Danh ngôn

Trong mọi cộng đồng, chúng ta cần một nhóm thiên thần gây rối.

We need, in every community, a group of angelic troublemakers.

(Bayard Rustin – trích bài phát biểu tại New York City 1963)

Trong mọi trường hợp, chắc chắn rằng sự thiếu hiểu biết, đi kèm với quyền lực, là kẻ thù tàn bạo nhất có thể có của công lý.

It is certain, in any case, that ignorance, allied with power, is the most ferocious enemy justice can have.

(James Baldwin - No Name in the Street 1972)

Các cuộc cách mạng và các cá nhân có thể bị giết hại, nhưng bạn không thể giết chết các ý tưởng.

While revolutionaries and individuals can be murdered, you cannot kill ideas.

(Thomas Sankara, một tuần trước khi bị ám sát, 1987)

Không có cảm giác nào cô đơn hơn việc bị chính đất nước mình trục xuất.

There's not a more lonely feeling than to be banished by my own country.

(Kiyo Sato – Kiyo’s Story 2009)

Ban Biên tập

Địa chỉ liên lạc:

1. Thơ

tho.vanviet.vd@gmail.com

2. Văn

vanviet.van14@gmail.com

3. Nghiên cứu Phê Bình

vanviet.ncpb@gmail.com

4. Vấn đề hôm nay

vanviet.vdhn1@gmail.com

5. Thư bạn đọc

vanviet.tbd14@gmail.com

6. Tư liệu

vanviet.tulieu@gmail.com

7. Văn học Miền Nam 54-75

vanhocmiennam5475@gmail.com

Tra cứu theo tên tác giả

Chủ Nhật, 23 tháng 3, 2025

Về tự do (kỳ 7)

Tác giả: Timothy Snyder

Việt dịch: Nguyễn Quang A

Nhà xuất bản Dân Khí, 2025

Sự Cô lập Thực nghiệm

Trong một tập hợp của các thí nghiệm, một động vật cô độc được đặt trước một đòn bẩy, mà có thể hay có thể không (phụ thuộc vào thí nghiệm) thả một viên thức ăn. Mục đích là để xác định liệu con vật có thông minh hay không, theo nghĩa có khả năng hiểu mối liên kết giữa việc đẩy đòn bẩy và việc nhận được thức ăn. Mặc dù ban đầu đã không được đánh giá cao, sự cô lập con vật là cốt yếu cho các kết quả của thí nghiệm. 118Thí nghiệm này tiếp tục mỗi khi bạn đặt bản thân mình trước một màn hình được kết nối với một microprocessor được nối mạng. Bạn cũng bị kiểm tra, trên cơ sở của những gì học được từ các con vật.

119Hack não đầu tiên là sự cô lập thí nghiệm, để bạn một mình, tách khỏi sự tiếp xúc thân thể với đồng loại của bạn. Nó tạo ra 120một sự cô đơn nhân tạo cho phép bốn loại hack não nữa, bốn loại thao túng nữa.

Trong các thí nghiệm, con chuột hay chim bồ câu bị cách ly tác động lên một đầu của dụng cụ (đòn bẩy) nhưng không thấy đầu kia của nó, cũng chẳng thấy các hành động và các ý định của những người làm thí nghiệm. Tương tự chúng ta dán mắt mình vào màn hình của một máy tính hay một điện thoại. Chúng ta không biết về những gì nằm ở phía bên kia: các thuật toán rối rắm, sự trống rỗng của ý định. Với Những đầu ngón tay trên một bàn phím, chúng ta rơi vào một cái bẫy. Chúng ta nói về “máy tính của tôi” hay “điện thoại của tôi,” nhưng các đồ vật này không phải của chúng ta, cũng như phòng thí nghiệm không phải là của con chuột—trừ khi chúng ta hiểu chúng tác động lên chúng ta thế nào.

Những con vật có thể chạm vào một đòn bẩy để nhận được thức ăn? Chúng có thể. Trong một biến thể của những thí nghiệm này, việc đẩy đòn bẩy có thể hay có thể không mang lại một viên thức ăn. Việc này đã dẫn đến một phát hiện mà đã phục vụ việc quảng cáo và đàn áp kể từ đó.

Đối mặt với một dụng cụ đôi khi nhưng không luôn phản ứng với hành động bằng việc giải phóng một nguồn vui thích, con vật trong thí nghiệm sẽ đẩy đòn bẩy hết lần này đến lần khác, quên mọi thứ khác. Trong tình huống nhân tạo này, thế giới bên ngoài là hoàn toàn không thể dự đoán được, và con vật đáng thương đau khổ và có thể dự đoán được. Sự củng cố lúc có lúc không (intermittent reinforcement) là sự hack não thứ hai. Nó phụ thuộc vào sự cách lý thí nghiệm—nếu con vật có đồng bạn, dụng cụ ít hấp dẫn hơn.

Chúng ta liều mạng đánh giá thấp sự khác biệt giữa bản thân chúng ta và các động vật khác. Việc đồng cảm với các tình thế khó khăn của chúng đôi khi có thể giúp chúng ta hiểu tình thế khó khăn của chính chúng ta. Rốt cuộc, cái hộp, mà chúng ta đặt những con chuột hay bồ câu vào, là chiếc khuôn cho các chương trình máy tính dường như thống trị cuộc sống của chúng ta. Chúng được thiết kế để cách ly và sau đó cung cấp sự củng cố lúc có lúc không.

Mặc dù nó rõ ràng làm cho những con vật đó bất lực, sự củng cố lúc có lúc không bị gộp chung với “tính duy lý” như một cách bình thường để đối xử với mọi người. Sẽ là “hợp lý” đối với những người kiểm soát các hệ thống 121để củng cố những người khác một cách gián đoạn theo cách này, để khiến họ đánh bạc tại các máy đánh bạc hay để mua các thứ. Từ việc đánh bạc và việc quảng cáo, sự cách ly và sự củng cố lúc có lúc không lan sang media xã hội, nơi mô hình lợi nhuận là giữ chúng ta online để xem các quảng cáo. Media xã hội cho bạn liều thuốc mà bạn thích—và rồi, đôi khi, cho bạn 122những thứ mà bạn sợ. Hệ thuyết (paradigm) mà trong đó các thí nghiệm này được mở mang, được biết đến như chủ nghĩa hành vi, 123thờ ơ với các động cơ và mục đích, nói chi với các giá trị và các đức hạnh. Những người khai thác những phát hiện của nó có khuynh hướng trình bày những câu hỏi vì sao như các dấu hiệu của tính phi lý.

Một số động vật có thể khôn hơn chúng ta. Khi những con bạch tuộc phải chịu các thí nghiệm hành vi chủ nghĩa, chúng phản ứng với ít sự quan tâm hơn những con chuột và bồ câu quan tâm. 124Những con bạch tuộc dường như hiểu rằng chúng ở trong một môi trường nhân tạo và muốn đưa ra phán quyết về tình trạng khó khăn của chúng. Trong một trường hợp, một con bạch tuộc đã cố phá vỡ chiếc máy, rồi nhô lên khỏi bể để phun nước vào những người làm thí nghiệm. Từ hành vi này, các nhà khoa học kết luận rằng các con bạch tuộc không duy lý—một kết luận gợi ý các giới hạn trí tuệ của riêng chúng. Những hành vi như vậy có lẽ chứng minh rằng những con bạch tuộc là hợp lý, theo nghĩa về việc đánh giá tình hình tổng thể và phản ứng lại. Chúng ta nên giống thế hơn.

Chủ nghĩa hành vi có thể được dùng cho chính trị, chẳng hạn, như trong “sự bình thường hóa” cộng sản mà Havel mô tả. Chủ nghĩa cộng sản muộn đã dựa vào giả thuyết rằng mọi người là những con thú không có các giá trị, dễ bị thao túng để làm việc cho ít người. Logic của nó là đơn giản: đôi khi cho mọi người những gì họ muốn; quăng vào sự sợ hãi nào đó; đừng bao giờ hỏi nó có nghĩa gì, và đảm bảo chắc chắn rằng không ai khác sẽ hỏi cả. Giấc mơ toàn trị tỏ ra trống rỗng, giá trị duy nhất của chủ nghĩa cộng sản bị bỏ rơi, những người cộng sản chuyển sang các giá trị zero và sự củng cố lúc có lúc không. Các nhà tiên tri silicon của chúng ta đã đi theo cùng vòng cung từ sự cuồng loạn đến chủ nghĩa hư vô. Không có sự đổi mới nào về các ý tưởng để rao bán, 125chỉ các quả cầu pyrite (khoáng vật chứa sắt và lưu huỳnh dễ bị lầm là vàng vì màu của chúng) quen thuộc lăn xuống dốc vào sự vỡ mộng ảm đạm.

Havel đã thấy ở Tiệp Khắc được bình thường hóa của các năm 1970 một 126“lời cảnh báo cho phương Tây, tiết lộ cho nó các xu hướng tiềm ẩn của nó.” Ông nghĩ rằng chủ nghĩa cộng sản muộn đặt ra vấn đề hiện đại điển hình về “không-tự do” trong đó chúng ta tham gia bằng việc phản ứng một cách có thể dự đoán được với một hình mẫu của những kích thích. Sự cách ly thí nghiệm và sự củng cố lúc có lúc không đưa chúng ta đến các trạng thái có khả năng xảy ra nhất của chúng ta.

Sự Hỗn loạn Lạnh lẽo

Khi chúng ta suy nghĩ với các giá trị, chúng ta đang rút ra từ quá khứ, nhưng chúng ta không bị mắc kẹt trong nó. Chúng ta đang xem xét hiện tại, nhưng chúng ta không thần thánh hóa nó. Chúng ta được định hướng tới tương lai, và chúng ta đang thành công.

Chúng ta thích nghĩ mình như các sinh vật hợp lý, biết lẽ phải, và đôi khi chúng ta biết. Tính hợp lý của chúng ta là không thể dự đoán được, bởi vì nó nảy sinh trong những sự kết hợp độc nhất của các sự thực mà chúng ta thấy nổi bật và các giá trị mà chúng ta xác nhận. 127Tính vô lý tập thể (collective unreasonability) của chúng ta là có thể dự đoán được, bởi vì (không giống các giá trị và các sự thực) những cơn bốc đồng và những lời nói dối có thể được cơ khí hóa. Tính vô lý tập thể của chúng ta có các hình mẫu chung, mà các máy tính phát hiện ra và khuếch đại. Không phải là chúng khôn hơn (outthink) chúng ta; chúng không [thèm] nghĩ đến (unthink-không đếm xỉa đến) chúng ta.

