Danh ngôn

Trong mọi cộng đồng, chúng ta cần một nhóm thiên thần gây rối.

We need, in every community, a group of angelic troublemakers.

(Bayard Rustin – trích bài phát biểu tại New York City 1963)

Trong mọi trường hợp, chắc chắn rằng sự thiếu hiểu biết, đi kèm với quyền lực, là kẻ thù tàn bạo nhất có thể có của công lý.

It is certain, in any case, that ignorance, allied with power, is the most ferocious enemy justice can have.

(James Baldwin - No Name in the Street 1972)

Các cuộc cách mạng và các cá nhân có thể bị giết hại, nhưng bạn không thể giết chết các ý tưởng.

While revolutionaries and individuals can be murdered, you cannot kill ideas.

(Thomas Sankara, một tuần trước khi bị ám sát, 1987)

Không có cảm giác nào cô đơn hơn việc bị chính đất nước mình trục xuất.

There's not a more lonely feeling than to be banished by my own country.

(Kiyo Sato – Kiyo’s Story 2009)

Ban Biên tập

Địa chỉ liên lạc:

1. Thơ

tho.vanviet.vd@gmail.com

2. Văn

vanviet.van14@gmail.com

3. Nghiên cứu Phê Bình

vanviet.ncpb@gmail.com

4. Vấn đề hôm nay

vanviet.vdhn1@gmail.com

5. Thư bạn đọc

vanviet.tbd14@gmail.com

6. Tư liệu

vanviet.tulieu@gmail.com

7. Văn học Miền Nam 54-75

vanhocmiennam5475@gmail.com

Tra cứu theo tên tác giả

Chủ Nhật, 9 tháng 2, 2025

TCHERFUNITH (kỳ 5)

Inrasara                                                                                             Tiểu thuyết

Chương 4

‘PALEI’ CÓ GÌ LẠ KHÔNG EM?

1.

Quà tặng. Quà tặng bất ngờ từ trời. Mỏng manh. Run rẩy đầy bất trắc. Rồi tự tin và đĩnh đạc. Sau cùng là ánh sáng chói lòa chiếm lĩnh toàn cảnh tôi. Đôi mắt tôi và tinh thần tôi. Trí tuệ tôi và tâm hồn tôi.

Lặng lẽ và bột phát đồng thời. Chắc chắn và trơn trợt. Hư mà thực. Như có như không. Như cuộc đời. Như sáng tạo. My - một quà tặng từ Pô Yang. Bất ngờ và bất khả đoán.

Lần đầu tiên trong đời tôi, nàng có mặt. Cô độc. Mỏng manh. Run rẩy. Bất trắc. Với áo dài Cham và đôi quạt, với cách di chuyển chân và tay đầy bấp bênh. Rồi nàng biến. Biến, như nàng xuất hiện. Bỏ lại tôi đối mặt với các câu hỏi.

Lần đầu tôi nhìn thấy trong một lễ hội ở Kompong Chàm. Bao nhiêu hình ảnh quá khứ dồn đến, chồng chất. Đây và đó, như mơ như thật.

Giữa muôn trùng nỗi ấy, nàng như ẩn hiện đâu đó nơi góc khuất trái tim tôi. Nàng đến, như ánh sáng rạng rỡ, chói lòa.

Cái gì không thể tránh được thì không thể tránh được.

Nàng là quà tặng không thể chối bỏ, đã đi vào đời tôi - như thế.

Cha nói, “đi làm nước” cha đã bỏ làng lên Buôn Mê Thuột, rồi lên máy máy Mỹ qua Mondulkiri tỉnh giáp ranh biên giới Việt Nam. Khoảng mươi dân tộc thiểu số ở đó, môi nhóm được huấn luyện kiểu khác. Anh chị em Cham có khoảng trung đội, cha nói, nhưng rồi có đánh đấm gì đâu. Vùng Khmer Đỏ làm chủ, thế là phải chạy. Chạy và chạy thôi, cha nói. Buồn lắm.

Đến được Nam Vang thì cả trung đội rơi rớt đến gần một nửa. Sihanouk đổ, Lon Nol lên, Fulro tan rã. Hai anh có khả năng được Les Cosem cho qua Pháp học, còn lại gần như ai lo phận nấy, cha nói.

Một ít người trở lại quê hương, một số còn lại làm thường dân Cam Bốt. Cha quyết cùng mẹ và con ở lại. Nam Vang rồi Kompong Chàm. Ở lại cho đến khi bộ đội Pon Pot tràn vào các thì thì ai giữ hồn nấy.

Cha kể, thảm lắm, số anh chị em Cham sót lại chạy vào Sứ quán Pháp, tưởng yên ôn ai dè, bọn nó có ngán quốc tế đâu, ấp vào bắn không sót một. Cha vẫn cùng gia đình mình ở lại.

