã đứng thứ ba trên sơ đồ sâu ở vị trí tiền vệ tại đội Ohio State, nơi cậu ấy bắt đầu năm cuối của mình. Sau đó cậu ta trở thành 80bình luận viên giỏi nhất của đài truyền hình ESPN về bóng bầu dục trung học. Cậu ngồi cạnh tôi trong lớp Vật lý 1 ở trường trung học, mùa thu đó, đang chơi hậu vệ tại đội Kent State; cậu ta sẽ chơi bóng bầu dục chuyên nghiệp với đội Eagles, và trở thành một hậu vệ chuyên nghiệp.

Arbatov đã không có bối cảnh nền này. Và trong khi tiếng Anh của ông thật xuất sắc, ông đã không có cách nào để biết cách dùng Mỹ nào đó xung quanh chủng tộc. Hai người đàn ông bước vào thang máy là những người da Đen. Arbatov, cao khoảng năm bộ (1,5 m) với cả giày của ông, ngước lên họ và đưa ra một lời dạo đầu đáng ngạc nhiên: “Ôi, các bạn chắc chắn là các chàng trai (boy) rất lớn!”

Một cầu thủ quay sang cầu thủ khác: “Cậu có nghe những từ đó?” Đồng đội của anh ta quả thực đã nghe nhưng nhận ra cái gì đó khác, có lẽ là giọng. “Bỏ qua đi, cậu,” anh nói nhanh và hầu như không thể nghe được; những lời chỉ hơn một hơi thở nhanh một chút. Rồi anh ta nhìn vào tường, cứ như chẳng gì đã xảy ra cả. Nhưng người thứ nhất quay sang tôi, vẫn tức giận: “Anh có nghe những gì ông ta vừa nói?” Tôi đã nghe. Một cái gật đầu nhẹ, có nghĩa gợi ý rằng tôi đã nghe và không đối đầu nhưng có lẽ đã có nhiều hơn để nói. Một loại nước Mỹ, nước Mỹ tự tin cuối–Chiến tranh Lạnh, đã đối đầu với một nước Mỹ khác, nước Mỹ chủng tộc lúng túng và bị tổn thương. Công việc của chúng tôi để đưa học giả đến tiệc lớn đã trở nên phức tạp.

Chuông thang máy vang lên khi chúng tôi qua mỗi tầng; dường như cần rất lâu để đến tiền sảnh. Khi chúng tôi đến, cầu thủ giận dữ ra trước, quay về phía chúng tôi, khoanh tay, và chặn đường. Anh ta muốn một lời giải thích. Đồng đội của anh ta đặt một tay lên vai anh ta, một cử chỉ có thể là sự ủng hộ hay sự kiềm chế và có lẽ cả hai. Tôi tiến một bước nhỏ lên phía trước, ngước lên để giao tiếp bằng mắt, và thanh thản nói, “Ông ta là người Nga, các anh ạ. Ông ta không biết.”

Thân thể trước mặt tôi dịu đi. Không khoanh tay nữa. Cầu thủ thứ hai bước đi, đẩy vai của người kia lại, và chuyển sang trạng thái của một người tản bộ hàng ngày qua tiền sảnh và theo hướng lối ra.

Arbatov không hiểu những gì đã xảy ra nhưng ông biết mình đã xúc phạm. Ông bước ra thang máy với cánh tay dang rộng. Lần này cầu thủ thứ nhất chào ông với một nụ cười rạng rỡ, đặt tay mình lên vai viện sĩ, và bắt đầu nói chuyện về Đời sống Ban đêm D.C. Bỗng dưng họ là những người đi ra phố.

Bây giờ tôi có một nỗi lo khác: Arbatov đi theo cuộc nói chuyện thân mật của các vận động viên vào nhầm xe. “Ông thích cigar không? Hãy lấy một điếu của tôi. Cigar này tuyệt vời ông ạ.” Từ tuyệt vời được mở rộng, như cánh tay. Arbatov đáp lại anh ta với một nụ cười thật đẹp, đôi mắt sống động đằng sau cặp kính mắt dày, và nhận điếu cigar được mời. Bạn tôi và tôi đã phải tách hai người ra để đưa học giả Soviet đến hội nghị của ông.