128Một hình thức của tính vô lý này là thành kiến xác nhận. Điều này có nghĩa rằng chúng ta coi thông tin như bằng chứng khi nó dường như xác nhận những gì chúng ta tin rồi. Trong những thời khắc tốt hơn của chúng ta, chúng ta biết về xu hướng này và cố gắng để sửa nó: bằng việc tạo ra các định chế chính trị đối chất chúng ta với ý kiến của những người khác; bằng việc theo các quy ước xã hội tạo ra những sự trao đổi quan điểm; bằng việc buộc bản thân chúng ta phải nghe ai đó nói; bằng việc có bạn bè từ những bối cảnh khác nhau; hay bằng việc đọc một cuốn sách gây ngạc nhiên.

Thành kiến xác nhận là một mối nối dễ dàng cho một cú hack não. 129Chương trình đơn giản đi theo nơi chúng ta click, và nó hích nhẹ chúng ta tiến theo. Nó lặp lại cùng thứ cũ, gắn một nội dung xúc cảm hơn một chút. Nó giữ con mắt của chúng ta trên màn hình, trong khi làm cho chúng ta thiển cận và chắc chắn về bản thân mình. Mọi thứ chúng ta cảm thấy hóa ra là đúng và quan trọng. Việc này trở nên tồi tệ hơn khi các công cụ tìm kiếm hợp nhất với các text-generator (bộ tạo văn bản) “AI”. 130“Cái chúng ta cần là sự im lặng ấm áp”, Simone Weil viết, “cái chúng ta nhận được là sự hỗn loạn lạnh lẽo.” Dòng thao túng lạnh lẽo ăn mòn chúng ta thành những tranh biếm họa về bản thân chúng ta.

Thành kiến xác nhận, sự hack não thứ ba, hoạt động với sự hack não thứ tư, sự tuân thủ xã hội (social conformity). Trong đời thực, chúng ta có khuynh hướng chấp nhận những gì mọi người xung quanh chúng ta nói; trên internet, các thuật toán ôm chặt chúng ta trong một môi trường nơi chúng ta có vẻ ở với những người cùng ý kiến. Tất nhiên, 131một số trong những người có vẻ hiển nhiên đó lại là các (ro)bot, và những người khác là các bí danh giả. (Trong cuộc bầu cử tổng thống 2020, 132nhóm Facebook lớn nhất cho các Kitô hữu Mỹ được vận hành bởi những người không-Mỹ, không-Kitô hữu.) Ngay cả giả như không có không-người và không người-giả nào, thì một silo (một vựa chứa ngũ cốc) không phải là một sự đồng thuận (gữa các hạt ngũ cốc)—nói chi đến sự thật về thế giới. Nữ thần báo ứng media xã hội của chúng ta chỉ gom những người (nhấn) click lại vào các tổ kén tuân thủ.

Đối với chúng ta, kinh nghiệm về bị hack não là có tính xúc cảm và chính trị, 133ngay cả khi các xúc cảm của chúng ta trống rỗng và chính trị của chúng ta hẹp hòi. Các ý kiến của chúng ta, trút lên chúng ta, 134hẳn phải là đúng. Cảm xúc của chúng ta, được củng cố lặp đi lặp lại, trở nên ám ảnh. Chúng ta dần trở nên chắc chắn như đinh đóng cột về những vấn đề mà chúng ta chẳng biết tí gì. Chúng ta bắt đầu tin rằng những người nghĩ khác là những kẻ độc ác. Nếu chúng ta nghe những người khác nói lên suy nghĩ của họ, chúng ta nghi ngờ ngay lập tức. Chúng ta được giới thiệu với các hình ảnh của kẻ thù trên internet, nhưng hiếm khi tiếp xúc với 135thân thể của những người khác trong đời thực.

Các định kiến của chúng ta, được xác nhận khi nữ thần báo ứng media xã hội tiêm cho chúng ta những liều sợ hãi, 135bắt đầu cứng lại. Chúng ta kiểm soát chúng 136cho đến khi chúng ta cảm thấy bị tấn công: media xã hội thường xuyên cung cấp một loạt hành vi xúc phạm và vi phạm, ngay cả khi chẳng có gì thực sự xảy ra cả. Chúng ta chắc chắn rằng chúng ta là các nạn nhân: ngay bây giờ, trong tương lai, trong quá khứ, luôn luôn. Bộ lạc của tôi đã chẳng bao giờ làm gì sai cả. Chúng nó là những kẻ kỳ thị chủng tộc thật. Không phải phía chúng tôi đã chặn sự bỏ phiếu. Hẳn phải là phía bên kia 137đã đánh cắp cuộc bầu cử.

Những nỗi sợ của chúng ta được nuôi dưỡng để phù hợp với những gì những người khác trong nhóm của chúng ta sợ. Nếu bạn là một người đàn ông da trắng trung niên và bạn sợ chính xác cái những người đàn ông da trắng trung niên khác sợ, bạn đã bị lừa. Khi các nỗi sợ của bạn là có thể dự đoán được, thì bạn cũng thế, mà có nghĩa rằng bạn (nhân khẩu học số của bạn [những người trong nhóm số của bạn]) là chín muồi cho sự thao túng. Khi bạn là có thể dự đoán được, một cách có thể dự đoán được bạn lôi đất nước bạn xuống.

Bị dắt mũi không có Người dắt

Tuân thủ, bạn dễ dàng bị dắt mũi. Sau khi đã rút lui khỏi vùng ranh giới gồ ghề của sự không thể dự đoán được vào vũng ấm cúng của nhân khẩu học số của bạn, bạn chờ đợi lệnh, hay các cú hích nhẹ. 139Bạn đã để lộ các nút bấm của mình, và bạn chờ đợi chúng được gõ và được bấm. Bất cứ ai (hay bất cứ thứ gì) mơn trớn những nỗi lo âu trần trụi của bạn sẽ cũng khơi dậy các nỗi lo đó của đám đông những kẻ hèn nhát mà bạn đã gia nhập. Càng nhiều người sợ cùng thứ, thì sự chuyên chế càng trở nên dễ dàng hơn. Không-tự do thật hiệu quả.

Nữ thần báo ứng media xã hội của chúng ta đang suy nghĩ 140mà không trở thành một người suy nghĩ. Nó lập thuyết âm mưu 141mà không trở thành một nhà lý thuyết âm mưu. Chắc chắn, có một trí thông minh con người (ít nhất cho đến nay) bịa ra các lời dối trá mà máy khuếch đại: những người Nga ở St. Petersburg, chẳng hạn, 142cho rằng Hillary Clinton bắt cóc trẻ con. Song sự khuếch đại là sự khuếch đại số.

Khi của cải được phân bố ngày càng không đều, những sự tưởng tượng và những sự đồng bóng của các nhà tài phiệt (oligarch) có được chỗ quan trọng nhất trên màn hình của chúng ta. 143Putin nói Ukraine không tồn tại, và Elon Musk quảng cáo rùm beng lời dối trá; các công ty hydrocarbon cho rằng sự nóng lên toàn cầu không phải là một vấn đề, và Elon Musk quảng cáo rùm beng lời dối trá; 144Trump nói rằng ông ta thắng cuộc bầu cử 2020, và Elon Musk quảng cáo rùm beng lời dối trá. Rồi những lời dối trá này lớn dần bên trong chúng ta nhờ những sự dễ bị tổn thương tinh thần mà máy móc tìm thấy và khai thác.

Khi não của chúng ta bị hack, chúng ta có thể bị dắt mũi mà không có một người dắt. 145Khi chúng ta bộc lộ những sự dễ bị tổn thương của mình, chúng ta trở nên dễ bị tổn thương hơn. 146Khi chúng ta bắt đầu cảm thấy cô đơn và bất lực hơn, chúng ta có khả năng hơn để tin vào các ý thức hệ giải thích mọi thứ, các thuyết âm mưu làm cho thế giới có ý nghĩa, các sự dối trá lớn trấn an chúng ta về vị trí của mình trong đó.

Dữ liệu là về chúng ta, được tạo ra cho các nhà quảng cáo, được bán cho các chính trị gia hay các nhà tài phiệt muốn hỗ trợ họ. Các ứng viên có thể thắng các cuộc bầu cử bằng việc có kiến thức vượt trội 147về các niềm tin và nỗi sợ của các công dân, hay bằng việc khiến những người khác tích hợp dữ liệu cho họ. Các chính trị gia kiểm tra các cụm từ online trước khi thốt ra chúng trong đời thực. Những người dẫn chương trình radio có được sự nổi tiếng bằng việc đi theo cái nhận được sự chú ý trên media xã hội vào ban ngày và sau đó nhắc lại nó vào buổi tối.

Một chính trị gia giành được chức vụ với sự giúp đỡ của các thuật toán không có khả năng dẫn chúng ta vào một tương lai con người. Một người như vậy là một nhân vật trong một câu chuyện số, không phải tác giả của nó, một cái loa của một chính trị “chúng tao và chúng nó,” góp phần làm giảm tính sáng tạo cho các cú hack não. Bây giờ là ít sốc hơn chỉ vài năm trước, khi một ứng viên tổng thống 148gọi người ta là “sâu bọ,” hứa bỏ tù các đối thủ chính trị, dự định tháo rời chính phủ, và ca ngợi các trại tập trung. Đối với các thuật toán để lấy được sự chú ý của chúng ta, chúng cần vật liệu quyết liệt hơn bao giờ hết.

Những người Mỹ có bất đồng về nhiều thứ, nhưng vì sao rất nhiều người trong chúng ta có vẻ 149sẵn sàng cho bạo lực? Vì sao người ta đã 150tấn công đột chiếm điện Capitol trong tháng Giêng 2021 trên cơ sở của những sự lừa dối từ các màn hình? Những lời dối trá do vài cá nhân bịa ra được các thuật toán định hướng tới những sự dễ bị tổn thương hàng loạt. Vì sao chúng ta, một cách dễ dự đoán đến vậy, lại tự đặt cho mình một kịch bản khác trong đó một ứng viên tổng thống thua phiếu và sau đó đòi chức vụ? Chúng ta đang bị dắt mũi không có người dắt vào một tai họa.

Những chiếc Lồng Tự-Xây

Một người tự chủ tuyên bố và thích nghi. Các giá trị được tuyên bố và được hòa giải với nhau. Những người khác được công nhận vì họ làm điều tương tự. Chúng ta trở nên không thể dự đoán được—tự do—cùng nhau.

Việc tuyên bố và thích nghi là các năng lực cơ bản của một người tự chủ. Được thực hiện cùng với những người tự chủ khác, những sự tuyên bố và thích nghi tạo ra một vương quốc không lường trước được, một xứ tự do. Biết những người khác, chúng ta biết thế giới và bản thân mình tốt hơn. Các giá trị của chúng ta, ý thức của chúng ta về cái đúng và cái sai, được kiểm tra cùng với kiến thức hàng ngày này. Đây là điều tốt nhất về chúng ta và cho phép chúng ta trở nên tự do.