Cha cùng trăm sinh linh Cham lội bùn qua Thái tìm đất sống, để ổn định qua đưa mẹ còn đi. Nửa dòng, thấy toán quân Khmer Đỏ bên kia bờ, cha vội thụt lại. Thụt lại rồi giạt vào khóm có lác, không dám thì thào một tiếng báo động với anh em. Cha nghĩ, ai thấy thì thân ai nấy lo, chứ hô lên chúng nghe thì chết cả đám.

Cha và vài người nữa thoát chết, cha nói cha không biết bao nhiêu nhưng không nhiều. Tối mịt mùng. Và cha thoát về sống đời nông dân như mọi đứa con Cham sống sót khác   

 

Tôi nhìn thấy nàng cùng với bà con Cham Pangdurangga ở buổi lễ ấy, và bị nàng hút như nam châm. Nàng hỏi tôi về Cham ở Cambodia, tôi hẹn tối. Tối, tôi chuyển cho nàng bài viết của một người bạn Cham ở Sài Gòn.

 

CÒN KHÔNG, NGƯỜI CHAM BINI Ở CAMPUCHIA?

Các sử gia ghi nhận Islam nhập địa Champa Ấn Độ giáo khoảng thế kỉ XI, đến thế kỉ XIV đã tạo thế đứng vững chắc trong vương quốc này. Cái mới đụng cái cũ xảy ra xung đột là khó tránh. Giải quyết xung đột, vua Po Rome đã làm cuộc hóa giải và hòa giải độc nhất vô nhị, biến Islam thành Bà-ni, để hai bộ phận tín ngưỡng tôn giáo này sống hòa đồng với nhau suốt mấy trăm năm đầy nguy biến. Sau triều đại huy hoàng cuối cùng của vương quốc, con dân Cham bắt đầu đi li tán. Cuộc đi tản lớn nhất xảy ra vào năm 1692, khi 5.000 gia đình Cham từ Pangdurangga thiên di qua Campuchia. Đoàn di dân được chính quyền Khmer lúc này bố trí ở vùng đất tốt dọc sông Mekong. Sau đó, còn nhiều cuộc di tản khác nữa.

Tại vùng đất mới này, người Cham Bini dần dần chuyển sang tôn giáo Islam. Để đến cuối thế kỉ XX, người Cham ở Campuchia thay căn cước thành Khmer Islam. Lafont cho biết “Hồi giáo biến cộng đồng người Cham tại Campuchia thành một tập thể quên đi nguồn gốc chủng tộc của họ”. Có phải thế không? Tác giả Ariya Po Parơng nghĩ và kể khác. Thực tế hôm nay cũng khác.

Người Cham Pangdurangga gọi bộ phận này là ‘Cham Birau’ Chàm Mới. Đại thể vậy thôi. Bao gồm cả cộng đồng Cham Islam từ Campuchia trở lại nhập vào bộ phận Cham ở An Giang trước đó, rồi giữa thế kỉ XX, thiên di vào Sài Gòn, hay nửa cuối thế kỉ XX, ra Long Khánh rồi Ninh Thuận.

 

Nhưng có phải tất cả Cham Campuchia đều theo Islam? Nhầm to! Một bộ phận khá lớn vẫn còn giữ phong tục tập quán mang từ cố quốc sang. Họ vẫn còn nhớ Kabbon Muk Thruh Palei, vẫn còn thuộc khá nhiều ca dao, đồng dao… Nhất là, trong nhà của nhiều bậc thức giả vẫn lưu giữ nhiều ciêt sách đựng các văn bản cổ. Chỉ có điều rất lạ, là gần 300 năm qua, hiếm có người ‘Cham Awal’ nào trở lại Việt Nam. Chỉ có ‘Cham Birau’. Từ đó tạo hiểu lầm, từ hai phía. Cham Pangdurangga tưởng ở Campuchia chỉ có ‘Cham Birau’, còn người Bini ở đất ‘Kur’ Khmer ngỡ sinh linh Cham ở Việt Nam theo Islam hết.

Từ chuyến thăm đầu tiên đến lần thứ hai rồi thứ ba, thắc mắc chúng tôi luôn gặp phải ở đây, là: - Con cháu Tôn Pho ngoài đó theo Islam hết rồi à? Tiếp theo là: - Cây Krek còn không? - Không bà con ạ. Đại đa số Cham Pangdurangga vẫn còn truyền lưu phong tục tập quán ông bà từ cổ xưa.

Katê năm 2011, chúng tôi dẫn năm đại diện Bini Kur về Phan Rang đi vòng các ‘palei’ Cham, thăm dấu vết ‘Krek’ trong sự xúc động tột cùng của mọi người. Họ hứa khi về đến đất Kur, sẽ kể lại…

 

‘Cham Awal’ ở Campuchia còn bao nhiêu người? Bao nhiêu ‘palei’?