Khi cầu thủ trở nên tức giận với Arbatov, anh ta phản ứng không chỉ với những lời của Arbatov, tôi hiểu thế. Có lẽ anh ta trải qua một trong một loạt phản ứng suốt đời với thân thể của mình. 81Bất kể anh ta mặc đồ gì hay ứng xử thế nào, anh ta là một người da Đen ở Mỹ và được đối xử như vậy. Theo nghĩa này anh ta đã không tự do, bất động, theo 82cách Fanon mô tả. Trong một thế giới trong đó đã là chế độ nô lệ và tất cả chúng ta đều biết rằng đã có chế độ nô lệ, từ boy (chàng trai, cậu bé) đã không thể trung lập: anh ta phản ứng hay không phản ứng, và cả hai sẽ có những rủi ro và các chi phí. Anh ta đã không thể tiến lên.

Với tư cách một người Mỹ hai mươi mốt tuổi từ vùng (hãy gọi nó là hạ) Trung Tây, tôi biết rằng Arbatov được xem như người da trắng và rằng một người da trắng không thể nói “boy” đối với một người đàn ông da Đen, và ít nhiều tôi biết vì sao. Ngay lập tức, tôi biết những gì tôi cần biết về chủng tộc, mặc dù hầu hết thời gian tôi đã không nghĩ về nó chút nào hay đã ỉm đi những gì tôi biết. Ngay lúc đó, tôi hiểu rằng việc tách Arbatov khỏi cách Mỹ nhìn và nói là lối ra duy nhất khỏi tình thế rắc rối. Phần tôi đã dễ. Nhân vật của câu chuyện là cầu thủ bỏ thế thủ của mình khi anh ta nhận ra sự hiểu lầm của mình và người nước ngoài nhỏ bé, đeo kính, kiên trì và tiếp tục mỉm cười.

Khi thang máy đi xuống vài tầng cuối, tôi đã âm thầm luyện những gì tôi sẽ nói: Người Nga, Nga, Nga. Tôi đã bảo cầu thủ rằng Arbatov là người Nga bởi vì tôi biết rằng sẽ là dễ hiểu. Người Soviet có thể chính xác hơn. Tại Liên Xô, Arbatov được xem như người Do thái, một sự mô tả đặc điểm ông không thể trốn khỏi và đã chẳng bao giờ trốn thoát.

Bố của Arbatov, Arkady, từ một gia đình Do thái nghèo ở vùng bây giờ là vùng Dnipro của Ukraine, trong Đế chế Nga khi đó. Như một cậu bé, Arkady Arbatov di cư đến Odesa, nơi ông làm việc như một lao công. Trong năm 1918, Arkady gia nhập những người Bolshevik và đã chiến đấu bên phía họ trong Nội Chiến Nga, mà đã đưa phần lớn cái bây giờ là Ukraine vào Liên Xô.

Giorgy Arbatov ra đời trong 1923 ở Kherson, Ukraine Soviet, sáu tháng sau khi thành lập Liên Xô. Nước Đức xâm chiếm Liên Xô trong 1941; Arbatov trưởng thành đúng vào lúc để bị chiêu mộ vào Hồng Quân và được cử ra mặt trận. Những người Rumania chiếm đóng và các cộng tác viên Soviet địa phương 83đã giết những người Do thái ở Odesa. Những người Đức chiếm đóng và các cộng tác viên Soviet địa phương 84đã giết những người Do thái ở Kherson và Dnipro. Arbatov đã chẳng bao giờ biết bất cứ thứ gì về phía Do thái của gia đình ông; vào lúc ông được hỏi, tất cả họ đã đều chết rồi.

Trong cuối 1941, Arkady Arbatov bị ống vào một trại lao động Soviet. Năm 1942 thật khó khăn cho mẹ Giorgy Arbatov: con trai bà ở mặt trận, chồng bà trong Gulag. Trong hồi ký của mình, mà ông viết vào thời gian phỏng vấn của chúng tôi, Arbatov viết về 85tình trạng khó khăn kỳ quặc của bố ông: một người Do thái cộng sản bị tù trong một trại tập trung Soviet, ngay cả khi bọn Nazi xâm chiếm cho rằng đang giải phóng những người địa phương khỏi một chế độ Do thái. Arbatov nhắc đến tiểu thuyết 1984 của George Orwell—chỉ thêm rằng Orwell đã không đi đủ xa trong sự mô tả của ông về tính đồi trụy toàn trị.

Sau chiến tranh, Stalin bắt đầu một cuộc thanh trừng những người Do thái. Tuyên truyền trình bày các thân thể Do thái như khác, như hèn nhát. Trở thành “kiến thức phổ thông” rằng những người Do thái đã không ra chiến trường. Bối cảnh Do thái của Arbatov đã không giúp ông trong sự nghiệp sau-chiến tranh của ông ở Liên Xô. Nhưng ông đã vẫn, theo các tiêu chuẩn Chiến tranh Lạnh, là một người lạc quan về chính trị: học tiếng Anh, cố gắng hướng Liên Xô khỏi sự đối đầu, luôn trao cho sự đối thoại một sự thử nữa.

