Danh ngôn

Trong mọi cộng đồng, chúng ta cần một nhóm thiên thần gây rối.

We need, in every community, a group of angelic troublemakers.

(Bayard Rustin – trích bài phát biểu tại New York City 1963)

Trong mọi trường hợp, chắc chắn rằng sự thiếu hiểu biết, đi kèm với quyền lực, là kẻ thù tàn bạo nhất có thể có của công lý.

It is certain, in any case, that ignorance, allied with power, is the most ferocious enemy justice can have.

(James Baldwin - No Name in the Street 1972)

Các cuộc cách mạng và các cá nhân có thể bị giết hại, nhưng bạn không thể giết chết các ý tưởng.

While revolutionaries and individuals can be murdered, you cannot kill ideas.

(Thomas Sankara, một tuần trước khi bị ám sát, 1987)

Không có cảm giác nào cô đơn hơn việc bị chính đất nước mình trục xuất.

There's not a more lonely feeling than to be banished by my own country.

(Kiyo Sato – Kiyo’s Story 2009)

Ban Biên tập

Địa chỉ liên lạc:

1. Thơ

tho.vanviet.vd@gmail.com

2. Văn

vanviet.van14@gmail.com

3. Nghiên cứu Phê Bình

vanviet.ncpb@gmail.com

4. Vấn đề hôm nay

vanviet.vdhn1@gmail.com

5. Thư bạn đọc

vanviet.tbd14@gmail.com

6. Tư liệu

vanviet.tulieu@gmail.com

7. Văn học Miền Nam 54-75

vanhocmiennam5475@gmail.com

Tra cứu theo tên tác giả

Thứ Ba, 4 tháng 3, 2025

Nhìn tranh, nhớ Khánh Trường

Lê An Thế

Có thể là hình ảnh về 4 người và mọi người đang cười

Trái qua phải: Phan Nhật Nam, Khánh Trường (ngồi xe lăn), Lê An Thế, Hoàng Khởi Phong, Cao Xuân Huy, ảnh chụp do Ngô Thế Vinh, 2004, California

 

Cuối năm 2004, một buổi tiệc tại nhà Khánh Trường, ở thành phố Westminster, nam California, toàn bằng hữu, nhân dịp Khánh Trường vừa xuất viện sau một cơn tai biến. Vài ngày sau, khi đem in cuộn phim, tôi có tặng Khánh Trường một tấm hình. Anh nhìn rồi cười sặc. Cả 5 người, quen biết trước sau chồng chéo. Đều biết cầm súng lẫn cầm bút. Khánh Trường nói, “Mấy ông thua tôi, vì tôi còn biết cầm… cọ”.

Ở một chỗ vắng. Lộ ra. Một Khánh Trường họa sĩ.

Phía sau là một bức tranh Khánh Trường hoàn tất trước khi bị tai biến lần hai, 2004. Bức tranh đó không tên. Tôi từng có 2 bức tranh sơn dầu của anh. Đều không tên. Vẽ xong một bức và đặt tên, là một khoảng cách. Anh chẳng màng. Tôi không hỏi. Hình như, anh chỉ đặt tên tranh khi có triển lãm, hoặc in thành sách. Một dịp triển lãm riêng, khi vừa hồi sức, anh tập trung hoàn tất trong vòng vài tháng với 40 bức tranh ngay năm 2005. Cũng để kỷ niệm việc trở lại với cây cọ của mình, anh đặt tên loạt tranh này là Phục Sinh. Phục Sinh 1, Phục Sinh 2, Phục Sinh 3. Những con số theo nhau. Cho đến cuối.

Vẽ. Là tạo ra vùng mới. Viết. Là mở cuộc phiêu lưu. Màu sắc và con chữ luân chuyển. Là một hành trình vô tận.

Trong một bài viết, tặng Rừng, một họa sĩ, một nhà văn, một lính cũ và một bạn rượu, Khánh Trường viết về những khát khao của anh, nhan đề: Bức Tranh Không Bao Giờ Vẽ. Tác phẩm ưng ý nhất là tác phẩm sắp tới, không bao giờ vẽ nổi. Có ấp ủ cả đời người. Vẫn vậy. Nghệ sĩ chỉ là kẻ đuổi bắt. Một giấc mộng không thành.