Năng lực của chúng ta cho tự do, tuy vậy, có một thiếu sót trầm trọng. Các năng lực cho sự tuyên bố và thích nghi, mà có nghĩa là để chào mừng và phán xét các giá trị và những con người, cũng có thể bị kéo theo một hướng khác. Nữ thần báo ứng của chúng ta chiếm được các năng lực này và khiến chúng chống lại chúng ta, đẩy chúng ta ra xa nhau và tới các trạng thái có khả năng xảy ra nhất của chúng ta. Online, chúng ta tuyên bố bản thân mình, và media xã hội chiết xuất dữ liệu. Chúng ta tiếp nhận các thuật toán, và media xã hội chiết xuất nhiều hơn. Nữ thần báo ứng số của chúng ta nắm giữ các năng lực của chúng ta, kéo chúng ta vào bãi được rào [để nhốt súc vật] của nó, và đánh bại chúng ta vĩnh viễn. Nó hành động, và chúng ta phản ứng lại, và chúng ta coi việc này là bình thường. Nó đánh bại ý chí của chúng ta mà không có một ý chí riêng của nó. Chúng ta bị dự đoán.

Đầu tiên, máy giải ngũ. Nó chiếm mất thời gian chúng ta cần để chú trọng đến thân thể của những người khác. Nó làm hao mòn sinh lực và trí tưởng tượng. Nó có khuynh hướng cung cấp cho chúng ta các lý do để không hành động: không tập luyện, 151không làm tình, không kết bạn, không giúp láng giềng của chúng ta, không bỏ phiếu, không biểu tình. Nhưng tại điểm nào đó, khi các thuật toán 152định vị những hình ảnh tưởng tượng (fantasies: huyễn tưởng, hoang tưởng) chính trị của chúng ta, chúng ta thấy mình hành động trên cơ sở của không-thực tế (unreality).

Hoang tưởng này, một cách có thể dự đoán được, sẽ liên quan đến một mối đe dọa từ những người khác. Một thế giới đáng sợ của “chúng tao và chúng nó” 153ngăn cản các năng lực của chúng ta để thấy sự đa dạng và để bày tỏ sự thấu cảm. 154Nỗi sợ của chúng ta ở đó để đương đầu với các mối đe dọa vật lý, cấy chúng ta vững chắc (và một cách có thể dự đoán được) vào ba chiều đầu tiên. Không có thời gian cho sự đánh giá, không có chiều thứ tư hay thứ năm nào. Chúng ta cảm thấy mình phải hành động ngay lập tức và rằng sự lựa chọn là nhị phân. Chúng ta có thể chạy trốn, hay chúng ta nên chiến đấu? Chúng ta cảm thấy mình phải hành động ngay bây giờ.

Hoang tưởng nảy sinh từ sự nói dối (untruth). Một lời nói dối thuộc về ai đó khác, và việc tin nó đặt bạn vào cảnh nô lệ của ai đó khác. Bạn là có thể đoán đoán được đối với người phạt bắt bạn chép lại nhiều dòng chữ. Như nhà tiểu thuyết Ấn độ Arundhati Roy diễn đạt, sự nguy hiểm không phải là các chatbot thay thế chúng ta mà là 155chúng ta trở thành các chatbot. Nhà tư tưởng Nga Mikhail Bakhtin nói rằng 156“kẻ bị lừa gạt bị biến thành một đồ vật.” Trong thời đại số, điều này có thể có nghĩa là trở thành các đồ vật phục vụ các đồ vật khác. Chúng ta không thể mong đợi nữ thần báo ứng của chúng ta, người thổi sáo thần (the pied piper) của các đồ vật, để cảm thấy hối hận về việc này.

Nữ thần báo ứng của chúng ta di chuyển chúng ta qua sự hư cấu để làm cái gì đó trong thế giới thực, như bỏ phiếu cho một ứng viên lợi dụng những nỗi sợ hãi của chúng ta trên Twitter, hay xâm chiếm thánh địa của nền dân chủ vì một sự nói dối lớn chúng ta đọc trên Facebook. Rồi một làn ranh giới bị vượt qua. Sau khi bị các thuật toán chiêu mộ cho hành động trong thế giới thực, chúng ta hợp lý hóa, sử dụng sự khéo léo đang teo lại của mình để 157trao cho kẻ tuyển mộ chúng ta một alibi (chứng cớ ngoại phạm). Trí óc của chúng ta trở thành các công cụ tìm kiếm thấp kém, để tìm những lý do bào chữa cho các công cụ tìm kiếm cao cấp.

158Đây là sự bất hòa nhận thức (cognitive dissonance), sự hack não thứ năm và cuối cùng, cú đòn ân huệ (coup de grâce-đòn chí tử) của máy. Chúng ta dùng cái còn lại của lý trí con người của mình để bảo vệ các hành động dựa vào một lý trí xa lạ. Chúng ta rút lui khỏi vùng ranh giới của sự không thể dự đoán được và từ bỏ vương quốc tự do: không chỉ cho bản thân chúng ta mà cho những người khác đành phải chịu đựng những lời huênh hoang rỗng tuếch được lập trình trước, bạo lực vô nghĩa, và sự duy lý hóa buồn chán của chúng ta.

Nhà triết học Lev Shestov viết về 159“các automat sống, mà bàn tay bí ẩn nào đó đã lên dây cót.” Nữ thần báo ứng của chúng ta lên dây cót chúng ta, như các đồ chơi. Chúng ta bất động về thể xác trong khi các xúc cảm của chúng ta căng thẳng, rồi xả dây cót thành hành động vì các lý do không phải là của chính mình. Chúng ta trở nên không-tự do trong những vấn đề đơn giản nhất, không làm những gì chúng ta lẽ ra phải làm nếu giả như chúng ta suy nghĩ cho bản thân mình.

Tự do cần những con người suy nghĩ, tự chủ và không thể dự đoán được. Không-tự do cần các sinh vật phục tùng và có thể dự đoán được, run lên vì sợ trong những chiếc lồng tự xây, mơ về những kẻ thù chúng chẳng bao giờ gặp, và mơ về bạn bè và người yêu chúng không có.

Khi chúng ta thấy các cú hack não hoạt động thế nào, chúng ta có thể thoát khỏi sự dự đoán. Việc đó sẽ gồm việc thay đổi internet, nhưng nó cũng sẽ đòi hỏi làm những thứ khác với thân thể của chúng ta hơn là nhìn chăm chăm vào màn hình. Nó là sự di chuyển của chúng ta.

Truyền thống Cấp tiến

Bạn tôi Adam Michnik, nhà bất đồng chính kiến Ba lan một thời, là một vị khách tại Yale trong mùa xuân 2016. Khi tôi hỏi ông làm ăn thế nào, ông trả lời rằng học bổng của ông tại trường luật “gần tốt như nhà tù.”

Lời nói đùa có một điểm lý thú: đó là lần đầu tiên kể từ khi ông được thả khỏi nhà tù mà ông có thời gian để ngồi xuống và đọc những cuốn sách. Công trình hay nhất của ông nảy sinh trong một thời kỳ giam hãm dài. Suy ngẫm muộn hơn về những gì ông nói, tôi nhận ra rằng, theo một cách nhỏ hơn nhiều, tôi cũng có sự tập trung nào đó nhờ nhà tù.

Trong lớp nhà tù của tôi trong năm 2022, các sinh viên được phân tài liệu đọc cẩn thận, và tôi cũng làm cùng thế. Tôi đã không được phép có bất cứ đồ điện tử nào trong phòng học nhà tù, và tất nhiên họ cũng chẳng có. Đã chỉ là chúng tôi và các tác giả, mà không có bất kỳ sự gây sao lãng nào. Khi có một thời gian nghỉ giữa các buổi học sáng và chiều, tôi ngồi với bản thảo này và biên tập nó bằng tay.

Theo tiêu chuẩn của những người ở bên ngoài, các sinh viên của tôi là khá cấp tiến. Theo các tiêu chuẩn về những gì bản thân họ chọn để đọc, chương trình học của họ là khá bảo thủ. Điểm quan trọng của việc dạy triết học trong nhà tù không phải rằng các nhà tư tưởng đúng về mọi thứ, hay rằng các sinh viên luôn đúng trong những phê phán của họ. Các truyền thống là một ràng buộc làm phong phú thêm. Nhằm để dựa vào các truyền thống, để sửa chúng, chúng ta phải biết chúng, và việc đó cần thời gian. Tâm trạng hiện thời của chúng ta về loại bỏ quá khứ, thường vì lý do được tự cho là đúng nào đó, liên quan đến sự bất lực được bày ra nào đó của chúng ta để tập trung và để khoan dung. Chúng ta bị nữ thần báo ứng media xã hội của chúng ta huấn luyện để gia nhập bầy (đàn) và lựa chọn bầy. Nếu chúng ta từ chối đọc, tuy vậy, chúng ta không đánh đổi quá khứ lấy tương lai. Không có quá khứ, không thể có tương lai nào. Chúng ta đang đánh đổi quá khứ lấy sự tĩnh tại vặt, tầm thường.

Các nhà tư tưởng quá khứ có những lời cảnh báo cho chúng ta, kể cả một lời cảnh báo chính xác về điều đó. Chúng ta sống giữa các công cụ làm cho chúng ta dễ dự đoán, chúng dự đoán chúng ta. Trong hàng ngàn năm văn học, từ 160các bài thơ Hy lạp cổ xưa đến tận khoa học viễn tưởng đương đại, các nhà văn đã lo rằng chúng ta có thể tạo ra những máy như vậy. Khi điều này đang xảy ra bây giờ, chúng ta đang quên các truyền thống có ý định bảo vệ chúng ta.

161George Orwell thấy từ vựng như sự cho phép những gì mà chúng ta gọi là sự tự chủ và sự không thể dự đoán được. Sự có nhiều đức hạnh là có thật, nhưng 162trong tiểu thuyết 1984 của ông, người ta thiếu các từ để đặt tên cho chúng. Mọi người không-tự do không đơn giản bởi vì 163thân thể họ luôn luôn bị quan sát mà bởi vì 164ngôn ngữ của họ bị để cho chết đói. Trong tiểu thuyết 1984, việc giảm số các từ tiếng Anh là một việc nặng nề, công việc cực nhọc được những người có chức vụ thực hiện. Trong đời chúng ta, media xã hội làm giảm từ vựng của chúng ta (và như thế sự tham khảo của chúng ta) với tốc độ kinh hãi. Nằm trên ghế dài của mình, chúng ta chấp nhận một hình thức đơn giản hóa của tiếng Anh.