Không ai biết đích xác. Cả người hướng dẫn chúng tôi có vẻ rành rẽ, cũng chịu. Chịu! Không quan tâm hay không thể? - Không biết được. Cuộc sinh nhai đè nặng lên cuộc sống cộng đồng từng một thời tha phương này. Người lớn lo tìm sinh nhai. Vẫn hành lễ. Vẫn múa, hát. Vẫn cưới chồng, lấy vợ. Cái nhìn và nụ cười đám trẻ vẫn hồn nhiên, vô tư. Lâu lâu có sự biến, họ chịu đựng. Như đã từng chịu đựng. Chị Khotiyah đọc cho tôi ghi:

Min Màng

Cabbang kayau

Athau groh gaup

Chet tapa paga

Anưk thei hia

Bbang prôic mưda

Minh Mạng - Nạng gỗ - Chó sủa nhau

Nhảy qua rào - Con ai khóc - Móc lòng ăn.

Thời Pôn Pốt, bà con cũng đã kéo nhau chạy như thế. Họ chạy vào rừng sâu, ăn njam par đỡ đói.

Thei thau ka tian kau lipa

Njam par di ia mưng hau ka tina

Ai biết cho bụng ta đói

Rau súng dưới nước mới hiểu lòng ta

Tạt qua gia đình tôi ở Sài Gòn để chuẩn bị ra Phan Rang, chị May Yum ở Phum Klak đã hát lên lời ai oán đó. Tiếng hát như âm vọng từ đáy lòng chị dội vào hồn tôi - tê điếng.

Họ sẽ ra sao ngày sau? Không ai biết được. Dẫu sao, điều tôi biết chắc rằng ở xứ lạ quê người, cộng đồng Cham Bini vẫn còn tồn tại, lao động. Thỉnh thoảng giữa khoảng trống thường nhật, bất chợt nỗi nhớ mơ hồ nào đó dậy lên tận thẳm sâu tâm hồn họ. Họ biết mình từng có một miền đất, xưa, rất xưa. Nhớ, để mà lặn lội… tìm về nguồn cội.

Dường như sứ mệnh chính yếu của con người trên mặt đất này là nhớ, - ai đã nói thế?!

 

Tối hôm ấy, tôi nói với cha:

- Con về Việt Nam cha, với bà con mình bên ấy.

- Ừa, con về, cha thì không thể.

Lát sau cha thêm: Cha nói khi con có gia đình với nhà cửa bên ấy, cha mẹ cùng các em con qua thăm. Tôi biết, cha sẽ không về dù rất muốn và dù có nhớ quê hương tới đâu. Cha sợ đối mặt với những câu hỏi ở quê nhà, về những đứa con quê hương đã bỏ thây lại nơi đất khách quê người.

Tôi đọc lại sổ “Ghi chép, 1972” của một nhà văn theo lời kể của nhân chứng sống sót, chú Bá Dĩ ở làng Bàu Trúc.

 

Khi anh Đ trung đội trưởng lệnh cho tiểu đội Cham đi xuống phía có tiếng trâu thét, thấy mấy anh ngần ngừ, tôi vác súng đi trước, các anh mới đứng lên bước theo. Cả bọn vừa đi vừa canh chừng. Không ai nói với ai một tiếng nào. Chỉ có tiếng lá rừng khô lạo xạo dưới chân người.

Không khó tìm thấy hai con trâu nằm trong vũng máu. Cả bọn tháo ba lô xuống, bỏ đồ nghề ra. Vừa xúm vào con trâu, bất ngờ phía sau có tiếng hô lớn:

- Tất cả đứng im! Bọn bây đã bị bao vây. Nhúc nhích là ăn đạn…

Tôi đứng cứng người như trời trồng. Ngó sang hai bên: tứ phía bọn Việt cộng lăm lăm cây súng bước tới. Khoảng chục tên. Cũng có thể nhiều hơn. Anh em chúng tôi chỉ có mấy dao găm cầm tay, súng thì đang dựng cạnh ba lô. Hai anh được phân công canh gác chả thấy đâu. Chắc họ đã bị khống chế, đang lẩn đâu đó trong đám Việt cộng. Bóng tối khiến tôi không nhận rõ hình thù người.

Giọng ai như anh Nghịch từ xác trâu bên cạnh nói qua:

- Đứng im đi anh em ơi…

My Force dạy tôi xử trí nhanh trước tình huống khẩn cấp. Không phản ứng là cả bọn tiêu đời. Tôi run lên khi nhìn thấy lối mòn. Tôi nói lớn:

- Drei tha… dwa… klau… đôic… Thoát mạng nào đỡ mạng nấy…

- Đừng… Dĩ… đừng… Dĩ…

Các anh toàn dân học thức, chán thế. Tôi hiểu không thể một mình hành động. Chạy, tôi phải là đứa ăn đạn trước tiên.