Chú thích:

16để là một người Đức tốt: Peter Longerich, Politik der Vernichtung (Munich: Piper, 1998), hay Holocaust (New York: Oxford University Press, 2010). Xem cả Thomas Kühne, Belonging and Genocide (New Haven: Yale University Press, 2010).

17Hitler đã gắn chặt những người Do thái với: Tóm tắt của tôi về thế giới quan của Hitler có thể thấy trong Black Earth. Nó hoạt động với các nguồn sơ cấp sẵn có, mà gồm Adolf Hitler, Hitler and His Generals: Military Conferences 1942–1945, ed. David M. Glantz, trans. Roland Winter, Krista Smith, and Mary Beth Friedrich (New York: Enigma Books, 2003); Hitler, Hitler’s Second Book: The Unpublished Sequel to Mein Kampf, ed. Gerhard L. Weinberg, trans. Krista Smith (New York: Enigma Books, 2010), được đọc chính tả 1928, lần xuất bản tiếng Đức 1961; Hitler, Hitler’s Table Talk 1941–1944: His Private Conversations, trans. Norman Cameron and R. H. Stevens (New York: Enigma Books, 2000); Hitler, Mein Kampf (1925–26; tái bản Munich: Zentralverlag der NSDAP, 1939); Hitler, Sämtliche Aufzeichnungen, 1905–1924, ed. Eberhard Jäckel and Axel Kuhn (Stuttgart: Deutsche Verlags-Anstalt, 1980); Hitler, Staatsmänner und Diplomaten bei Hitler, part 2: Vertrauliche Aufzeichnungen über die Unterredungen mit Vertretern des Auslandes 1942–1944, ed. Andreas Hillgruber (Frankfurt: Bernard & Graefe, 1970). Đúng lúc, so sánh Johann Chapoutot, “L’historicité nazie: Temps de la nature et abolition de l’histoire,” Vingtième siècle, no. 117 (2013): 43–55.

18không chiều thứ tư nào: Reinhart Koselleck, Futures Past, trans. Keith Tribe (Cambridge, Mass.: MIT Press, 1985).

19để tự nhiên có thể được cứu rỗi: Hitler, Mein Kampf, 69, 287; Hitler, Sämtliche Aufzeichnungen, 462–63.

20là một “sự lừa đảo Do thái”: Hitler, Mein Kampf, 282–83. Vai trò của thực phẩm trong thực tiễn của Hitler đã được đánh giá cao kể từ cuốn sách Krieg, Ernährung, Völkermord: Forschungen zur deutschen Vernichtungspolitik im Zweiten Weltkrieg (Hamburg: Hamburger Edition, 1998) của Christian Gerlach.

21Ý tưởng là để thống trị miền tây Liên xô: Xem Timothy Snyder, “The Causes of the Holocaust,” Contemporary European History 21, no. 2 (2012): 149–68.

22phân tích của Marx về chủ nghĩa tư bản: Thường chính bình luận chính trị liên tục của ông, được phân tích đó làm sáng tỏ, đã phần lớn trúng mục tiêu. Xem Karl Marx, The Eighteenth Brumaire of Louis Bonaparte (New York: International Publishers, 1987); được xuất bản ban đầu bằng tiếng Đức trong 1852.

23Stalin đã phải trù tính một sự công nghiệp hóa: Tôi twongf thuật việc này chi tiết hơn trong Bloodlands, chương 1. Xem cả Hiroaki Kuromiya, Stalin (Harlow: Pearson Longman, 2005).

24trong khoảng một thế hệ: Tất nhiên, việc này có thể có sắc thái hơn. Xem Sheila Fitzpatrick, Education and Social Mobility in the Soviet Union, 1921–1934 (Cambridge: Cambridge University Press, 1979).

25các trại tập trung Gulag: Xem Oleg V. Khlevniuk, The History of the Gulag (New Haven: Yale University Press, 2004); Lynna Viola, The Unknown Gulag: The Lost World of Stalin’s Special Settlements (New York: Oxford University Press, 2007); Anne Applebaum, Gulag: A History (New York: Doubleday, 2003).