Trong tiểu thuyết Fahrenheit 451 của Ray Bradbury, 165các lính cứu hỏa đốt sách trong khi mọi người được kỳ vọng để dành thời gian rỗi rãi trước một màn hình. Vai chính của nó, một lính cứu hỏa, có khả năng tránh xa những gì anh làm khi anh đọc sách và lấy lại được các từ. Câu chuyện kết thúc với sự trốn của anh đến một nhóm người đi lang thang bảo tồn văn học bằng việc học thuộc lòng toàn bộ những cuốn sách. Đội nhỏ của những người làm việc này, là những người ăn nói lưu loát, khiêm tốn, và tự phát. Họ đã quyết định gắn bó với nhau. Đây là cách những cuốn sách vĩ đại nhất ra đời và tồn tại lâu.

Một sách như vậy là Iliad, câu chuyện về một cuộc tấn công Hy lạp chống lại thành phố Troy, được các nhóm thi sĩ và diễn viên bảo tồn hàng trăm năm trước khi nó được ghi lại trong văn bản. Cho chương này, một từ tôi cần là nữ thần báo ứng: các hành động ích kỷ của chính chúng bây giờ tạo ra cho chúng ta một kẻ thù mà muộn hơn có thể thắng chúng ta, theo cách chúng ta xứng đáng một cách ám muội, và mà chúng ta có thể thắng 166chỉ bằng việc biết chính chúng ta. 167Quan niệm đó về nữ thần báo ứng đến (ít nhất cho tôi) từ sử thi Iliad, và từ những vở kịch Hy lạp diễn ra sau sự phá hủy Troy. Sử thi dài được biên soạn trong khoảng năm 500 trước công nguyên. Bản thảo Hy lạp của nó sau đó được bảo tồn bằng sự sao chép bằng tay trong khoảng hai ngàn năm. Vài bản sao từ Constantinople đã đến Italy vài năm trước khi Byzantium sụp đổ trong 1453. 168Sau khi Iliad cuối cùng được công bố, các nhân vật (của nó) như Achilles, Hector, và Odysseus đầy trong những tấm thảm, bức tranh, và thi ca.

Trong sử thi Odyssey, một câu chuyện theo sau Iliad, Odysseus láu cá đối mặt với một loạt thử thách khi ông tìm cách về quê hương sau chiến thắng ở Troy. Một trong những thử thách này là Hòn Đảo của những Người Ăn Hoa Sen, nơi sự kích thích dễ chịu bất tận dập tắt cá tính. Odysseus bị giữ trên một hòn đảo khác bởi Calypso, người cho ông mọi thứ trừ tự do để đi nơi nào ông muốn. Thách thức thích đáng nhất là thách thức của các siren (mỹ nhân ngư, các nữ thần có những điệu hát vô cùng quyến rũ). Bài hát của họ không thể cưỡng lại được bởi vì họ điều chỉnh nó cho phù hợp với mỗi người nghe—giống các thuật toán media xã hội ngày nay. Bất kể ai quy phục lời mời gọi (của các siren) sẽ chết, như những bộ xương trên bờ đảo của họ chứng thực. Chúng ta bị thu hút bởi những gì dường như là về chúng ta, ngay cả tới các thực thể mà chúng ta biết là chúng ta không thể tin cậy.

Odysseus đã muốn hiểu các siren, nhưng ông cũng muốn sống và đi tiếp. Ông biết thân thể ông dễ bị tổn thương thế nào, nhưng cũng biết những gì nó có thể làm. Ông lập một kế hoạch với những người của ông. Ông đã khiến các thủy thủ của ông bịt tai của họ bằng sáp và trói thân thể ông vào cột buồm. Ông đã nghe các siren, ông cảm thấy các giới hạn của mình, ông đã học được, và ông vẫn sống.

Đó là nơi chúng ta đang ở. Giống Odysseus và thuyền của ông, chúng ta có công nghệ mà chúng ta cần để sống và di chuyển. Chúng ta cũng đã tạo ra một bài hát siren số mà sẽ nói cho mỗi chúng ta những gì chúng ta muốn nghe, cho đến khi chúng ta không còn nữa, (chỉ còn) những bộ xương bị quên trên một bờ đảo vô danh. Tuy nhiên, cùng nhau chúng ta có thể hiểu nữ thần báo ứng của chúng ta và bản thân chúng ta, và đi tiếp.

Ông đã mất hai mươi năm, thời gian chúng ta cần để trở nên tự chủ và không thể dự đoán được. Nhưng Odysseus đã về đến nhà.

Chú thích:

118Thí nghiệm này tiếp tục mỗi khi: Gail B. Peterson, “A Day of Great Illumination: B. F. Skinner’s Discovery of Shaping,” Journal of the Experimental Analysis of Behavior 82, no. 3 (2004): 317–28.

119Hack não đầu tiên là sự cô lập thí nghiệm: Cho một dẫn nhập ngắn, xem Tristan Harris, “How Technology Is Hijacking Your Mind,” Medium, May 18, 2016.

120một sự cô đơn nhân tạo: “Nếu chúng ta cô đơn quá lâu,” Maupassant nói, “chúng ta làm cho thế giới đầy ma.”

121để củng cố những người khác mọt cách gián đoạn: Xem Alexandra Rutherford, Beyond the Box: B. F. Skinner’s Technology of Behaviour from Laboratory to Life, 1950s–1970s (Toronto: University of Toronto Press, 2009).

122những thứ mà bạn sợ: Lanier, Ten Arguments, 18.

123thờ ơ với các động lực: Ở đây và ở tren tôi học từ Guenther, Solitary Confinement, 111–20.

124Những con bạch tuộc dường như hiểu: Tôi biết điều này từ cuốn sách làm say mê Other Minds: The Octopus, the Sea, and the Deep Origins of Consciousness (New York: HarperCollins, 2014) của Peter Godfrey-Smith. Xem cả Ashley Ward, The Social Lives of Animals (New York: Basic Books, 2022); Roger T. Hanlon and John B. Messenger, Cephalopod Behaviour (Cambridge: Cambridge University Press, 2018).

125chỉ những quả cầu pyrite: Nhân vật kết nối ở đây là Ayn Rvà, mà đã là một nhà Bolshevik à rebours (trái khoáy).

 126“lời cảnh báo cho phương Tây”: Havel, “Power of the Powerless,” 35–36.

127Tính vô lý tập thể: Herman Melville diễn đạt thật lý thú trong câu chuyện của ông “Bartleby the Scrivener”: “Sự xích mích liên tục của những đầu óc phi-tự do rốt cuộc làm kiệt sức quyết tâm tốt nhất của những người hào phóng hơn.”

128Một hình thức của tính vô lý này là thành kiến xác nhận: Về loại hack não này và những loại hack não kế tiếp, xem Lee McIntyre, Post-Truth (Cambridge, Mass.: MIT Press, 2018), 42ff.

129Chương trình đơn giản đi theo nơi chúng ta click và hích nhẹ chúng ta tiến theo: Xem Roman Bornstein, “Ingérence numérique, mode d’emploi,” Le Débat, no. 208 (2020–21): 42–55.

 130Cái chúng ta cần là sự im lặng ấm áp”: Simone Weil, La personne et le sacré (Paris: Payot & Rivages, 2017), 45. Cuốn sách này được soạn trong 1942–43.

131một số trong những người có vẻ hiển nhiên đó lại là các (ro)bot: Về hiện tượng này trong các cuộc vận động chính trị, xem Onur Varol et al., “Online Human-Bot Interactions: Detection,” Proceedings of the Eleventh International AAAI Conference on Web and Social Media, March 27, 2017; Alessandro Bessit and Emilio Ferrara, “Social Bots Distort the 2016 U.S. Presidential Election Online Discussion,” First Monday 21, no. 11 (November 7, 2016); Marco T. Bastos and Dan Mercea, “The Brexit Botnet and User-Generated Hyperpartisan News,” Social Science Computer Review 37, no. 1 (2017); Selina Wang, “Twitter Is Crawling with Bots,” Bloomberg, October 13, 2017; Severin Carrell, “Russian Cyber-Activists ‘Tried to Discredit Scottish Independence Vote,’ ” Guardian, December 13, 2017; Carole Cadwalladr, “The Great British Brexit Robbery: How Our Democracy Was Hijacked,” Guardian, May 7, 2017.

132nhóm Facebook lớn nhất: Francis Agustin, “Troll Farms Peddling Misinformation,” Business Insider, September 19, 2021.

133ngay cả khi các xúc cảm của chúng ta trống rỗng: Tranh luận về “Máy có thể nghĩ?” đã thay đổi hướng với bài Alan Turing, “Computational Machinery and Intelligence,” Mind 236 (1950): 433–66, câu hỏi tại trang 433. Xem Roger Penrose, The Emperor’s New Mind (New York, Oxford University Press, 1989), 6–7 và đây đó. Trong tiểu luận của tôi “And We Dream as Electric Sheep (Và Chúng ta Mơ như những con Cừu Điện tử),” tôi cho rằng Turing test phải được xem xét lại dưới ánh sáng của sự hiện diện của Leib.

134hẳn phải là đúng: Eubanks, Automating Inequality, 172. Tôi biết được từ mathwashed (bị toán học tẩy não-dùng toán, thuật toán,… để làm cho có vẻ khách quan) từ Eubanks.

135thân thể của những người khác: Các động vật là hầu như quan trọng như những con người trong Philip K. Dick, Do Androids Dream of Electric Sheep? (1966; tái bản London: Penguin, 2007). Mặc dù tôi không trình bày chủ đề ở đây, điều này có ý nghĩa. Những con người cũng có thể thấu cảm đối với các sinh vật không-người (mặc dù chúng ta có thể không cần). Chúng ta có thể ăn nhiều thịt như chúng ta ăn chỉ bởi vì chúng ta xa cách về mặt cơ thể với những động vật mà chúng ta tiêu thụ cơ thể của chúng. Xem cả Agamben, The Open.

136bắt đầu cứng lại: Chúng khuếch đại hiệu ứng Dunning-Kruger.

137cho đến khi chúng ta cảm thấy bị tấn công: Carol Tavris and Elliot Aronson, Mistakes Were Made (But Not by Me) (London: Pinter & Martin, 2015), 83.

138đã đánh cắp cuộc bầu cử: Về chính trị số trong 2016, xem Yuriy Gorodnichenko, Tho Pham, and Oleksandr Talavera, “Social Media, Sentiment and Public Opinions: Evidence from #Brexit and #USElection,” National Bureau of Economic Research, Working Paper no. 2463 (2018).

139Bạn đã để lộ các nút bấm của mình: Điều này gồm cả chủ nghĩa kỳ thị chủng tộc của chúng ta. Xem Sofiya Umoja Noble, Algorithms of Oppression (New York: NYU Press, 2017), 36, 115, 124, và đây đó.

140mà không trở thành một người suy nghĩ: tôi có quan niệm “thinking without a thinker (sự suy nghĩ mà không có một người suy nghĩ)” từ Burckhardt, Philosophie der Maschine, 17 và đây đó.

141mà không trở thành một nhà lý thuyết âm mưu: Lanier, Ten Arguments, 108–9.