Không hiểu sao anh phục sinh mau đến thế. Hình như có hai sư cô đến thăm và khuyên anh vẽ lại. Vẽ cần sự tập trung cao độ, không thể để tay run. Một thời gian ngắn, anh đã có thể ngồi trước giá vẽ hàng giờ. Rồi hàng buổi. Vẽ là thiền. Vẽ là yoga. Vẽ là chánh niệm. Là thể lý trị liệu tâm hồn. Là biến vào bức tranh. Là một vũ trụ hình thành. Khoảnh khắc đó, cái một cái không hợp nhất. Người nghệ sĩ có thể rũ bỏ cái tôi. Biến mất. Giữa một vòng không. Lời khuyên của sư, là một ân huệ. Anh đã tổ chức triển lãm tranh vừa vẽ của mình tại ngôi chùa của hai sư cô đó, cùng thành phố Garden Grove. Tôi có tham dự buổi triển lãm này, nhưng không nhớ tên chùa và thời điểm. Nhưng vẫn còn cảm giác ngồ ngộ khi tôn giáo đụng hàng nghệ thuật. Khánh Trường, một con ngựa bất kham, có lúc cúi đầu với tiếng chuông kinh kệ. Những bức tranh của anh đứng cùng đạo pháp. Năm 2011, một cuộc triển lãm khác, anh gọi là Đáo Bỉ Ngạn. Có nghĩa qua bờ bên kia.

Qua bờ bên kia là một thực chứng. Không ai biết được. Không dấu vết. Những kẻ còn đứng bên này, như tôi, thấy trong chiều kích nào đó. Một Khánh Trường khác. Tâm nguyện lúc về chiều.

Phảng phất hồn Bát Nhã.

Bức tranh được treo tại phòng khách, ngay trên ghế sofa. Khổ khá lớn, 40 in X 50 in. Sự tĩnh lặng của màu xanh trên diện rộng. Tràn ra khỏi khung. Có thể đây là lần đầu tiên anh xử dụng bột thạch cao với sơn dầu. Nhẹ. Như những giải cồn cát trên sông. Trên biển. Hoặc là hai giải ngân hà vắt ngang trời. Phía trên và khoảng giữa là một trăng, trắng đục, lợn cợn bột thạch cao, chung quanh là một vành đen nhỏ. Nhưng vẫn là một màu xanh chiếm ngự. Xanh cũ. Rất năm xưa. Trăng cô độc. Như ta. Như thuở thơ Đường, Khánh Trường vẽ rất nhiều trăng. Từ trăng, nhìn xuống trái đất này, nhiều tỷ người này, nhiều hỉ nộ ái ố này, chỉ be bé một hòn bi xanh như lời một bản nhạc. Với những người vượt biển, màu xanh đó có khi là ác mộng lớn. Xa quê hương 10 ngàn dặm chiều ngang, đứng ở Thái Bình Dương bên này nhìn qua, bát ngát xanh. Mỗi khi trăng phản chiếu. Là kỷ niệm về cố quận. Trăng cũ vẫn theo ta. 2011, Khánh Trường vẽ một bức tên Lệ Trăng, khổ nhỏ. Một trăng trắng đục. Những dòng trăng đổ xuống. Cả chục dòng. Có khi giữa nửa trời đã chia nhánh. Trăng khóc. Như thác đổ. Khóc trời đất hay khóc nhân gian? Không che giấu. Cảm giác đầu của một người xem tranh là im lặng. Là chánh niệm. Là đọc tranh. Rồi cảm tranh. Khung quá nhỏ. Xanh quá lớn. Vẫn lâng lâng. Không thể nắm bắt.

Đối diện với tranh trừu tượng. Nghe một khúc nhạc cổ điển. Hãy rũ bỏ thực tế. Và tưởng tượng.