26khoảng bốn triệu người đã chết đói: Barbara Falk, Sowjetische Städte in der Hungersnot 1932/33 (Cologne: Böhlau Verlag, 2005); Jan Jacek Bruski, Hołodomor 1932–1933 (Warsaw: PISM, 2008). Tôi dành chương 1 của Bloodlands cho chiến dịch bỏ chết đói này. Đỉnh cao trong tiếng Anh là Anne Applebaum, Red Famine: Stalin’s War on Ukraine (New York: Doubleday, 2017); nghiên cứu phong phú bây giờ sẵn có bằng tiếng Ukrainia.

27đã cung cấp tấm gương cho: Hua-Yu Li, Mao and the Economic Stalinization of China, 1948–1953 (New York: Rowman & Littlefield, 2006); Frank Dikötter, Dikötter, Mao’s Great Famine (London: Bloomsbury, 2010).

28giết ít nhất bốn mươi triệu người: Dikötter, Mao’s Great Famine.

29sự thực dân hóa Ấn Độ và châu Phi: Về những sự liên tục khác nhau từ chủ nghĩa thực dân hải ngoại, xem Magnus Brechtken, “Madagaskar für die Juden”: Antisemitische Idee und politische Praxis 1885–1945 (Munich: R. Oldenbourg Verlag, 1997); Peter Black, “Askaris in the ‘Wild East’: The Deployment of Auxiliaries and the Implementation of Nazi Racial Policy in Lublin District,” trong Charles W. Ingrao and Franz A. J. Szabo, eds., The Germans and the East (West Lafayette, Ind.: Purdue University Press, 2008), 277–309; Willeke Hannah Sandler, Empire in the Heimat (New York: Oxford University Press, 2018); Jürgen Zimmerer, Von Windhuk nach Auschwitz (LIT Verlag, 2011); Lora Wildenthal, German Women for Empire, 1884–1945 (Durham, N.C.: Duke University Press, 2001).

30Stalin tin rằng Liên Xô nên khai thác: Xem Timothy Snyder and Ray Brandon, eds., Stalin and Europe: Imitation and Domination, 1928–1953 (New York: Oxford University Press, 2014).

31Cả Hitler và Stalin đều lấy cảm hứng từ sự di động đế quốc mà họ thấy ở Hoa Kỳ: Xem Hitler, Hitler’s Second Book; Klaus P. Fischer, Hitler and America (Philadelphia: University of Pennsylvania Press, 2011).

32mà Pháp vừa nhượng cho nước Anh: Ute Planert and James Retallack, eds., Decades of Reconstruction (Cambridge: Cambridge University Press, 2017), part 1.

33các chế độ hậu-thực dân mới: Enlightening here is Kamel Daoud, Meursault, contre-enquête (Paris: Barzakh Editions, 2013).

34chỉ trong hơn một thập niên: Xem Eric Foner, Reconstruction: America’s Unfinished Revolution (New York: HarperCollins, 2014).

35không có sự thay đổi nào về hệ thống: Một lịch sử gần đây hữu ích là Ulrike von Hirschhausen and Jörn Leonhard, Empires: Eine globale Geschichte, 1780–1920 (Munich: Beck, 2023).

36phá hủy các nền cộng hòa trẻ: Về các cuộc chiến tranh hậu chiến, xem Robert Gerwarth, The Vanquished: Why the First World War Failed to End, 1917–1923 (London: Allen Lane, 2016). Về sự yếu kém của vị thế dân chủ khai phóng, xem Mark Mazower, Dark Continent: Europe’s Twentieth Century (New York: Vintage, 2000).

37một cuộc chiến tranh thuộc địa vì Ukraine: Trong vài thập niên qua, tầm quan trọng của Mặt trận phía Đông lại được đánh giá cao. Một điểm goặt đã là Norman Davies, “The Misunderstood Victory in Europe,” New York Review of Books, May 25, 1995, 8–17.

38Liên Xô được hỗ trợ bởi sức mạnh kinh tế Mỹ: Adam Tooze, The Wages of Destruction: The Making and Breaking of the Nazi Economy (New York: Viking, 2007).

39nước Pháp đã không thể quay lại: Simone Weil đã đoán trước chuỗi các sự kiện này: “Le sang coule en Tunesie,” March 25, 1937, trong Oeuvres complètes, vol. 2, Écrits historiques et politiques, bk. 3 (Paris: Gallimard, 1988), 131.