142cho rằng Hillary Clinton bắt cóc trẻ con: Tôi kể câu chuyện trong Road to Unfreedom. Xem cả Marc Fisher, John Woodrow Cox, and Peter Hermann “Pizzagate: From Rumor, to Hashtag, to Gunfire in D.C.,” Washington Post, December 6, 2016; Mary Papenfuss, “Russian Trolls Linked Clinton to ‘Satanic Ritual,’ ” HuffPost, December 1, 2017. Giám đốc của Internet Research Agency, Yevgeny Progozhin, muộn hơn là một diễn viên chính trong một cuộc chiến tranh mà, quả thực, đã dính líu đến việc bắt cóc trẻ con.

143Putin nói Ukraine không tồn tại: Putin đưa ra những tuyên bố này trong hơn một thập niên và tiếp tục tuyên bố. Gây ấn tượng mạnh đối với tôi là Vladimir Putin, “Rossiia: natsional’nyi vopros,” Nezavisimaia Gazeta, January 23, 2012. Xem cả Vladimir Putin, “Novyy integratsionnyy proyekt dlya Yevrazii,” Izvestiia, October 3, 2011.

144Trump nói rằng ông ta thắng: Jim Rutenberg and Kate Conger, “Elon Musk Is Spreading Election Misinformation, but X’s Fact Checkers Are Long Gone,” NYT, January 25, 2024.

145Khi chúng ta bộc lộ những sự dễ bị tổn thương của mình: Về các ví dụ kinh nghiệm từ 2016, xem Massimo Calabresi, “Hacking Democracy,” Time, May 29, 2017; Nicholas Confessore and Daisuke Wakabayashi, “How Russia Harvested American Rage,” NYT, October 9, 2017; David Pierson, “Russia Tried and Failed to Harvest Social Discord in America. Then It Discovered Social Media,” Los Angeles Times, February 22, 2018; Rebecca Shabad, “Russian Facebook Ad Showed Black Woman,” CBS, October 3, 2017.

146Khi chúng ta bắt đầu cảm thấy cô đơn và bất lực hơn: Lý lẽ về sự cô đơn quay lại đến Hannah Arendt và (tôi nghĩ) đến Hegel, người định nghĩa tự do như “ở nhà” (bei sich selbst zu sein). Xem Arendt, Origins of Totalitarianism, 352 và đây đó. Sự cô đơn khiến chúng ta ít tự do hơn theo những cách khác: xem Vivek Murthy, “Our Epidemic of Loneliness and Isolation,” U.S. Surgeon General’s Advisory, 2023.

147 về những niềm tin và nỗi sợ của các công dân: Chẳng hạn, trong 2016, có thể các cử tri của Trump bị phơi ra với các thông điệp ủng hộ-Clinton trên các site Muslim Mỹ giả. Tuyên truyền Nga ủng hộ-Trump liên kết những người tị nạn với sự hãm hiếp.

148gọi người ta là “sâu bọ” (“vermin”): Marianne LeVine, “Trump Calls Political Enemies ‘Vermin,’ Echoing Dictators Hitler, Mussolini,” Washington Post, November 13, 2023; Caleb Ecarma, “Detention Camps, ‘Vermin’ Rivals, and a Government Purge,” Vanity Fair, November 13, 2023.

149sẵn sàng cho bạo lực: Robert Pape, “Deep, Divisive, Disturbing and Continuing: New Survey Shows Mainstream Support for Violence to Restore Trump Remains Strong,” Chicago Project on Security and Threats, January 2, 2022.

150tấn công đột chiếm điện Capitol: Final Report of the Select Committee to Investigate the January 6th Attack on the United States Capitol, December 22, 2022.

151không làm tình: Xem Kate Julian, “Why Are Young People Having So Little Sex?,” Atlantic, December 2018. Trong cuốn Do Androids Dream of Electric Sheep của Philip K. Dick, Rachel bảo Decker vào một thời khắc dịu dàng: “Đừng dừng anh ơi, hãy dành cho triết học, bởi vì từ một quan điểm triết học nó (sự làm tình) thật buồn thảm.”

152định vị những hình ảnh tưởng tượng: Xem Alice Marwick and Rebecca Lewis, “Media Manipulation and Disinformation Online,” Data & Society Research Institute, 2017; Tamsin Shaw, “Invisible Manipulators of Your Mind,” New York Review of Books, April 20, 2017; Paul Lewis, “Our Minds Can Be Hijacked,” Guardian, October 6, 2017.

153ngăn cản các năng lực của chúng ta để thấy sự đa dạng: Trong cuốn The Left Hand of Darkness, Ursula K. Le Guin viết rằng “để phản đối cái gì đó là để duy trì nó.”

154Nỗi sợ của chúng ta ở đó: Máy không cần hiểu chủ nghĩa kỳ thị chủng tộc để phóng đại và khai thác nó. So sánh Jennifer Saul, “Dog Whistles, Political Manipulation, and Philosophy of Language,” trong Daniel Fogal, Daniel W. Harris, and Matt Moss, eds., New Work on Speech Acts (Oxford: Oxford University Press, 2018), 360–83.

155chúng ta trở thàng các chatbot: Arundhati Roy, bài giảng tại Swedish Academy, March 22, 2023.

 156“kẻ bị lừa gạt bị biến thành một đồ vật”: Mikhail Bakhtin, trong nhật ký 1943 của ông, được trích dẫn trong Leonidas Donskis, Modernity in Crisis: A Dialogue on the Culture of Belonging (New York: Palgrave Macmillan, 2015), 133.

157trao cho kẻ tuyển mộ chúng ta một alibi: Xem Lee McIntyre, Post-Truth (Cambridge, Mass.: MIT Press, 2018), 42.

158Đây là sự bất hòa nhận thức: Một dẫn nhập có thể tiếp cận được là Tavris and Aronson, Mistakes Were Made, 22 và đây đó.

 159“các automat sống, mà bàn tay bí ẩn nào đó đã lên dây cót”: Lev Shestov, All Things Are Possible (London: Martin Secker, 1920).

160các bài thơ Hy lạp cổ xưa: Về những suy ngẫm kinh điển, xem Burckhardt, Philosophie der Maschine, và Adrienne Mayor, Gods and Robots: Myths, Machines, and Ancient Dreams of Technology (Princeton: Princeton University Press, 2018).

161George Orwell thấy từ vựng: Peter Bieri cũng đã cảnh cáo về “các thói quen vô tâm của lời nói” trong Wie wollen wir leben (Salzburg: Rezidenz, 2011) của ông.

162trong tiểu thuyết 1984 của ông: George Orwell, 1984 (London: Secker & Warburg, 1949).

163thân thể họ luôn luôn bị quan sát: Michel Schneider có thể đã đúng, tuy vậy, rằng tình huống của chúng ta là tình huống của “Big Mother (Mẹ Cả)” hơn là “Big Brother (Anh Cả).” Schneider, Big Mother: Psychopathologie de la vie politique (Paris: Jacob, 2005).

164ngôn ngữ của họ bị để cho chết đói: Victor Klemperer, The Language of the Third Reich, trans. Martin Brady (London: Continuum, 2006), 10–17 và đây đó.

165các lính cứu hỏa đốt sách: Ray Bradbury, Fahrenheit 451 (New York: Ballantine, 1953).

166chỉ bằng việc biết chính chúng ta: So sánh Simone Weil, “L’Iliade ou le poème de la force,” mà bà công bố trong Les Cahiers du Sud dưới một bút danh nam trong 1940 và 1941. Văn bản này đã rất có ảnh hưởng trong thời gian chiến tranh đến những người không biết bà là tác giả, như Czesław Miłosz. Tôi phát hiện ra nó trong Bernard Knox and Simone Weil, L’Iliade: Poème du XXIe siècle (Paris: Arlea, 2006).

167Quan niệm đó về nữ thần báo ứng: Xem chương của Rachel Bespaloff về Hector trong cuốn De l’Iliade (Paris: Les Belles Lettres, 2022) của bà, được xuất bản ban đầu trong 1943. Tiểu luận này được New York Review of Books công bố bằng bản dịch tiếng cùng với tác phẩm của Weil trong 2005.

168Sau khi Iliad cuối cùng được công bố: Làn xuất bản tôi đọc là Chapman’s Homer: The Iliad, trans. George Chapman, ed. Allardyce Nicoll (1611; tái bản Princeton: Princeton University Press, 1998)

Sự di động

Lời của Wolf

Như một đứa trẻ nhỏ, tôi may mắn có một cô trông trẻ, Donna, mà đã kể cho tôi các thần thoại Hy lạp như những truyện kể trước khi ngủ. Muộn hơn tôi đã mượn những sách thần thoại từ thư viện công cộng. Tôi đọc những tóm tắt của Edith Hamilton dưới bàn của tôi trong trường tiểu học. Iliad và Odyssey tiếp sau, đầu tiên trong những tóm tắt hay những tóm tắt có minh họa từ thư viện công cộng, rồi trong dạng đầy đủ. Tôi đọc vài kịch Hy lạp bắt đầu khi Iliad kết thúc, như Iphigenia in Tauris của Euripides. Bố tôi nghĩ tôi nên ra ngoài nhiều hơn.

Và tôi may mắn lớn lên trong một gia đình đưa tôi trên những chuyến đi, dù tôi có muốn đi hay không. Cha mẹ tôi biết tiếng Tây Ban nha và thoải mái ở Mỹ Latin. Như một đứa trẻ mười bốn tuổi trên một chuyến đi đến Costa Rica, nhờ họ tôi cảm thấy tự do. Trong rừng mây của Monteverde, trong tháng Năm 1984, các em trai tôi và tôi đi bộ đường dài mỗi ngày, được một đứa trẻ địa phương, Ian, hướng dẫn. Chúng tôi đi hay chạy những quãng đường từ sáng đến tối, nước và thức ăn và dao trong ba lô, cảm thấy tự-túc và hạnh phúc. Chúng tôi thấy những con lười và khỉ và chim đuôi seo (quetzal) hay lảng tránh.

Một hôm Ian hứa với chúng tôi cái gì đó đặc biệt, một sự truy tìm bí ẩn. Chúng tôi đi đi tiếp và tiếp, nhưng cậu vẫn lầm lì. Sau ba giờ hay khoảng thế trên một đường bẩn, chúng tôi lang thang qua một mê cung của những con đường rừng mây mù (cloud forest), vài có thể trông thấy, vài trong số đó có vẻ chỉ tồn tại trong trí tưởng tượng của Ian, vài nơi tôi ước chi tôi mang một dao mã tấu. Rồi chúng tôi nghe tiếng ào ào, mọi thứ mở ra, và chúng tôi thấy thác nước. Có một hồ nước trong vắt, cả ở phía trước lẫn đằng sau, nơi có một cái hang. Chúng tôi đã có thể bơi vào hang và nhìn ra thế giới xanh qua hàng tấn nước rơi.