Tôi thích bức tranh này. Vì lạ. Vì màu xanh của nó. Vì cảm nhận được một thế giới khác cô độc, tôi cảm nhận sự cô độc chính mình. Tôi hỏi mua ngay trong bữa tiệc đó. Không có tiền, tôi giao hẹn, trả góp. Mỗi tháng 500 đô la. Khánh Trường chỉ gật đầu. “Lấy đi”. Không giấy tờ. Bức tranh ra khỏi nhà vẫn không tên. Nghệ sĩ không cần giải thích tác phẩm của mình. Chỉ làm mất đi những phiêu bồng nghệ thuật. Tôi hẹn, nếu sau, sống ở Việt Nam, tôi sẽ mang bức tranh này về.

Vài năm sau, tôi không nhớ rõ chính xác thời gian, một cuộc triển lãm của hội họa Việt Nam toàn cầu ở quận Cam, California. Mỗi họa sĩ một bức. Khánh Trường đã mượn lại bức này để trưng bày. Khi chở đến nơi triển lãm, ngẫu hứng, tôi đặt tên cho bức tranh này: “Nơi tôi tới đêm qua”.

Sau tai biến lần thứ nhất 2001, thì 2004 là tai biến thứ hai. Cho đến lúc này, Khánh Trường thoát chết 5 lần. Hai lần bị thương ngoài mặt trận, một lần vượt biển, hai lần tai biến. Cũng có thể, còn những lần khác tôi không biết, hoặc Khánh Trường không kể, hoặc chỉ là con số lẻ. Những và những. Chuyện nhỏ dọc đời. Hai lần bị thương, dấu vết là những mảnh đạn thời chiến vẫn còn trong thân thể. Hai lần tai biến, kỷ niệm là chiếc xe lăn. Một lần vượt biển, là một duyên phận khác, gặp và sống với chị Oanh trên trại tị nạn 1987. Suốt 37 năm, cho đến giờ cuối.

Tôi biết Khánh Trường khoảng năm 1990, lúc đó, anh và chị Oanh đã thành vợ chồng chính thức, sống ở một căn hộ nhỏ, cùng thành phố Garden Grove, cách tôi chừng vài phút lái xe. Lúc đầu là gặp ở quán cà phê, rồi bàn nhậu. Khánh Trường chịu nhậu cũng như chịu chi, sẵn sàng ồn ào, văng tục chửi thề và nếu cần cũng rất du côn, gây sự với cả những đàn anh lớn tuổi. Tôi biết loáng thoáng, anh sống bằng nghề trình bày sách báo băng nhạc. Lúc đó người Việt đã tập họp khá đông ở California. Những người tị nạn vừa chân ướt chân ráo đến một xứ sở tự do, họ thích viết, thích hát hơn bình thường. Kết quả là, sách báo và băng nhạc lan tràn, bày đầy chợ búa. Khánh Trường, một người ngăn nắp, sạch sẽ, hiệu quả. Tiêu chuẩn nhanh, đẹp, rẻ. Cả chiều tối đi nhậu, nhưng chỉ một đêm, anh có thể trình bày xong cả hai dĩa nhạc, mỗi dĩa như vậy, hơn một tuần lương của người lao động.

Ở nửa cuối thập niên 1980s, bắt đầu có những chuyển động tại các nước xã hội chủ nghĩa. 1985, Gorbachev lên làm Tổng Bí thư Đảng Cộng sản Liên Xô, bắt đầu những chương trình mở cửa và tái cấu trúc. Ở Trung Quốc cuối xuân 1989 đã có những đoàn thanh niên sinh viên biểu tình tràn ngập quảng trường Thiên An Môn. Thậm chí họ còn làm một mô hình tượng cỡ nhỏ Nữ Thần Tự Do của Mỹ diễu hành chung quanh quảng trường. Ở thành phố Leipzig, Đông Đức, trước khi bức tường Bá Linh sụp đổ, cả 50 ngàn người đã thắp nến ngoài công trường trong đêm. Ở Việt Nam, từ 1986, đã có những cánh cửa mở cho kinh tế tư nhân và cởi trói văn nghệ, với khẩu hiệu, rất khẩn cấp là: “Đổi mới hay là chết”.