40đã thêm một đế chế bên ngoài gồm các chế độ Đông Âu sao chép: Về cộng sản hóa, xem Anne Applebaum, Iron Curtain: The Crushing of Eastern Europe 1944–1956 (New York: Doubleday, 2012); Bradley Abrams, “The Second World War and the East European Revolution,” East European Politics and Societies 16, no. 3 (2003): 623–64; Jan T. Gross, “The Social Consequences of War: Preliminaries for the Study of the Imposition of Communist Regimes in East Central Europe,” East European Politics and Societies 3, no. 2 (1989): 198–214; T. V. Volokitina et al., eds., Sovetskii faktor v Vostochnoi Evrope 1944–1953 (Moscow: Sibirskii khronograf, 1997); O. N. Ken and A. I. Rupasov, eds., Politbiuro Ts.K. VKP(b) i otnosheniia SSSR s zapadnymi sosednimi gosudarstvami (St. Petersburg: Evropeiskii Dom, 2001); Wolfgang Müller, Die Sowjetische Besatzung in Österreich 1945–1955 und ihre politische Mission (Vienna: Böhlau Verlag, 2005).

41buộc phải rút lui khỏi Afghanistan: Tô đang đơn giản hóa một cuộc chiến tranh phức tạp. Xem Artemy Kalinovsky, A Long Goodbye: The Soviet Withdrawal from Afghanistan (Cambridge, Mass.: Harvard University Press, 2011).

42Cuộc chiến đấu chống-thực dân tại châu Âu: Quan trọng trong việc định khung lại cuộc chiến tranh như chiến tranh đế quốc là Mark Mazower, Hitler’s Empire: How the Nazis Ruled Europe (London: Allen Lane, 2008).

43những sai lầm của các năm: Xem Eugen Weber, The Hollow Years: France in the 1930s (New York: Norton, 1996).

44sự hợp tác kinh tế Âu châu: Xem Alan Milward, The European Rescue of the Nation-State (Berkeley: University of California Press, 1992); Harold James, Europe Reborn: A History, 1914–2000 (Harlow: Pearson, 2003).

45Điều đó tạo ra một ý tưởng về sự di động không phụ thuộc vào sự bành trướng đế quốc: Charles Maier, “The Politics of Productivity: Foundations of American International Economic Policy After World War II,” International Organization 31, no. 4 (1977): 607–33.

46Sự di động xã hội mới: Xem Tony Judt, Postwar (New York: Penguin, 2005), đặc biệt các chương 7 và 8. Cái Andrew Moravcsik gọi là “lựa chọn cho châu Âu” phải được xem đối lại sự không thể chọn đế chế; The Choice for Europe (Ithaca, N.Y.: Cornell University Press, 1998). Cái Kieran Klaus Patel gọi là “Dự án châu Âu” phải được xem cùng với dự án đế quốc thất bại; Project Europe: A History (Cambridge: Cambridge University Press, 2020). Tác phẩm Patrick Weil, How to Be French, trans. Catherine Porter (Durham, N.C.: Duke University Press, 2008) là hữu ích ở đây.

47phần lớn trong số họ bị đuổi từ: Cho một tóm tắt về những cuộc trục xuất, xem Bloodlands.

48Những người Đức bị trục xuất đến: Về chính trị Tây Đức, xem Pertti Ahonen, After the Expulsions (Oxford: Oxford University Press, 2003). Tại Ba Lan cộng sản, đã có sự di động vật lý và xã hội đột ngột, nhưng nó đã không tiếp tục, nó cũng đã chẳng được neo vào các định chế chính trị có thể so sánh được. Xem Krystyna Kersten, “Forced Migration and the Transformation of Polish Society in the Postwar Period,” trong Philip Ther and Ana Siljak, eds., Redrawing Nations: Ethnic Cleansing in East-Central Europe, 1944–1948 (Lanham, Md.: Rowman & Littlefield, 2001), 75–86. Xem cả Philipp Ther, Deutsche und polnische Vertriebene (Göttingen: Vandenhoeck & Ruprecht, 1998).

49Những người Âu châu đã kìm nén (và quên) quá khứ thực dân của chính họ: Xem Mark Mazower, “An International Civilization? Europe, Internationalism, and the Crisis of the Mid-Twentieth Century,” International Affairs 82, no. 3 (2006): 553–66.

50moi tiền của họ: Vanessa Ogle, “The End of Empire and the Rise of Tax Havens,” New Statesman, December 18, 2020; Ogle, “Archipelago Capitalism: Tax Havens, Offshore Money, and the State, 1950s–1970s,” American Historical Review 122, no. 5 (2017): 1431–58.

51Suốt các năm 1970: Về điều này và những gì đến tiếp sau, xem Chrystia Free Land, Plutocrats (New York: Penguin, 2012), 13 và đây đó.