Tối đó, quá mỏi để tự mình nói, tôi ngồi chầu rìa một cuộc trò chuyện của những người đàn ông già. Tôi nghe một cụm từ quyến rũ tôi sau một ngày trên đường. Những người ở Monteverde mà gia đình tôi biết là những người Quaker tị nạn Chiến tranh Lạnh tìm được cách thiết lập một công xã chăn nuôi bò sữa trên một cao nguyên. Tiếng Anh họ nói đúng là tiếng từ vùng Trung tây, trong một số trường hợp đúng là giọng từ hạt quê hương của cha mẹ tôi ở Ohio. Chủ đề là bảo vệ môi trường sống.

Hai quý ông già hơn (Roy Joe và Wolf) nói về một con đường trong rừng mây, về liệu nó có sẵn cho công chúng sử dụng hay không. Cụm từ họ dùng là right of way (quyền ưu tiên đi): Con đường này có là một “right of way”? Bất cứ ai có quyền dùng nó? Họ phát âm cụm từ như “right away (ngay lập tức),” mà chỉ thêm sự hấp dẫn của nó.

Đó là cái tôi muốn, ở tuổi mười bốn. Tôi đã muốn một quyền ưu tiên đi, ngay lập tức. Tôi đã muốn để biết rằng có một con đường. Vì tôi đã không hiểu hoàn toàn lúc đó, ai đó khác đã phải mở đường. Tôi đã đi theo lối tôi có thể có được. Một trường trung học công chờ tôi ở Ohio, với vài giáo viên có thể đối phó với tôi, và 1một đội tranh luận với một huấn luyện viên kiên nhẫn. Các quốc lộ vùng quê, trống không vào ban đêm, đem lại cho tôi sự thanh thản nhanh chóng, như chúng đã mang lại cho bố tôi. Và khi thời gian đến, tôi đòi quyền ưu tiên đi của tôi, quyền của tôi để rời đi, Giấc mơ Mỹ nho nhỏ của tôi.

Tôi đã thăm Costa Rica thêm hai lần nữa, một lần trong đầu tuổi hai mươi và một lần trong cuối tuổi bốn mươi của tôi. Trong những cuộc viếng thăm muộn hơn đó, tôi tiếp tục đánh giá cao vẻ đẹp và có suy nghĩ nào đó về chính trị. Ở đây là một nước định rõ hơn hai phần ba lãnh thổ của nó như công viên hay nơi ẩn náu, tạo ra điện của nó từ các nguồn tái tạo, cung cấp chăm sóc sức khỏe cho các công dân của nó. Những người Costa Rica sống lâu hơn những người Mỹ. Hệ thống chính trị của họ có số điểm tự do cao hơn số điểm Mỹ rất nhiều (theo các số đo được tổ chức Mỹ Freedom House quản lý).

Những người Costa Rica làm tốt hơn những người Mỹ rất nhiều trên các thang hạnh phúc. Và mặc dù không thể định lượng được, mọi người ở đó dường như cảm thấy tự do hơn.

Vòng Cung cuộc Đời

Khi tôi đi bộ đường dài ở Costa Rica như một thiếu niên, chính những con đường qua các rừng mây đã làm tôi tự do. Chúng tồn tại, tất nhiên, chỉ bởi vì sự làm việc của những người khác, và chúng mở ra cho tôi nhờ một hướng dẫn viên và những người lớn khuyến khích. Nếu một đường mòn được mở, thì ai đó khác đã mở nó; nếu bạn mở một đường mòn, nó là cho ai đó khác. Vẫn đúng rằng việc di chuyển thân thể của tôi giúp tôi được tự do, đến mức 2cho phép tôi viết. Tuy nhiên, việc tôi có thể làm vậy là kết quả của công sức của những người khác.

Tất cả chúng ta đều cần một quyền ưu tiên đi. Sự di động là hình thức thứ ba của tự do: có khả năng di chuyển trong không gian và thời gian và giữa các giá trị, (vòng) cung của cuộc đời mà quỹ đạo của nó chúng ta chọn và thay đổi khi chúng ta đi. Đối với tất cả chúng ta, sự di động có nghĩa là sự tiếp cận đến thức ăn, nước, vệ sinh, chăm sóc sức khỏe, những công viên và lối đi, các đường bộ và đường sắt, để giúp chúng ta làm những gì chúng ta có thể với thân thể mình. Sự tiếp cận gồm cả sự an toàn: chúng ta không tự do để đi đến nơi không an toàn để đi, nhất là khi chúng ta chịu trách nhiệm vì trẻ em.

Đối với một số người trong chúng ta, sự di động có nghĩa là thời gian và sự can đảm để chăm sóc thân thể của chúng ta. Đối với những người khác, nó có nghĩa là sự hỗ trợ thực chất hơn cho khả năng của chúng ta để di chuyển. Chẳng ai trong chúng ta có khả năng di động mà không có sự trợ giúp. 3Những người cần sự trợ giúp nhiều hơn nhắc nhở chúng ta về điều kiện chung. Tất cả chúng ta đều cần sự giúp đỡ nào đó; ngoài nhận thức chung này ra, tất cả là vấn đề mức độ.

Mặc dù Leib riêng lẻ có khả năng di động, sự di động cho tất cả mọi người có thể đạt được chỉ cùng nhau. Sự di động cho các cá nhân đòi hỏi sự chú ý chính trị tập thể đến logic của cuộc sống: rủi ro bị thương và bệnh tật, sự tiến triển từ tuổi thơ đến tuổi già. Sự di động là một hình thức của tự do bởi vì chúng ta tự do khi chúng ta xây dựng xã hội với sự cân nhắc này. Nó không phải là một trạng thái cuối cùng mà là một sự tích lũy các năng lực và những sự tưởng tượng trong suốt cả cuộc đời.

Một trong những người họ hàng của tôi bị mù và di chuyển hạn chế. Công nghệ quanh bà càng tốt, bà có khả năng bày tỏ mình càng tốt. Bạn tôi bị bệnh ALS (rối loạn thoái hóa thần kinh) đã tự do hơn, tôi thích nghĩ, khi chúng tôi cùng nhau làm cái gì đó. Sự hiện diện cơ thể có thể tạo ra một cảm giác tự do tinh thần. Nhưng khi tôi học để vận hành dụng cụ của anh, khiến tôi thực sự hiểu một sự thật đơn giản khác: anh đã tự do hơn khi anh có một xe lăn hoạt động (và lẽ ra anh còn tự do hơn nữa giả như nó được [hệ thống] chăm sóc sức khỏe Mỹ cung cấp). Những người lính ở Ukraine bị mất chân hay tay vì đạn pháo được hỗ trợ bởi chân tay giả và thời gian và sự chăm sóc. Sự phục hồi chức năng thuộc về tự do, và cũng thế sự chú ý đến sự lão hóa. Khi dân số trung bình già đi, 4lão khoa—sự điều trị phòng ngừa những sự đau đớn liên quan đến tuổi già—trở nên quan trọng cho tự do của chúng ta.

Sự chăm sóc là quan trọng, như sự tự tin trước rằng sẽ có sự chăm sóc. Chúng ta di động hơn khi chúng ta có thể tính đến những đòi hỏi con người cơ bản được thỏa mãn. Nếu chúng ta biết rằng chúng ta có sự tiếp cận đến chăm sóc sức khỏe và lương hưu, chúng ta sẽ sống cuộc sống thú vị hơn. Thiếu sự tự tin như vậy, chúng ta sẽ bị mắc kẹt ở nơi chúng ta đang ở. Hầu hết những người Mỹ kể lại việc nhận các hóa đơn y tế họ không thể trả nổi, mà có nghĩa là bị mắc kẹt trong bệnh tật. Đối với những người trung lưu, sự phụ thuộc vào chăm sóc sức khỏe tư nhân gây khó khăn cho việc thay đổi việc làm. Sự ràng buộc mạnh này lên sự di động—và như thế lên tự do—đáng buồn, được coi là nghiễm nhiên ở Hoa Kỳ.

Sự nghèo thúc ép người ta vào trạng thái có khả năng xảy ra nhất. Nó cản trở sự di động. Đây là một điểm các sinh viên của tôi trong nhà tù đưa ra lặp đi lặp lại. Sinh viên Marquis gọi sự nghèo “là cơ sở hàng ngày của không-tự do” và nói rằng đối với nhiều người anh biết, tự do sẽ bắt đầu với ba bữa ăn một ngày và một trường học tử tế.

Ba hình thức đầu tiên của tự do—sự tự chủ, sự không thể dự đoán được, và sự di động—nên có mặt suốt cuộc đời của chúng ta. Tuy nhiên, có một thứ tự phát triển. Trong thời thơ ấu, chúng ta đạt được sự tự chủ, với sự giúp đỡ của những người khác; thời trẻ, chúng ta duy trì sự không thể dự đoán được khi chúng ta nhận ra những sự kết hợp các giá trị của riêng chúng ta. Khi chúng ta trở thành những người lớn, chúng ta cần nơi nào đó để đi và khả năng để đến đó.

Sự di động là 5thách thức của sự trưởng thành. Tự do có nghĩa là để di chuyển trong cả năm chiều. Nó có nghĩa là có một thác nước để tìm hay một núi để leo, một ngày để làm việc đó, ngày khác để suy ngẫm về nó. Trong hình ảnh lãng mạn về tự do, chúng ta tự mình đến chốn điền viên đó. Trong thực tế, tất cả chúng ta đều có sự giúp đỡ.

Tôi yêu những nơi tôi xuất xứ, nhưng tôi vui rằng tôi có thể rời đi khi tôi rời đi. Tất cả chúng ta đều cần sự di động, nhưng những người trưởng thành trẻ cần nó một cách đặc biệt. Nếu mọi thứ diễn ra suôn sẻ như nó nên diễn ra, họ trở nên tự chủ và không thể dự đoán được, rồi thoát khỏi các cấu trúc (và những người) mà đã cho phép họ trở nên thế. Nhưng khi các cấu trúc đó của sự di động không có mặt, hay khi các cấu trúc được thiết kế để gây ra sự bất động và sự làm nhục, thì sự nổi loạn có một ý nghĩa khác.

Bạn Có thể Tưởng tượng?