Một loạt những tác phẩm và tác giả tài năng mới ở Việt Nam xuất hiện. Cái bóng của Nhân Văn Giai Phẩm đầu thai. Nhìn từ xa, Việt Nam hoa vẫn nở.

Từ 1975 cho đến lúc đó, tôi đã sưu tập một số lượng khá lớn sách báo từ Hà Nội, cả trước và sau 1975. Kể cả tạp chí Học Tập, tạp chí Cộng Sản. Kể cả quyển Đường Kách Mệnh, một tập sách mỏng hơn 20 trang viết tay của ông Hồ Chí Minh. Kể cả những quyển sách bàn về “Chủ Nghĩa Bành Trướng Của Bọn Bá Quyền Bắc Kinh”. Nhưng từ 1986-1989, là một sự chuyển mình. Tôi có được những tác phẩm của Dương Thu Hương, Phạm Thị Hoài, Nguyễn Huy Thiệp, những số tuần báo Văn Nghệ giấy úa vàng, như trái tim của văn học trong nước lúc bấy giờ. Cũng từ khoảng thời gian đó, tôi có tiếp được tại nhà, những nhân vật văn hóa nổi tiếng từ trong nước. Như Trần Quốc Vượng, Hoàng Ngọc Hiến, Đặng Phong, Huệ Chi… và khá nhiều văn nghệ sĩ khác, mà người cuối cùng tôi hân hạnh tiếp tại nhà là anh Bùi Ngọc Tấn. Có người ghé qua một buổi, nhưng đa phần đều ở lại vài ngày, một tuần, đôi khi cả tháng. Tôi nghe và học nhiều từ họ. Tôi đóng góp tất cả những điều có thể cho nhóm thực hiện tuyển tập Trăm Hoa Vẫn Nở Trên Quê Hương, tài liệu, thời gian, địa điểm, bài vở. Những buổi họp liên lục kéo dài từ nhà này sang nhà khác. Tháng 9-1990, tuyển tập này ra đời. Dày 800 trang, khổ lớn. 27 tác giả ngoài nước. 79 tác giả trong nước.

Tuyển tập gây được tiếng vang rất lớn. Nó cố gắng xóa bỏ lằn ranh cũ quốc cộng, trong ngoài. Trong nước, tôi không biết. Nhưng ở bên ngoài, có những người vượt xa hơn sự phản biện, thành vu khống và chụp mũ. Thậm chí họ biểu tình, kéo lê quyển sách này quanh phố Bolsa, và cuối cùng đốt sách. Đốt lửa giữa ban ngày. 1990, suốt 15 năm ấy, một bi kịch hòa bình của Việt Nam. Hàng triệu người bỏ nước tìm tự do, đường bộ, đường biển. Hàng trăm ngàn người bỏ xác dọc đường, trên biển. Những người chết vì bão, vì tàu chìm, vì đói bệnh, vì hải tặc. Chắc chắn không rõ con số là bao nhiêu. Nhưng đã có những ước lượng lên cả nửa triệu người. Hầu hết những người lên đến bờ, đều biết, đều quen hoặc chính họ, là nạn nhân hải tặc. Một cái giá rất lớn. Tôi có một số thơ về chuyện này, lúc ấy bút hiệu là Lê Bi, “đứa con hoang trong trại tị nạn, mà mẹ chỉ biết cha nó là từng đoàn hải tặc Thái Lan”. Có thể hiểu, thậm chí thông cảm với những cực đoan của người chống cộng, nhưng chỉ khác ý kiến, đã giơ bóng ma Tần Thủy Hoàng lên dọa. Tuyển tập này, chuẩn bị rất công phu, tâm huyết, hầu hết mọi người đều bỏ thêm tiền túi vào làm, nhiều đêm ngày mới xong. Khánh Trường lúc ấy, đứng ngoài, nhưng rất ủng hộ việc làm này. Chúng tôi không sợ, thì Khánh Trường, với tính ngang tàng, càng không sợ.