52Những đứa trẻ sẽ không bị kẹt trong đẳng cấp: Về tính bền của các thực hành này, xem Orel Beilinson, “Tomorrow Belongs to Me: Coming of Age in the Other Europe, 1813–1914,” luận văn tiến sĩ, Yale University, 2023.

53các chính sách Mỹ về sự di động xã hội bị đảo ngược: John O’Connor, “U.S. Social Welfare Policy: The Reagan Record and Legacy,” Journal of Social Policy 1, no. 1 (1998): 37–61.

54Sự bỏ bê luật chống-trust: Xem David Schultz, “Justice Brandeis’ Dilemma Revisited: The Privileged Position of Corporate Power in American Democracy,” University of St. Thomas Law Journal, no. 1, article 6 (February 2023).

55đặt gánh nặng lên tất cả những người khác: Thomas Piketty, Emmanuel Saez, and Gabriel Zucman, “Distributional National Accounts: Methods and Estimates for the United States,” Quarterly Journal of Economics 133, no. 2 (May 2018): 553–609.

56người Canada sống trung bình lâu hơn: Những con só này sẽ thay đổi từ năm này qua năm khác. Xem dữ liệu cuối năm 2021 được so sánh trong Shameek Rakshit et al., “How Does U.S. Life Expectancy Compare to Other Countries?,” KFF Health Tracker, October 10, 2023.

57sang các thiên đường thuế hậu-thuộc địa: Cho những ước lượng về quy mô, xem Deborah Hardoon, Sophia Ayele, and Ricardo Fuentes-Nieva, An Economy for the 1%, Oxfam, January 18, 2016; James Henry trong “Interview: World’s Super-Rich Hide $21 Trillion Offshore,” Radio Free Europe/Radio Liberty, July 28, 2012.

58hàng triệu người Mỹ: Văn liệu tăng lên về nguồn gốc và hình thức của hệ thống nhà tù Mỹ gồm Regina Kunzel, Criminal Intimacy: Prison and the Uneven History of Modern American Sexuality (Chicago: University of Chicago Press, 2008); Caleb Smith, The Prison in the American Imagination (New Haven: Yale University Press, 2011).

59những người da Đen một cách không cân xứng: Vào năm 2010, có 450 trong số 100.000 người Mỹ da trắng bị tù, so với 2.306 trong số 100.000 người Mỹ da Đen. Xem Leah Sakala, “Breaking Down Mass Incarceration in the 2010 Census,” Prison Policy Initiative, May 28, 2014; hoặc “U.S. Incarceration Rates by Race and Ethnicity, 2010” (đồ thị), tại: https://www.prisonpolicy.org/​graphs/​raceinc.html. Rồ xem Thomas P. Bonczar, “Prevalence of Imprisonment in the U.S. Population, 1974–2001,” U.S. Department of Justice, Bureau of Justice Statistics, Special Report no. NCJ197976, August 2003.

60được biết đến như gerrymandering nhà tù: Jason P. Kelly, “The Strategic Use of Prisons in Partisan Gerrymandering,” Legislative Studies Quarterly 3, no. 1 (2012): 117–34; Michael Skocpol, “The Emerging Constitutional Law of Prison Gerrymandering.” Stanford Law Review 69, no. 5 (2017): 1473–539.

61tiểu bang Ohio: Taylor Schneider, “Unveiling the Distorted Democracy: The Troubling Reality of Prison Gerrymandering,” ACLU Ohio, September 18, 2023.

62“zone nhỏ”…“zone lớn”: Cách trình bày này có thể được thấy khắp văn liệu hồi ức Gulag, kể cả Myroslav Marynovych, The Universe Behind Barbed Wire: Memoirs of a Ukrainian Soviet Dissident, trans. Zoya Hayuk (Rochester, N.Y.: Rochester University Press, 2021). Xem cả Nanci Adler, “Life in the ‘Big Zone’: The Fate of Returnees in the Aftermath of Stalinist Repression,” Europe-Asia Studies 51, no. 1 (1999): 5–19.

63có được một học vị: Tất cả trừ một người trong những sinh viên được trao học vị tại lễ tốt nghiệp đầu tiên của nhà tù vào ngày 9 tháng Sáu 2023, đã học lớp của tôi. Video từ Fox 61 ở đây: https://www.youtube.com/​watch?v=cw-OoV0aZ1g; sưu tập đưa tin tức ở đây: https://www.yaleprisoneducationinitiative.org/​single-post/​celebrating-our-first-graduates.