Chúng bắt chúng tôi trói từng đứa một. Hơn phân nửa bị đẩy vào thùng xe, số còn lại chúng kéo lên mui, trói dính chùm lại như trói lũ dê mang ra chợ. Xong đâu đấy, chúng cho xe chạy theo đường mòn hướng biên giới Việt Nam.

Đợi cho xe đi một đỗi, tôi ngoi đầu lên ngó quanh. Khoảng 9 giờ tối hơn. Trời đất vắng câm. Chỉ có tiếng động cơ xe, cái sốc của loài xe nhà binh cũ lăn bánh trên đường mòn, còn lại hai bên là rừng cây mịt mùng với hơn chục mạng Cham sắp về chầu ông bà lúc nào không biết.

Chết chắc rồi.

Tôi lấy hết sức kéo sợi dây về phía mình, rà tìm đoạn có vẻ yếu nhất, bắt đầu dùng răng cưa sợi dây. Thấm nước miếng cho ướt, nghỉ xíu, rồi tiếp tục cưa. Không đến nỗi tệ. Một hồi thì nó đứt. Tôi ngồi bật dậy, nhanh chóng tháo dây trói chân cẳng.

- Tháo cho anh em luôn Dĩ ơi…

Trời đất. Sao lại khờ thế chứ!

Vừa nghe tiếng Cham, xe thắng đánh kít, đẩy tôi ngã chúi về phía trước đè lên một đồng đội. Không thể làm gì hơn, tôi liền nhảy phốc xuống, chạy biến vào rừng.

Tôi cắm đầu chạy, không cần biết điều gì xảy ra sau lưng. Chúng đã không nổ súng. Biết đàng nào mà bắn, khi rừng mịt mùng, chằng chịt những cây là cây.

 

Chiến trường Mỹ luyện cho tôi cách tự cứu sống. Tôi nhìn lên trời sao, định hướng, rồi băng rừng, đi miết. Trong tay không còn bất cứ thứ gì, tôi vẫn tin mình sống sót. Mỗi thứ tôi ngán là lũ muỗi, không cách nào trị chúng được. Cho guồng chân chậm xíu để lấy hơi là chúng bu vào.

Mãi khuya tôi bắt đầu nghe bụng cồn cào. Chúng sôi lên sùng sục đến không thể chịu nổi. Mồ hôi vã ra ướt cả áo, cả quần, cả hai bên trán, tràn ra quanh cổ tôi. Đầu tôi choáng như có ai vừa rút hết bộ óc ra khỏi cái hộp sọ. Tất cả sinh lực đột ngột rời bỏ tôi. Tôi ngã chúi vào gốc cây to. Tôi chộp lấy nó, ghì chặt không cho mình lăn ra đất. Tôi biết ngã là không thể đứng dậy nổi nữa.

Mấy hôm trước ăn bữa trúng trúng trật trật, nay lại suốt nửa tối làm cuộc ma-ra-tông thì, chỉ có thần chết đuổi sau lưng con người mới làm được thứ sát hạch quá lính biệt động Mỹ đó.

Hít thở vài hơi dài lấy lại thần khí, tôi cho thân mình tụt dần xuống, rồi ngồi dựa hẳn vào gốc cây. Tôi quơ gom lá khô lại, rút cái Zippo bật lửa đốt. Cái Zippo quý hóa đó, chính nó đã góp phần không nhỏ cứu sống tôi. Nó giúp tôi xua lũ muỗi rừng, hỗ trợ tôi tìm nguồn nước, cho tôi cái lửa để nướng mấy loại côn trùng rủi ro bò tới tìm tôi giữa rừng núi âm âm này.

 

Có sức, tôi lại đi. Mãi sáng, đợi cho mặt trời lên quá cây sào, tôi đi xuống con suối rửa ráy. Tôi cởi hết quân phục Tàu, cả đôi giày bốt còn khá tốt quăng vào bụi cây. Còn quần đùi với áo thun trên mình, tôi đi về phía chòi nhỏ ở mé rừng. Chòi trống huơ. Ông già đang dưới rẫy bắp, tôi ngoắc ông lại nhờ bộ quần áo độ đường.

Có lẽ thần sắc tôi lúc đó hơi ghê, không hỏi han, ông đưa cho tôi bộ có lẽ tốt nhất của ông. Cả đôi dép. Tôi bập bẹ mấy tiếng Miên học đươc o-kun o-kun. Lão trỏ cho tôi xoong cơm nguội treo góc chòi. Tôi xách nó xuống, ngồi xổm làm một hơi hết sạch nửa nồi cơm xoong số 2 với vài con rô kho thừa đâu từ chiều hôm trước.

Xong, thắng cái xơ-vin đâu ra đấy, tôi vỗ vai lão vài phát thân mật, rồi dzọt đi. À, lão còn nhét vào tay tôi vài chục bạc gọi là tiền xe nữa.