Một thời gian ngắn sau, Khánh Trường gặp mặt vài cây bút sáng tác trong vùng, anh nói vừa có một số tiền chừng 6 ngàn đô, anh muốn ra một tạp chí văn học như tinh thần của tuyển tập Trăm Hoa Vẫn Nở Trên Quê Hương, anh cần sự ủng hộ về tinh thần, bài vở, và đặc biệt là tài chánh. Vì số vốn khởi đầu khá lớn, và báo phải trụ lâu. Một tạp chí 2 tháng mỗi số, khổ khỏ. Anh chỉ cần 6 người cam kết ủng hộ, 200 đô cho mỗi số báo, không điều kiện, đủ một năm, nếu báo không sống nổi thì thôi. Rồi Khánh Trường đi Pháp, lên Washington DC, tới San Jose vận động, được rất nhiều ủng hộ. Riêng ở quận Cam, tôi chỉ biết sau một số cuộc họp ở nhà Nhật Tiến, hoặc nhà tôi, có 3 người là Nhật Tiến, Lê Thứ và tôi cam kết ủng hộ giúp tiền đủ 6 số. Những người khác tôi không rõ, không ai nói và cũng không ai hỏi. Chính Khánh Trường cũng không bao giờ nói ra hoặc làm sổ sách, hoặc thông báo về điều này. Không một ai thắc mắc. Đóng tiền ủng hộ chỉ là một chuyện vác ngà voi nhẹ nhất. Chỉ một thời gian ngắn sau, tôi tình cờ biết, số tiền Khánh Trường kiếm được là nhuận bút một quyển dâm thư Qua Khe Hở, ký tên Tống Ngọc. Người chủ nhà xuất bản, cũng là một tiệm sách ở Bolsa, là nơi quen biết cả. Sách cháy hàng, tục bản. Sách tục bản, cháy hàng. Họ đốc thúc Tống Ngọc tiếp tục. Có thể, thập niên 1990, hai quyển sách bán chạy nhất ở cộng đồng Việt Nam hải ngoại, một là Qua Khe Hở của Tống Ngọc, và hai là Tháng Ba Gãy Súng của Cao Xuân Huy. Khánh Trường chỉ cười hặc, rất Tống Ngọc, không vậy thì tiền đâu làm báo.

Thoạt đầu, theo ý Khánh Trường, tên báo là Giao Lưu, một cái tên đầy thách thức. Nhưng Khánh Trường bấp chấp. Thực sự, đây là một tờ báo một mình Khánh Trường thực hiện. Trong nhóm, anh là người duy nhất không bận đi làm hãng xưởng. Chọn bài, đánh máy, trình bày, bìa, sổ sách, bưu điện, danh sách độc giả đều một tay anh. Công việc tôi hay làm, là thỉnh thoảng tới nhà anh, đọc lại, và sửa chữa chính tả, phần Khánh Trường yếu nhất. Ngay trước khi số ra mắt, anh làm xong tất cả, chuẩn bị đem in, thì anh Nhật Tiến gọi điện thoại, theo đề nghị của Nhật Tuấn, một nhà văn trong nước, em ruột Nhật Tiến, và là người ủng hộ đổi mới, đổi tên báo là Hợp Lưu. Những dòng chảy hợp lại, về một phía. Nhiều ý nghĩa hơn. Và ít khiêu khích hơn. Khánh Trường đồng ý ngay, và cũng nhờ Nhật Tiến đêm đó gọi điện thoại hội ý nhóm chủ trương. Không ai phản đối.

Tháng 10-1991. Hợp Lưu số 1.

Tháng 12-1991. Liên Xô sụp đổ.