64đã hoạt động chống lại nhà nước phúc lợi: Xem Robert C. Lieberman, Shifting the Color Line: Race and the American Welfare State (Cambridge, Mass.: Harvard University Press, 1998); Jill Quadagno, The Color of Welfare: How Racism Undermined the War on Poverty (New York: Oxford University Press, 1994).

65các chính trị gia da trắng đã thiết kế: Về lịch sử chủng tộc và New Deal, xem Ira Katznelson, Fear Itself: The New Deal and the Origins of Our Time (New York: Liveright, 2013), và Katznelson, When Affirmative Action Was White: An Untold History of Racial Inequality in Twentieth-Century America (New York: Norton, 2005).

66mutated into new forms: Keeanga-Yamahtta Taylor, Race for Profit: How Banks and the Real Estate Industry Undermined Black Homeownership (Chapel Hill: University of North Carolina Press, 2019); Kevin F. Gotham, “Racialization and the State: The Housing Act of 1934 and the Creation of the Federal Housing Administration,” Sociological Perspectives 32, no. 2 (2000): 291–317.

67Đạo luật Wagner đã loại trừ: Xem Eileen Boris and Jennifer Klein, Caring for America: Home Health Workers in the Shadow of the Welfare State (Oxford: Oxford University Press, 2012); và Jennifer Klein, For All These Rights: Business, Labor, and the Shaping of America’s Public-Private Welfare State (Princeton: Princeton University Press, 2003).

68Các công đoàn đã trở thành: Andrew W. Martin and Marc Dixon, “Changing to Win? Threat, Resistance, and the Role of Unions in Strikes, 1984–2002,” American Journal of Sociology 116, no. 1 (2010): 93–129.

69Trong một bản giao hưởng buồn: Xem Mark Peffley, Jon Hurwitz, and Paul M. Sniderman, “Racial Stereotypes and Whites’ Political Views of Blacks in the Context of Welfare and Crime,” American Journal of Political Science 41, no. 1 (1997): 30–60.

70Ý tưởng Mỹ rằng chúng ta phải chọn: Hãy xem xét nghiên cứu được tóm tắt bởi Paul Butler: “Nếu những người da trắng biết rằng một chính sách có một tác động bất lợi lên những người da đen, sự biết ấy thực sự làm tăng sự ủng hộ của họ cho chính sách đó (If white people are informed that a policy has an adverse impact on blacks, it actually increases their support for it).” Chokehold: Policing Black Men (New York: New Press, 2017), 71.

71Hình ảnh về sự lười biếng: Một văn bản cốt yếu ở đây là Frederick L. Hoffman, The Race Traits and Tendencies of the American Negro (New York: Macmillan, 1896).

72Bị một cảm giác danh dự sắc tộc quyến rũ: Khalil Gibran Muhammad mở rộng câu chuyện này ra khắp đất nước, nhấn mạnh rằng những hình mẫu tôi (Khalil Gibran Muhammad) mô tả trong các năm 1980 có một truyền thống lâu hơn. The Condemnation of Blackness: Race, Crime, and the Making of Modern Urban America (Cambridge, Mass.: Harvard University Press, 2019), chương 2, đặc biệt các trang 41, 47, 51, 76, 85. Xem cả Matthew Ward, “The Legacy of Slavery and Contemporary Racial Disparities in Arrest Rates,” Sociology of Race and Ethnicity 8, no. 4 (2022): 534–52.

73ai đó khác, người da Đen nào đó: Xem những sự phán xử về và các số liệu thống kê được một cựu công tố viên cung cấp trong Butler, Chokehold, 63 và đây đó.

74Trong năm 1968 Richard Nixon: Elizabeth Hinton, From the War on Poverty to the War on Crime (Cambridge, Mass.: Harvard University Press, 2016).

75một khuôn mẫu mà những đứa trẻ gia trắng: Kinh nghiệm thế hệ này đứng đằng sau How Propaganda Works (Princeton: Princeton University Press, 2015) của Jason Stanley.

76Cứ như, vào khoảng 1980”: Richard Rorty, Achieving Our Country: Leftist Thought in Twentieth-Century America (Cambridge, Mass.: Harvard University Press, 1998), 86.

77Được bảo rằng hệ thống hoạt động cho những người khác: Hai cuốn sách của Jacob Hacker và Paul Pierson đề cấp đến những vấn đề lao động: xem Let Them Eat Tweets (New York: Norton, 2020) và Winner-Take-All Politics (New York: Simon & Schuster, 2010).