Đi được một đoạn, tôi khựng lại. Tôi rất muốn trỏ cho lão biết lùm cây tôi đã ném bốt Mỹ vào. Được nó lão mừng phải biết. Mỗi việc đơn giản đó mà quên. Ngốc thiệt.

Nhưng thôi. Đây không phải lúc hối tiếc.

Tôi bước nhanh hơn, dọc theo đường mòn trâu bò, ra đường lớn, đón xe đò xuôi về hướng Nam. Tối, tôi ghé vào nhà Cham cạnh biên giới Miên Việt ngủ qua đêm. Sáng sớm, tôi theo một nhóm nhỏ đi qua biên giới. Khoảng 10 giờ thì tới khu vực dân quê kêu là Lộc Ninh. Tôi ra đường cái làm tô bún ế bà già bán ở góc chợ quê, hỏi đường, được bà chỉ cho cách quá giang xe lam về Bình Dương.

May quá, ở đó tôi gặp ông Giak người chú họ tôi ở Bàu Trúc. Anh nói giùm với bà con Chàm Pabblap bán thuốc nam gom tiền xe cho tôi về quê.

Thế là thoát.

 

Chuyện của tôi có thế. Chàm vẫn không thôi bị định mệnh truy đuổi. Chẳng biết bao giờ mới thôi.

Tội nghĩ chả còn mống nào sống sót. Đoán vậy, về sau tôi mới biết sự thể xảy ra y hệt. Đời người có số cả, bởi biết đâu, nếu cả đám cùng chạy, có lẽ thân tôi đã nằm lại núi rừng Miên nữa không chừng. Bù lại thế nào cũng trót được dăm ba mạng.

Tôi nói với cha, dạ, cha không nên trở về. 

 

 

2.

Tôi hẹn nàng cà-phê đường Văn Cao. Nàng đến. Buổi chiều. Mưa Sài Gòn bất ngờ ập xuống. Tôi đón nàng bằng taxi, là lần đầu tiên trong đời.

Dù có chút e dè, nàng tự tin và đĩnh đạc.

Và nàng trở thành định mệnh tôi, không dứt ra được. dù bộn lần nàng hoặc tôi muốn, hay thử. Nhưng cả hai: tôi và My thuộc về nhau, tôi biết. Vĩnh viễn. Bàn tay và bắp chân. Bờ môi và ánh mắt. Thân xác và tâm hồn. Chìm đắm mà thanh thoát bay bổng, nhục dục và linh thánh đồng thời.

 

Tôi đi đi lại lại Việt Nam Cambodia. Tình yêu không là gì cả, khi tình nhân mãi nhìn nhau, mà không nhìn về một hướng. Danh ngôn như thể dành cho và My. Hai tôi và chữ nghĩa và đời sống Cham hôm nay và sinh phận Cham ngày mai.

Cham nói, ‘Nit jauh drei o hu gait brei jang yuw oh nitThương cho lắm thương ốm o mà chẳng có gì cho cũng như không thương gì cả. Tôi có gì để cho nàng, cho Cham? Cộng đồng Cham mới bị tách rời chưa đầy hai thế kỉ mà đã vời vợi xa. Cham Pangdurangga với Cham Châu Đốc, Tây Ninh thôi mà đã như ngàn trùng xa cách, huống hồ Cham Khmer. Dù từ bé tôi được cha bảo cần học thật giỏi tiếng Cham, tiếng Việt, giỏi cả ‘Akhar thrah’, cha nói để mai sau con còn có đường trở về.

Có gì để cho, - câu hỏi cứ ám tôi. Sinh mệnh Cham như cứ muốn đẩy hai tôi ra xa. Trong khi chúng tôi mỗi ngày môi thêm gần nhau, bằng nhớ, bằng thư, bằng câu hỏi từ thẳm sâu của kí ức lịch sử và chiều rộng của đời sống cộng đồng: ‘palei’ có gì không em?

Thế rồi một sáng kia tôi bất ngờ đọc thấy…

 

INRASARA: “MỘT CÁCH KHIÊM TỐN ĐỂ NÍU NGƯỜI CHAM Ở LẠI VỚI ĐẤT”

Về Nhà Trưng bày Văn hóa Cham Inrahani tại Chakleng, do nhà thơ Liêu Thái thực hiện tại Tuy Hòa, 17-4-2012, đăng trang mạng ở Australia: Tienve.org, ngày 21-6-2012.

 

Nếu nhà máy điện hạt nhân bị sự cố, việc đầu tiên anh làm là gì?

Inrasara: Sự cố? Xì, nổ hay gì khác nữa, tôi không biết được. Chắc tôi sẽ phản ứng như mọi người thôi. Di tản. Không trước hay sau, không nhanh hay chậm. Còn nếu thấy chẳng có gì nguy hiểm lắm, tôi sẽ ở lại với làng mình, bà con mình.

 

Khi anh xây dựng Nhà Trưng bày tại quê, dự án nhà máy ĐHN đã có chưa?