Một chấn động lớn của các quốc gia xã hội chủ nghĩa. Nhưng những tia sáng cuối đường hầm đã không đến với tất cả. Lá cờ của chủ nghĩa cộng sản rất kêu gọi, thậm chí là cao cả. Nhưng khi chiếm được quyền hành, thì xã hội chủ nghĩa chỉ là những thí dụ đau lòng và rất đắt. Chủ nghĩa dân chủ đã thắng. Nhưng cho đến bây giờ không phải làm một chiến thắng toàn diện. Lịch sử đã không kết thúc nóng vội như sự tiên đoán của Fukuyama. Thế giới này vừa đa cực, vừa đầy hỗn độn. Ở Trung Quốc, “chú lùn ở Bắc Kinh”, Đặng Tiểu Bình, đã ra lệnh cho chiến xa và quân đội thẳng tay giày xéo đàn áp những thanh niên tại Thiên An Môn đầu tháng 6-1989. Cả chục ngàn thanh niên sinh viên Trung Quốc bị giết, bị thương, bị bắt. Đủ ác, đủ nhẫn tâm, nhưng lại tạo ra sự trật tự cho Trung Quốc. Cụm từ “chú lùn ở Bắc Kinh”, không mới mẻ, mà có từ cuộc chiến Đông Dương lần 3, người anh em phương nam đã gọi Đặng Tiểu Bình một cái tên khá đúng chiều kích, khi ông này công khai đòi dạy Việt Nam một bài học. Những nước anh em xã hội chủ nghĩa, hay giương cao ngọn cờ cách mạng, thách thức chủ nghĩa tư bản “ai thắng ai”, đã chuyển ra đối xử với nhau, thành ai dạy ai, và kết quả là ai học ai. Không rõ mèo nào cắn mèo nào, nhưng mỗi bên cả trăm ngàn lính thương vong. Về mặt quân sự, rõ ràng Trung Quốc thất bại. Nhưng Đặng Tiểu Bình đã mau chóng học ra điều này. Ông đã cải cách kinh tế và hiện đại hóa quân đội. Và mở cửa với Mỹ. Việt Nam vẫn cô lập trong những ngạo mạn của chiến tranh. “Ta đã đánh cả 3 thằng đế quốc”. Mấy năm sau, lần này Việt Nam mới len lén ngẩng lên, học lại chú lùn phương bắc. Bài học mở cửa, nhưng cũng chỉ he hé, từ từ. Và vẫn giữ chặt quyền lực.

Như vậy, trong cái cõi nhân gian bé tí của người Việt ở nước ngoài, Hợp Lưu càng đúng hơn nữa. Bài vở ngày mỗi nhiều. Số độc giả cũng tăng. Sau này, một số tác giả gởi bài từ Việt Nam, dĩ nhiên là lén lút, không hề biết Hợp Lưu có đăng hay không. Có khi, tình cờ, cả nhiều năm sau mới thấy bài viết của mình có trên Hợp Lưu.

Ở Hợp Lưu số 1, Khánh Trường đứng tên chủ biên. Sang số 5, tháng 6-1992, có thêm Phan Tấn Hải, Phạm Việt Cường phụ tá, tôi (bút hiệu Hoàng Sử Mai), phụ trách nghiên cứu lý luận. Nhưng, Khánh Trường là người chỉ thích văn nghệ, nếu có nghiên cứu, thì chỉ là nghiên cứu bình luận văn học, hoặc sử học, hoặc triết học. Còn những thứ khác, như chính trị, kinh tế… thì anh không thích. Anh thường nhạo “nghiêm và buồn” quá, mất vui. Bài vở càng nhiều, đủ dày hơn 2 số báo bình thường. Được thêm vài số, tôi đề nghị với anh em, tôi tách ra phụ trách tạp chí Đối Thoại và sau đó, nhà xuất bản Trăm Hoa, chuyên trị các chuyện “nghiêm và buồn”. Thế là rộng chỗ, ổn với mọi người.

Trước khi bị tai biến 2001, Khánh Trường đã mang nhiều bệnh. Cao máu, yếu thận. Anh hút thuốc nhiều, suốt ngày cà phê và rượu. Một chỗ yếu và cũng đáng yêu, là Khánh Trường không có khả năng từ chối các buổi bạn bè có rượu. Có khi rủ anh đến nhà, anh kẹt đi với chỗ khác. Tôi tiếp tục rượu tại nhà, với những bạn khác. Nửa đêm, có tiếng chuông gọi cửa, tưởng cảnh sát, hóa ra là Khánh Trường, theo sau là cái bóng gầy khum của Mai Thảo, một người không biết lái xe, Khánh Trường rất thương. Anh nói đi qua, thấy trước cửa nhà tôi vẫn còn nhiều xe đậu, đèn vẫn sáng, nên dừng lại. Cả hai vào uống tiếp.