6Irene Morgan đến tuổi thành niên ở Mỹ trong Chiến tranh Thế giới II. Trong năm 1944 cô là một bà mẹ làm việc. Cô đi lại đều đặn từ Maryland để làm việc cho một nhà thầu quốc phòng sản xuất máy bay ném bom Mỹ ở Virginia. Ở Maryland, cô có thể ngồi nơi cô thích trên xe bus, nhưng ở Virginia, cô bị luật yêu cầu di chuyển xuống phía sau. Một hôm, đặc biệt mệt mỏi sau một cuộc gặp bác sĩ, cô được yêu cầu nhường chỗ của cô ở phía sau xe bus chật ních cho một cặp da trắng. Rồi cô bị đưa ra khỏi xe bus bằng vũ lực và bị đánh. Nhưng vụ kiện của cô đi đến tận Tòa án Tối cao, và cô đã thắng. Trong 1946 sự tách riêng trong sự đi lại giữa các tiểu bang trở nên 7bất hợp pháp, trong lý thuyết. 8Chẳng mấy thay đổi trong thực tế.

Nó là sự làm nhục những người Mỹ gốc Phi bị tách riêng trong khi đi lại. Thay vì đơn giản di chuyển từ chỗ này sang chỗ khác, vì các mục đích của riêng họ, họ bị chọn ra. Cái lẽ ra nên là sự chuyển động không cần suy ngẫm biến thành một loạt cuộc gặp gỡ (và sự dè trước đầy lo lắng về chúng) mà có nghĩa là những sự nhắc nhở về sự thấp kém. Những người da Đen đã phải ngồi ở phía sau xe bus hay trong phần nhất định của một toa xe lửa nào đó. Tại mỗi ga, họ phải dùng một phòng vệ sinh khác và đặt thức ăn tại một quầy khác.

Irene Morgan đã giúp sản xuất máy bay. Trong Chiến tranh Thế giới II, vài người Mỹ gốc Phi được huấn luyện để lái chúng. Khi một phi công tương lai đi ngang Ranh giới Mason-Dixon (giữa các bang) trên đường của anh đến Alabama cho sự huấn luyện, anh phải rời một toa xe hỏa và lên một toa khác, ngay sau đầu tàu. Anh và những người đàn ông da Đen đó trên tàu nhận thấy rằng chỗ của họ đã bị các tù nhân chiến tranh Đức lấy mất. Kẻ thù được quan tâm nhiều hơn họ. Một số cựu binh Mỹ gốc Phi đã nhớ loại chuyện này.

Leon Bass, tình nguyện phục vụ trong quân đội, đã bị làm nhục khi anh được huấn luyện phục vụ ở các căn cứ quân sự ở miền Nam. Anh nhớ lại một quán ăn bên ngoài căn cứ nơi các tù nhân Đức có thể ăn nhưng họ thì không thể.

Bass đã chiến đấu trên mặt trận phía tây của Chiến trường Âu châu, kể cả Trận Bulge. Cuối cùng anh ở trong một nhóm lính Mỹ đến trại tập trung Đức ở Buchenwald. (Như một y tá đã chỉ ra lúc đó, 9sự giải phóng không phải là từ cho nó, vì các cựu tù nhân tiếp tục chết và những người sống sót cần nhiều hơn sự rời đi của những kẻ canh gác họ để được coi là tự do.) Nhớ lại Buchenwald, Bass nói, 10“Chủ nghĩa kỳ thị chủng tộc nằm tại gốc rễ của việc này. Dưới chiếc ô đó là niềm tin mù quáng và định kiến và sự phân biệt đối xử. Chúng ta vẫn chưa hiểu định chế được gọi là chủ nghĩa kỳ thị chủng tộc đó. Và chúng ta phải hiểu, bởi vì chúng ta thấy sự tột cùng của chủ nghĩa kỳ thị chủng tộc, mà tôi đã thấy ở Buchenwald.”

Hơn một triệu người Mỹ gốc Phi đã phục vụ trong các lực lượng vũ trang Mỹ bị tách biệt trong Chiến tranh Thế giới II. Các cựu chiến binh da Đen trở về nhà tìm thấy một chế độ Jim Crow (kỳ thị chủng tộc) không thay đổi, quy định thân thể họ có thể ở đâu. Leon Bass bị từ chối dịch vụ tại một quán ăn. “Bạn có thể tưởng tượng không?” anh nói. “Tôi bỏ ra ba năm trong cuộc đời mình trên chiến tuyến để làm cho những người như qúy cô trẻ đó và nhà quản lý đó hay ai sở hữu cửa hàng đó có thể hoạt động và hưởng thụ các quyền và các đặc ân của những người Mỹ, và họ nói với tôi, hệt như bọn Nazi đã nói, hệt như họ đã nói với tôi ở miền Nam, những gì họ đã nói với bố tôi, ‘Leon, cậu không đủ tốt.’ Thật là một điều đáng ghê tởm để nói với ai đó.”

Một số cựu chiến binh da Đen trở về nhà đã thách thức sự bất động theo phong tục. Wilson Hood đã ngồi nơi anh thích trên một xe từ Atlanta đến Washington, D.C., mặc dù trên đường anh bị đe dọa giết ở Chapel Hill, North Carolina. Khi 11Isaac Woodard thử quay từ một căn cứ quân sự ở Georgia về quê anh ở North Carolina, anh bị đánh nghiêm trọng và bị mù vĩnh viễn. Cả hai mắt anh bị móc ra bởi một người da trắng sử dụng một chiếc gậy tày.

Những cuộc Đi Tự do

Trong 1960 Tòa án Tối cao phán quyết rằng sự tách biệt chủng tộc ở các bến xe bus là vi hiến. Trong tháng Năm 1961 một nhóm của “Những người đi Tự do (Freedom Riders)” đã kiểm tra chuẩn mực mới tại các bến giữa Washington, D.C., và New Orleans. Cuộc đi Tự do (Freedom Ride) đầu tiên được Congress of Racial Equality (Đại hội Bình đẳng Chủng tộc) tổ chức. Một trong các nhà sáng lập của nó, Jim Peck, đã quan sát sự lên của nước Đức Nazi từ Paris. Một Freedom Rider khác, John Lewis, viết trong đơn của ông để gia nhập nhóm mang “tự do tới miền Cực Nam.” Các Freedom Rider ngồi trên các xe bus và sử dụng các phương tiện phớt lờ phong tục địa phương và luật tiểu bang. Tại South Carolina, Lewis và hai Rider khác bị tấn công. Tại Alabama, một xe bus bị đánh bom và bốc lửa, và các hành khách bị đánh khi họ trốn thoát.

Khi các Freedom Rider đến Montgomery, Alabama, họ ẩn náu trong First Baptist Church (Hội thánh [nhà Thờ] Baptist Đầu tiên), nơi họ được Martin Luther King, Jr. tiếp đón, nhà thờ bị một đám đông da trắng bao vây, và các Rider chỉ được những cảnh sát trưởng liên bang cứu. Khi họ đến Mississippi, nhiều người bị bắt. John Lewis ngồi 37 ngày trong một nhà tù Mississippi.

Tất cả các bên đều đưa ra những so sánh với nước Đức Nazi. Sau cuộc bao vây First Baptist Church ở Montgomery, mục sư Martin Luther King, Jr., nói rằng “Alabama đã chìm xuống một mức dã man bi thảm so sánh được với những ngày bi thảm của nước Đức của Hitler.” Bọn Nazi Mỹ đáp lại với các cuộc Freedom Ride bằng việc đi trong 12“xe bus hận thù” riêng của chúng. Chúng đề xuất việc tống các Freedom Rider vào “các phòng hơi ngạt.”

Từ nhà tù, chính nghĩa có thể dường như đã mất. Nhưng một số Freedom Rider đã quyết tâm đến đích đến của họ và đã thành công đến New Orleans. Jim Peck, bị bầm dập và đánh đập, đã nói chuyện với Charles Person tại Đại học Xavier. Và các nhóm Freedom Rider khác đã bắt đầu các chuyến đi của riêng họ. Hơn bốn trăm người từ cả miền Bắc và miền Nam đã tham gia các cuộc Freedom Ride trong 1961, khoảng 40 phần trăm số họ là người da Đen và khoảng 60 phần trăm da trắng. Mùa thu năm đó chính phủ liên bang ban lệnh tích hợp các bến xe bus.

Ba Chiều

Đối với Fanon, Stein và Weil, một điều bí ẩn trung tâm là nước Đức. Ngay cả đối với Havel và Kołakowski, mà đã trải nghiệm thời kỳ Nazi như những đứa trẻ, những khả năng con người mà chủ nghĩa phát xít bộc lộ đã chẳng bao giờ có thể được bỏ qua.

Một cách để hiểu hình thức đặc biệt của nó về không-tự do như sự làm bất động và sự huy động, hơn là sự di động. Bên trong nước Đức sau 1933, bọn Nazi đã làm bất động những người Do thái Đức bằng việc biến họ thành các công dân hạng-hai, rồi bằng việc để những người Đức khác chống lại họ. Như sử gia Peter Longerich cho thấy, 16để là một người Đức tốt là để tận dụng sự di động mà những người Do thái đã mất: chỗ của một đứa trẻ trong vườn trẻ, nghề của một bố mẹ, nhà của một gia đình. Những lợi lộc cá nhân và gia đình như vậy làm cho dễ hơn để huy động những người Đức như một Volk, một chủng tộc.

17Hitler đã gắn chặt những người Do thái với các chiều thứ tư và thứ năm. Ông miêu tả trí tưởng tượng chính trị như một năng lực Do thái hơn là một năng lực con người. Chỉ những khái niệm Do thái, ông xác nhận, mới đã kéo những người Đức ra xa khỏi vận mệnh chủng tộc của họ: cuộc đấu tranh không cần động não thường xuyên vì đất đai và thức ăn. Những người Do thái chịu trách nhiệm về mọi cấu trúc mà có thể khởi xướng các tương tác con người bất bạo động, kéo dài theo thời gian.

Hitler đã muốn những người Đức ở trong ba chiều của họ. Không dải nào của các tương lai khả dĩ (18không chiều thứ tư nào) đang chờ đợi cả, và không xã hội nào có thể tốt hơn sự chọn lọc tự nhiên (không chiều thứ năm nào). Bất kể đức hạnh nào cho phép mọi người thích nghi với nhau đều là đức hạnh Do thái, dù nó là chủ nghĩa hiến pháp trong một nhà nước, chủ nghĩa hợp đồng trong một thị trường, sự giác ngộ giai cấp dưới chủ nghĩa Marx, hay lòng nhân từ của các sách phúc âm Kitô giáo. Đối với Hitler, tất cả đều do những người Do thái cản trở những người Đức khỏi việc chộp lấy những gì họ có thể như một chủng tộc. Những người Do thái phải bị loại khỏi hành tinh 19để tự nhiên có thể được cứu rỗi. Đây là phiên bản ghê tởm của tự do phủ định: tự do được tưởng tượng như chủng tộc, và rào cản như những người Do thái.