Ý tưởng làm nhà trưng bày đã hình thành từ hơn 20 năm trước, trước cả thời điểm tôi vào Sài Gòn. Do chưa có điều kiện, nên nó mãi bị hoãn. Đến lúc sắp triển khai Dự án, tôi càng quyết tâm hơn. Bởi tôi nghĩ, nó cần thiết hơn bao giờ hết. Đa số người Cham kiêu hãnh về nền văn hóa tổ tiên, nhưng hơi mơ hồ. Nhà Trưng bày Văn hóa Cham Inrahani mang tham vọng khiêm tốn là giúp họ hiểu biết khái quát họ từ đâu, đang ở đâu, để xác định được mình sẽ đi đến đâu, trên nền tảng vốn văn hóa truyền thống lượm nhặt gom góp và hệ thống được. Từ đó, cho dù điều gì xảy ra bất kì, người cham sẽ ở lại với mảnh đất, như là nhà mình.

 

Khái niệm bảo tồn theo định nghĩa của anh? Và Nhà Trưng bày có phải là một “đối trọng” của những dự án mà nguy cơ của nó khi xảy ra sự cố thì có thể biến một vùng rộng lớn trở thành vùng đất chết? Anh đã có giải pháp nào cho Nhà Trưng bày sau khi nhà máy ĐHN hoạt động?

Bảo tồn những gì ông bà để lại là cần thiết, để con cháu và các thế hệ sau biết được công sức và sự sáng tạo của những thế hệ trước đó. Mênh mông di sản giá trị của Champa không thể thu gom vào một nhà trưng bày. Với điều kiện hạn chế của mình, tôi chỉ muốn và chỉ khả năng lưu lại những gì có thể và thật cần thiết. Hơn nữa, tôi không xem bản sắc là cái gì đóng cứng mà luôn nhìn nó với tâm thế mở. Bởi những gì sáng tạo hôm nay, nếu hay và đẹp, thì sẽ là bản sắc của ngày mai.

Nhà Trưng bày không là đối trọng của bất cứ cái gì cả, dù sức tàn phá và hủy diệt của các đối tượng kia có khủng khiếp tới đâu đi nữa. Điện hạt nhân không là ngoại lệ. Điện hạt nhân hủy hoại tất cả, cả đồi tháp Po Klaung Girai, Po Rome, nguy cơ biến cả vùng đất nơi có cả trăm ngàn cư dân Cham cứ trú thành miền đất chết, nói chi Nhà Trưng bày nhỏ bé này. Dẫu sao, còn sống là còn hi vọng… Nhà Trưng bày đóng góp phần nhỏ vào niềm hi vọng chung đó.

 

Là một trí thức Cham và cũng là chủ bút của một đặc san, liệu anh đã tập hợp được một đội ngũ trí thức Cham đủ để cùng anh nói lên tiếng nói của cộng đồng Cham?

Nhà văn đại diện cho cá nhân mình thôi, mà không [dám] đại diện cho bất kì ai. Tagalau là tuyển tập sáng tác - sưu tầm - nghiên cứu văn hóa Cham, chứ không là tạp chí. Tôi không ý định cũng như không khả năng tập hợp lực lượng trí thức Cham. Dĩ nhiên với tư cách một trí thức ít nhiều được dư luận ngoài Cham biết đến, bà con, anh chị em cũng có gửi gắm tâm tư và kì vọng ít nhiều nơi tôi để nói lên tiếng nói của cộng đồng. Phần nào tôi đã làm được trách nhiệm đó. 

 

Liệu có vấn đề nào tế nhị và khó xử với anh, khiến anh phải đắn đo suy nghĩ, cân nhắc giữa những tưởng thưởng cá nhân anh từ phía nhà nước với những thiệt thòi đã nhiễm tận căn tính của cộng đồng Cham?

Tôi nhận nhiều giải thưởng trong và ngoài nước, chính thống lẫn phi chính thống. Tôi thấy chúng không làm trở ngại nào bất kì đến tiếng nói trí thức của tôi. Nên nhớ, tôi không gửi tác phẩm dự thi ở bất kì đâu. Cuốn sách tôi viết, được xuất bản, cá nhân hay cơ quan giới thiệu và nhận được giải thưởng. Đơn giản vậy thôi, tôi nghĩ không ai mắc nợ ai cả. Còn vai trò của tôi ở các Hội là về chuyên môn, nhất là không lương bổng.

Tôi đặt mình ở phía ngoại vi, nơi mà tiếng nói yếu ớt của cộng đồng đó chưa được lắng nghe đúng mức, để nói lên tiếng nói của họ. Ở đây là người Cham, một dân tộc thiểu số đã đóng góp rất nhiều cho đất nước Việt Nam ở hôm qua, nhưng hôm nay, khi Chính phủ lên Dự án ảnh hưởng toàn diện đến đời sống của họ, họ lại không được hỏi ý kiến. Thế thôi, không có gì phải đắn đo cân nhắc, nói chi chuyện khó xử.