Vì sức khỏe, luôn ngồi xe lăn, từ số Hợp Lưu 68, tháng 12-2002, Phùng Nguyễn làm chủ bút. Được một thời gian, Hợp Lưu số 76, tháng 4-2004, chủ biên là Trần Vũ. Đến số Hợp Lưu 84, giữa năm 2005, theo dự định, là số chuyên đề về “Da Màu”, do Nguyễn Hương và Đặng Thơ Thơ cùng chủ biên.

Lúc đó người Việt, sau 30 năm tập họp đông đảo ở nước ngoài, đã có những vươn lên, ổn định về kinh tế, văn hóa. Doãn Quốc Sỹ có nhận xét, 2 biến cố quan trọng nhất thế kỷ 20 của Việt Nam, một là, việc sử dụng mẫu tự La tinh cho chữ Việt, và hai là, có cả 2 triệu người du học ở các quốc gia tiền tiến nhất. Hiệu ứng phụ của thực dân Pháp (cộng với truyền giáo) và thành công trong việc thắng Pháp, Mỹ, Tàu và chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam. Nhưng dù có du học, hoặc “du sống” của đông đảo người Việt, thì tập họp của họ vẫn có một màu da quá vàng. Cạnh một nền kinh tế, chính trị, văn hóa, màu da quá trắng. Dù có thành công, hoặc sinh ra tại đó, nhưng vẫn là một màu da vàng. Khác. Những câu hỏi về Da Màu, là một cần thiết, phải có những cái nhìn cả chiều sâu, chiều rộng.

Nhưng Hợp Lưu 84 là một rẽ ngoặt. Bất ngờ. Vỡ nội bộ. Nguyễn Hương, Đặng Thơ Thơ và một số những người cộng tác công khai từ nay không hợp tác với Hợp Lưu nữa. Khánh Trường cũng thế. Anh cắt đứt, hoàn toàn. Không nhìn. Xem như tờ báo mình gầy dựng, Hợp Lưu đã chết. Từ số 84, Hợp Lưu chỉ là một “da hàng thịt”, cái logo, chữ bìa y hệt như vậy, nhưng bên trong chỉ là một Hợp Lưu với những người cộng tác… từ xa.

Một lần, Khánh Trường thổ lộ với tôi, đây là một thất vọng, đau đớn nhất đời anh.

Đặng Thơ Thơ, khoảng 2006, có đến nhà tôi, nói về dự định về một tờ báo mạng mang tên Da Màu, mà cô trong nhóm chủ trương. Lúc đó, vì lý do trầm cảm cá nhân, tôi đã ngừng sáng tác nhiều năm, có nói với Thơ Thơ là nếu làm văn nghệ, cứ làm hay, đẹp và nghiêm túc trước đã. Những dị biệt, xung khắc tạm qua một bên. Cái đẹp sẽ cứu vãn thế giới, như Dostoevsky trong tác phẩm Thằng Khờ. Hoặc ít ra, chúng ta có quyền sống, quyền tin như vậy.

Khoảng vài ngày sau, tôi làm được một số thơ. Gởi Da Màu. Phút cuối cùng trước khi gởi đi, tôi bất chợt lấy một bút hiệu khác. Không biết tại sao. Thế thôi. Một lần, 2015, khi về Việt Nam, Phùng Nguyễn có lên nhà tôi ở Đà Lạt một đêm. Nghe tâm sự, mới biết anh cũng là người tình nguyện đi lính 1968 như tôi, bị thương rất nặng ở Quân khu 1, vì đạp mìn chống cá nhân ở chân phải, vết thương chằng chịt đến bây giờ. Tôi đùa với Phùng Nguyễn: Da Màu và Đặng Thơ Thơ đã đẻ ra Lê An Thế.

Cũng đúng thôi. Phải không Nguyễn?

Chỉ hơn tuần sau, khi về lại Mỹ, Phùng Nguyễn đột tử.