78sự tự tử và sự nghiện ngập: Anne Case and Angus Deaton, “Rising Morbidity and Mortality in Midlife Among White Non-Hispanic Americans in the 21st Century,” Proceedings of the National Academy of Sciences 112, no. 49 (November 2, 2015); Debbie Weingarten, “Why Are America’s Farmers Killing Themselves in Record Numbers?,” Guardian, December 6, 2017; Sam Quinones, Dreamland: The True Tale of America’s Opiate Epidemic (London: Bloomsbury Press, 2016); Nora A. Volkow and A. Thomas McLellan, “Opioid Abuse in Chronic Pain: Misconceptions and Mitigation Strategies,” New England Journal of Medicine 374 (March 31, 2016).

79không đơn giản là bi kịch cá nhân: J. H. Wasfy, Charles Stewart III, and Vijeta Bhambhani, “County Community Health Associations of Net Voting Shift in the 2016 U.S. Presidential Election,” PLOS One 12, no. 10 (2017); Shannon M. Monnat, “Deaths of Despair and Support for Trump in the 2016 Presidential Election,” Pennsylvania State University, Research Brief, December 4, 2016; John Lynch et al., “Is Inequality a Determinant of Population Health?,” Milbank Quarterly 82, no. 1 (2004): 62, 81.

80bình luận viên giỏi nhất của đài truyền hình ESPN: bình luận trên sóng về chủng tộc của Kirk Herbstreit, sau vụ giết hại George Floyd: “Cộng đồng da Đen đau đớn. Nếu bạn đã lắng nghe, bạn đã nghe những từ ‘thấu cảm’ và ‘lòng trắc ẩn’ trong vài tháng qua. Bạn nghe những câu chuyện này thế nào và không cảm thấy đau và không muốn giúp? Bạn biết ý tôi muốn nói gì chứ? Nó giống …việc mặc một áo hoodie [có mũ trùm đầu] và đặt tay bạn [trên bánh lái xe vào vị trí] 10-2 [như vị trí 10 giờ và 2 giờ trên mặt đồng hồ, một vị trí sai và nguy hiểm]…Ôi Trời ơi, tôi nên cẩn thận hơn. Tôi đang mang đồ Nike, giống gì? Chúng ta đang nói về những gì? Bạn không thể liên quan đến điều đó nếu bạn là người da trắng, nhưng bạn có thể lắng nghe và bạn có thể cố gắng giúp đỡ bởi vì việc này không okay. Đơn giản không tốt. Chúng ta phải làm tốt hơn, anh bạn. Chúng ta phải tay trong tay cùng nhau.” Tôi đã tự hào và bị ấn tượng. Và tôi cũng nghĩ: Chúng ta bắt đầu khóc công khai và việc đó làm cho chúng ta thành những người tốt, nhưng không đơn giản như vậy cho các đồng nghiệp da Đen của chúng ta.

81Bất kể anh ta mặc đồ gì hay ứng xử thế nào: Như Susanna Siegel lập luận, cách chúng ta hiểu bị ảnh hưởng bởi những sự hợp lý hóa trước (prior rationalizations). The Rationality of Perception (Oxford: Oxford University Press, 2017), 22 và đây đó.

82cách Fanon mô tả: “Hành động đầu tiên của người đàn ông da đen là một phản ứng.” Fanon, White Skin, Black Masks, 19.

83đã giết những người Do thái ở Odesa: Jean Ancel, The History of the Holocaust in Romania, trans. Yaffah Murciano (Lincoln: University of Nebraska Press, 2011).

84đã giết những người Do thái ở Kherson và Dnipro: Xem Dieter Pohl, “Schauplatz Ukraine: Der Massenmord an den Juden im Militärverwaltungsgebiet und im Reichskommissariat 1941–1943,” trong Norbert Frei, Sybille Steinbacher, and Bernd C. Wagner, eds., Ausbeutung, Vernichtung, Öffentlichkeit (Munich: K.G. Saur, 2000), 135–79; Dieter Pohl, “Ukrainische Hilfskräfte beim Mord an den Juden,” trong Gerhard Paul, ed., Die Täter der Shoah (Göttingen: Wallstein Verlag, 2002); xem cả Andrej Angrick, Besatzungspolitik und Massenmord: Die Einsatzgruppe D in der südlichen Sowjetunion 1941–1943 (Hamburg: Hamburger Edition, 2003).

85tình trạng khó khăn kỳ quặc của bố ông: Chi tiết này và những chi tiết khác là từ Georgi Arbatov, The System: An Insider’s Life in Soviet Politics (New York: Crown, 1992).