 

Anh vui lòng diễn giải rộng về Nhà Trưng bày, về sứ mệnh của nó cũng như của anh và dự đoán tương lai của cộng đồng? Thái độ phản ứng của cộng đồng trước dự án vừa nêu?

Chakleng là làng dệt thổ cẩm nổi tiếng của Cham. Nhà Trưng bày ở trung tâm làng. Bạn thấy đó, đất nước mở cửa, bảo tàng tư nhân mọc lên khá nhiều, chủ yếu tập trung ở các thành phố lớn hay tại các khu du lịch. Nhà Trưng bày này thì khác, được dựng lên giữa cộng đồng và cho cộng đồng.

Với khuôn viên 400m2, Nhà Trưng bày được phân làm 4 gian gần bằng nhau. Gian trước trưng bày các bản sao nghệ thuật các bức tượng cổ bằng chất liệu sa thạch, tủ sách cố Cham và tác phẩm của tôi, nhạc cụ, các bản đồ chỉ dẫn "khu di tích Champa" và "khu dân cư Cham"… Gian kế tiếp án ngữ chiếc xe trâu cổ, là một trong ba chiếc còn lại tại Việt Nam. Xung quanh xe trâu và quanh ba bức tường là các nông ngư cụ, đồ dùng hàng ngày, dụng cụ đánh bắt, gốm Cham… Gian thứ ba ưu tiên cho dụng cụ dệt và các sản phẩm thổ cẩm, y trang phục Cham cổ và hiện đại. Cuối cùng là gian dành cho Tủ sách INRA với 5.000 đầu sách các loại.

Đừng nói sứ mệnh gì cho to tát, điều khác biệt chính là tính phục vụ cộng đồng của nó. Nhà Trưng bày mong cung cấp cho người Cham và người quan tâm đến dân tộc Cham kiến thức căn bản và khái quát về văn hóa văn minh Champa xưa và đời sống Cham hiện nay, bằng hiện vật thực, hiện vật sao chép, hình ảnh, sơ đồ và sách báo... Đến gian thứ tư - Tủ sách INRA - gian tôi cho là quan trọng nhất, “sống” nhất mang tính hướng về tương lai - do thiếu tiền mà chịu dang dở, cho nên tôi chưa có ý định quảng bá nó. Nhưng dù sao bà con Cham và du khách cũng đã biết đến nó, đến với nó với một sự ưu ái riêng.

 

Và tôi đã có quyết định.

- Mình sẽ dựng ‘Thang Halam’, tôi nói với My. Nhà văn Inrasara làm được, chúng mình cũng có thể, sao lại không em hén. Cùng hỗ trợ nhau, giúp bà con Cham ở lại với đất, cùng tồn tại.

Tôi đã hiểu Cham chưa, ngay Cham Tây ở Châu Đốc, Tây Ninh sát cạnh, tôi cũng không. Tôi phải về, để rồi qua tháng tôi chưng hửng. “Kiếp lục bình trôi” không thể dùng từ nào khác. Đó không phải chữ của tôi, mà là của Ông Đột người thôn Palao Ba thuộc xã Vĩnh Trường, tỉnh An Giang đặt cho.

 

Tan tác, từ miền Trung, sinh linh Cham vượt biển qua Malaysia, băng rừng qua Cambodia, một bộ phận quá mỏi mệt - trụ lại sông nước hoang sơ miền Tây. Rồi không lâu sau, kẻ từ đất Mã đi đường vòng trở lại Việt Nam kiếm bà con, người chạy giặc từ xứ chùa tháp quay lại tìm an toàn nơi đất cũ, lập làng dựng ấp.

Ấp Châu Giang và ấp Phum Soài thuộc xã Châu Phong hình thành từ nỗi ấy.

Ông Muhammad Yusoh là cháu năm đời của Dukam Hadj Ahmad cho biết vậy thôi, chấm hết. Không gì thêm. Không lưu ảnh, cũng chẳng có miếng gia phả nào để lại. Ông chỉ biết rằng, sau đó người Cham lấy vợ cưới chồng người Khmer hay Việt thất thế tìm đến làm ăn, và được bà con cho vào đạo. Islam thì phải vậy, tiếc là hầu như không có khuôn mặt nào xuất sắc nổi lên từ sự pha giống này. 

Châu Phong có bốn ‘Sang Mưgik’: Azhar, Mubarak, Nek Mah Muhammad Diyah cùng ba ‘Surao’. Có vẻ hơi dày so với dân số. Không sao! Cham cần dựng tháp, xây ‘Sang Mưgik’ để xác định ranh giới cộng đồng.

 

Xác định ranh giới đất để trụ, mà đâu đã yên.