Vào một đêm ngay đầu năm 2025, con gái tôi từ Mỹ gởi cho tôi ở Việt Nam một tin nhắn: “Khánh Trường cha của Annie vừa chết”. Con gái Khánh Trường tên An. Trường An, mà mọi người gọi là Annie. Con gái tôi cũng tên An. Thế An. Cả hai, sinh ra cách nhau vài tháng năm 1991, quen và thân nhau lúc bé. Lúc chập chững biết đi và biết nói. Cả hai có thể quấn quít nhiều giờ, không bao giờ lớn tiếng cãi cọ, giành giựt, khóc nhè.

Tin nhắn gọn. Đến Việt Nam lúc nửa đêm. Tôi biết ngay một điều có thật.

2001, khi Khánh Trường từ phòng cấp cứu ra ngoài, một bệnh viện ở thành phố Fountain Valley, anh nằm lịm trên tấm khăn trải giường đẫm máu. Chắc ít ai trong đời phải nằm trên vũng máu của mình nhiều lần. Những tình huống khác nhau. Ở những chốn xa nửa vòng trái đất như thế. Hầu hết mọi người, dù không nói ra, đều tin Khánh Trường chắc không còn nhiều thời gian nữa. Anh uống thuốc, khám bác sĩ, đi bệnh viện như chuyện thường ngày ở huyện. Từ 2011, thận của anh đã đến chỗ tệ nhất, mỗi tuần phải đi bệnh viện lọc máu 3 lần. Mỗi lần cả buổi. Bạn bè đến thăm phải dè chừng, anh nói năng rất khó. Thỉnh thoảng tổ chức một buổi ăn tại nhà anh, mời vài người bạn, những người bạn bè trong vùng, như Rừng, Ngô Thế Vinh, Cung Tích Biền, Phan Tấn Hải, Thân Trọng Mẫn, tôi… đều có mặt. Đầu năm 2023, từ Việt Nam, tôi có ghé qua, anh đã rất yếu, xanh, gầy, nói không ra hơi. Và có nói cũng chỉ thều thào, muốn chết quá.

Muốn chết quá. Nhưng anh vẫn sáng tác. Bàn làm việc computer, ngay cạnh cửa ra vào, của anh vẫn ngăn nắp. Một ngạc nhiên khác, là anh vẫn viết và in được nhiều tiểu thuyết. Lúc đó tôi có 3 quyển, in năm 2022, đều trên 200 trang, in và trình bày rất chuyên nghiệp. Hóa ra đó là lần chót.

Lần này

Khánh Trường chết thật.

Rất thật.

*

Tôi hay thức giấc lúc khuya, uống rượu một mình. Ngay phòng khách treo bức tranh của Khánh Trường, đã 21 năm như vậy. Từ Garden Grove, đến Vũng Tàu, rồi Đà Lạt và bây giờ, tại Saigon. Đơn giản và trân trọng. Nhờ vào quyển Khánh Trường Paintings, nhà xuất bản Nhân Ảnh, 2018, tôi mới biết, anh đặt tên bức tranh này là Giang Nguyệt. Vẫn là một màu xanh rộng. Lan dần. Và vành đen nhỏ quanh trăng, hiện thành một vành tang đen. Trong tĩnh mịch khác thường ngày đêm đầu năm 2025, tôi thức thêm một chút, say thêm một chút. Một chút xanh trong bóng tối. Tôi đã giữ được lời hẹn của mình với Khánh Trường là đem bức tranh này về Việt Nam. Và hơn một chút, hy vọng là đúng ý, như những dòng cuối trong bài viết Bức Tranh Không Bao Giờ Vẽ của Khánh Trường: “…tôi là một họa sĩ Việt Nam, vẽ với sự rung động của một trái tim Việt Nam, bằng trùng trùng những kỷ niệm phát sinh từ một đất nước mang tên Việt Nam”.

Có thể là tác phẩm nghệ thuật

Giang Nguyệt, tranh Khánh Trường, California 2004, 40 in X 52 in

 

 

Saigon 1-2025