Trái đất trong Mein Kampf đông dân và nghèo. Những người Đức phải được huy động để chiếm đất trước khi họ bị những người khác bỏ đói. Nếu hầu hết các dân tộc bị diệt vong dù sao đi nữa, logic tiếp tục, thì cũng có thể chúng ta sẽ sống sót và thịnh vượng. Tự nhiên muốn con người bỏ đói lẫn nhau, và việc làm vậy chỉ là tốt. Công nghệ không đưa ra hy vọng trốn thoát nào. Đối với Hitler, quan niệm rằng khoa học có thể cải thiện thân phận loài người 20là một “sự lừa đảo Do thái.” Nếu không có giải pháp khoa học nào cho những vấn đề con người, thì tất cả cái còn lại là vũ lực. Không còn thời gian nữa, những người Đức phải bù đắp bằng việc chiếm thêm đất đai: Lebensraum, không gian sống. Đây là một loại di động đế quốc: thế giới được đế chế bao phủ; những người Đức phải áp đặt đế chế của riêng họ.

Bị tước mất chiều thứ tư và thứ năm, ba chiều đầu tiên bị bỏ lại cằn cỗi và bi thảm. Khi Hitler nói về “không gian sống” cho những người Đức, ý ông muốn nói việc giết không gian cho những người khác. Với tư cách chủng tộc mạnh nhất, những người Đức phải chiếm đất màu mỡ của Ukraine, màu mỡ nhất ở châu Âu. 21Ý tưởng là để thống trị miền tây Liên Xô: “Sông Mississippi của chúng ta phải là Sông Volga, và không phải Sông Niger (ở châu Phi).”

Hitler đã nghĩ đến một thuộc địa biên cương do sự chinh phục, sự giết người, và chế độ nô lệ tạo ra. Nước Đức đã không khao khát chiếm lại các thuộc địa của nó bị mất ở châu Phi, Hitler nói, mà để thành lập một đế chế ở Ukraine, một đế chế nơi những người Ukrainia sẽ bị đối xử như những người Phi châu và các Thổ dân đã bị ở Hoa Kỳ.

Chấn thương Công cộng

Tự do có nghĩa là sự di chuyển, và sự di chuyển có nghĩa là sự bắt gặp. Nhưng sự bắt gặp nhau có nghĩa là gì?

Bước vào một xe công cộng và bị đánh giá bởi diện mạo của bạn là một kinh nghiệm phổ biến. Khi tôi chuyển sang châu Âu ở tuổi hai mươi hai, tôi đã học được cách để hòa nhập: hãy dẹp mũ của đội bóng chày Cincinnati Reds đi; hãy đi dày da; hãy ngồi và đứng thẳng; hãy bỏ tay ra khỏi túi quần; hãy để dành nụ cười cho những thời khắc quan trọng. Bố tôi luôn hỏi đường dù ông đi bất cứ đâu. Trong tuổi hai mươi của mình, tôi thấy rằng điều này cũng đúng với tôi: từ Cornwall ở Anh đến Minsk ở Beloruss, mọi người đều có vẻ nghĩ tôi biết đường.

Nhưng kinh nghiệm vui này phản ánh một lợi thế cơ bản nào đó. Tôi có màu da của tôi. Tôi không có vẻ lo lắng. Những du khách khác đã khó khăn hơn.

Tôi đi xe bus đến trường cấp hai với một bạn Hàn quốc sống cách câu lạc bộ bơi vài dãy nhà. Cậu ta chưa bao giờ là chính mình. Cậu là một đứa trẻ Á châu trên xe bus trường học, hệt như hai anh trai cậu đã là trước cậu. Họ đã tìm ra việc cần bỏ qua những nhận xét nào và phải kháng cự những nhận xét nào. Nếu kẻ bắt nạt ở trường chế diễu đôi mắt của họ, thì những quả đấm tung ra. Bạn tôi muộn hơn đã chơi như hậu vệ và đi học trường West Point.

Sự bất lực để di chuyển mà không bị đông cứng trong khuôn mẫu được Frantz Fanon lý thuyết hóa. Trong thế giới được Fanon mô tả, các nhà thực dân có thể di chuyển tự do ngang những không gian lớn, còn những người da màu có thể bị cưỡng bức và bị chấn thương. Ông quan tâm đến sức khỏe tâm thần của những người tìm cách vượt qua không bị để ý hay chỉ được để một mình.

Giống Leon Bass, Fanon đã chiến đấu chống lại những người Đức trong Chiến tranh Thế giới II. Trong năm 1943, như một thiếu niên từ Martinique thuộc địa Pháp, anh đã tình nguyện 13gia nhập hàng ngũ của những người Pháp Tự do. Giống Simone Weil, như thế anh đã là phần của Kháng chiến Pháp. Chiến đấu chống chủ nghĩa kỳ thị chủng tộc Đức trên chiến trường, anh đã thấy chủ nghĩa kỳ thị chủng tộc Pháp giữa các đồng đội vũ trang của anh. Sau khi anh bị thương trong chiến đấu, đơn vị anh được thach lọc khỏi những người không có nguồn gốc Âu châu, như bản thân anh.

Khi cuộc chiến tranh kết thúc, Fanon học ngành y ở nước Pháp. Trên các phương tiện giao thông công cộng trong các thành phố Pháp, Fanon đã không thể thoát khỏi những từ anh nghe thấy để mô tả nước da của anh. Anh không thể nào tránh được việc nhìn bản thân mình như những người khác nhìn anh: anh đã có 14“cảm giác luôn luôn nhìn bản thân mình qua con mắt của những người khác,” như nhà khoa học xã hội Mỹ W. E. B. Du Bois diễn đạt. Fanon thấy rằng bất cứ ai, ngay cả một đứa trẻ, có thể bẫy tâm trí của anh bằng việc chú ý đến bề ngoài của thân thể anh. 15“Tôi ra đời,” Fanon viết, “muốn hiểu nó, để ở nguồn gốc của nó; và đột nhiên được tiết lộ rằng tôi chẳng là gì hơn một đồ vật giữa các đồ vật khác.” Leib của anh trở thành một Körper.

Kinh nghiệm quá khứ, của riêng Fanon hay của những người được xem như nhóm của anh, làm cho là không thể cho anh để là trung lập trong hiện tại. Anh không thể di chuyển tự do từ chỗ này sang chỗ kia; anh bị gió quá khứ đày đọa. Sinh viên bị tù của tôi David đưa ra một điểm tương tự về tương lai. Trong một bài văn cho lớp học, anh cho rằng những lời nhắc nhở bên ngoài về tính da Đen là một loại đe dọa. Bởi vì một người Mỹ gốc Phi trẻ đoán trước bạo lực, mọi phản ứng với nước da của anh gợi ý sự đau đớn tương lai. Đối với David, “việc nghĩ mà không có mối đe dọa chấn thương” đến trước tự do.

Sự di động cảm thấy có tính cá nhân, nhưng có tính chính trị. Một thiếu niên mười bốn tuổi khao khát một quyền ưu tiên để đi (right of way) có thể hoặc có thể không có một quyền như thế, nhưng kết cục không chắc là kết quả từ những cố gắng cá nhân của riêng cậu ta. Kinh nghiệm của tôi như một sinh viên ở nước Pháp là khác với kinh nghiệm của Fanon. Kinh nghiệm của tôi về là một thiếu niên ở Mỹ là khác với kinh nghiệm của David.

Chú thích:

1một đội tranh luận với một huấn luyện viên kiên nhẫn: Đấy là thầy giáo Ralph Bender: https://www.youtube.com/​watch?v=gd_PEwwzSK0.

2cho phép tôi viết: Bruce Chatwin asks whether we are so easily distracted because we do not move enough. The Songlines (London: Penguin, 1987), 161.

3Những người cần sự trợ giúp nhiều hơn: Eva Feder Kittay, “Centering Justice on Dependency and Recovering Freedom,” Hypatia 20, no. 1 (2015): 286. Xem cả David Mitchell with Sharon L. Snyder, The Biopolitics of Disability (Ann Arbor: University of Michigan Press, 2015).

4lão khoa—sự điều trị phòng ngừa: Cassandra Willyard, “Aging Without Illness,” Science News, January 13, 2024, 22–26.

5thách thức của sự trưởng thành: “Tự do như một năng lực nội tại của con người là đồng nhất với năng lực để bắt đầu, hệt như tự do như một thực tế chính trị được đồng nhất với một không gian của sự chuyển động giữa những con người.” Arendt, Origins of Totalitarianism, 477.

6Irene Morgan đến tuổi trưởng thành: Về đời cô và phiên xử của cô, xem “Irene Morgan Kirkaldy (1917–2007),” Archives of Maryland.

7bất hợp pháp, trong lý thuyết: Robert L. Carter, “The Implications of the Irene Morgan Decision Review Note,” Lawyers Guild Review 6 (1946): 599–601.

8Chẳng mấy thay đổi trong thực tế: Joseph R. Palmore, “The Not-So-Strange Career of Interstate Jim Crow,” Virginia Law Review 83, no. 8 (1997): 1773–817.

9sự giải phóng không phải là từ cho nó: Các bạn tù, theo y tá, “đã không thể được giải phóng. Những gì họ cần là sự chăm sóc y tế, rất nhiều sự chăm sóc càng sớm càng tốt.” Dan Stone, The Liberation of the Camps: The End of the Holocaust and Its Aftermath (New Haven: Yale University Press, 2015), 74.

 10Chủ nghĩa kỳ thị chủng tộc nằm tại gốc rễ”: Leon Bass, trong episode 2 của podcast, Fortunoff Video Archive for Holocaust Testimonies, https://fortunoff.library.yale.edu/​podcast/​leon-bass/.

11Isaac Woodard thử quay từ: Richard Gergel, Unexampled Courage: The Blinding of Sgt. Isaac Woodard and the Awakening of President Harry S. Truman and Judge J. Waties Waring (New York: Farrar, Straus & Giroux, 2019).

12“xe bus hận thù” của riêng chúng: Những chi tiết này và chi tiết khác ở trên được rút ra từ Raymond Arsenault, Freedom Riders: 1961 and the Struggle for Racial Justice (Oxford: Oxford University Press, 2007). Một bức ảnh về xe bus hận thù có thể được tìm thấy tại http://images.google.com/​hosted/​life/​1dcba96f781e9302.html. Về Đảng Nazi Mỹ, xem Frederick J. Simonelli, American Fuehrer: George Lincoln Rockwell and the American Nazi Party (Champaign: University of Illinois Press, 1999).

13gia nhập hàng ngũ của những người Pháp Tự do: Fanon từ Martinique, nhưng trong cuốn sách của mình ông thảo luận kinh nghiệm của các binh lính Phi châu. Xem Eric T. Jennings, Free French Africa in World War Two (Cambridge: Cambridge University Press, 2015).

 14cảm giác luôn luôn nhìn bản thân mình”: W. E. B. Du Bois, The Souls of Black Folk (1903; tái bản Oxford: Oxford World’s Classics, 2007), 8.

 15“Tôi ra đời”: Fanon, Black Skin, White Masks, 89.