Người Việt tới đông, va chạm nếp sinh hoạt khác biệt, Cham thêm một lần di cư, đi qua bên kia sông, tìm đất hoang mà phát rừng dựng làng, tiếp tục đời sống lây lất.

Ngay đầu thế kỉ XX, ba gia đình dời bỏ bốn ‘puk’ “xóm”: ‘puk’ Dalam, ‘puk’ Krưh, ‘puk’ Koh‘puk’ Nek Mah thuộc xã Châu Phong đi qua – Hadj Hôsên 80 tuổi được xem là “già làng” kể. Bà con dựng ‘puk’ Koh Pabuak (xóm Suốt Tơ) với chiều dài chạy dọc con đường hiện tại khoảng ngàn thước. Kể, ông cứ tiếc hùi hụi, biết thế này ta ở giãn giãn ra để dành đất cho bà con mình đến. Bởi chưa tới mươi năm sau đó, đã có vài trăm gia đình tụ hội, đến nay dân số lên tới hai ngàn người. Chật chội, ẩm thấp đến nhiều gia đình phải chịu dời lên nhà trên ở tạm vào những mùa nước nổi. 

‘Sang Mưgik’ đầu tiên dựng lên, phá đi xây lại ba bận mới nên hình hài ‘Sang Mưgik’ như hôm nay vào năm 1992. Đó là ‘Sang Mưgik’ “bên cũ”, cách đó không bao xa là ‘Sang Mưgik’ khác thuộc “bên mới” gồm khoảng vài chục gia đình mới tách ra từ 20 năm trước. Hadj Hôsên cho biết, cũ mới chỉ có mỗi thao tác “vuốt” với không vuốt mặt mà đã chia tách, buồn là vậy.

Dọc theo con lộ, cách khoảng 30km là ‘puk’ Koh Goy, rồi ‘puk’ Koh Giê thuộc xã Đồng Ki, ‘puk’ Ia Đôic thuộc xã Vĩnh Hội, ‘puk’ Sabao thuộc xã Khánh Bình. Cham An Giang khoảng 14 ngàn người mà cư trú khắp chín xã, trong khi riêng làng Hamu Tanran tỉnh Ninh Thuận đã đến vạn dân, đủ thấy sinh linh Cham ở đây rải rác thế nào! Ông Hadj này cũng cho biết, trước đây ‘Cham Awal’ tức Cham Bà-ni cũng có qua đất này, nhưng không lâu sau “họ” biến đâu không thấy nữa.

  

Từ Châu Phong, một bộ phận không trụ đất ‘puk’ Koh Pabuak, mà đi qua sông dời lên Palao Ba thuộc xã Vĩnh Trường cách đó ba cây số. Ông Đột cho biết vùng này lúc ấy vẫn còn là ‘haluk Kur’ “đất Khmer”. ‘Sang Mưgik’ đầu tiên dựng vào năm 1813, rồi 1907, 1970 và sau cùng chính phủ Thổ Nhĩ Kỳ cho xây một ‘Sang Mưgik’ lớn Roh Mah khai trương năm 2017.

Thống kê mới nhất vào năm 2018: Palao Ba là xóm toàn Cham gồm 636 hộ, 2.739 người, nhưng sở hữu chỉ 17ha. Thảm vậy đó! Đánh cá sông là nghề chính, mà mươi năm qua sông không còn cá để đánh bắt. Làm gì? Thế là họ đành sống đời phiêu giạt của kiếp lục bình. 60 phần trăm dân làng tản đi buôn bán xa, đi có khi cả tháng mới về dăm ba bữa, lại đi tiếp. Chả khác chi dân Pabblāp ở Phan Rang. 15 phần trăm còn lại phân tán đi làm công nhân; riêng Củ Chi đã gom 60 hộ đến tạm trú. Mùa Ramadan hay Roya bà con hiếm khi về. Bởi nghỉ lâu là bị công ty cho thôi việc, không sai. Thế là công nhân bất đắc dĩ này chỉ tập trung về ‘puk’ những ngày Tết Nguyên đán. Đám cưới hay lễ lạt ngoài tôn giáo đều làm trong mùa đó. Mất gốc chăng? – Không, tuyệt đối không.

Có phong trào mới động phản lại dòng sống hiện đại đó. Nếu phong trào Davah (Tà vả) du nhập năm 2012 chỉ lác đác vài gia đình theo, năm năm sau đã thành đại trà. Các cô gái Cham Islam đã che mạng, ngày càng kín kẽ hơn. Ba năm thành lệ, giờ đã làm truyền thống không thể bỏ, dù có không ít người bất đồng, vì bất tiện.

Nữa, ‘Sang Mưgik’ Roh Mah mỗi ngày tập trung cả khối thiếu niên cả nam lẫn nữ về học kinh Kura-ưn. Cực bài bản.

 

Trôi giạt đi kèm với khó khăn.

Xóm Đa Phước được xem là điểm nhấn du lịch An Giang. Trên những chiếc cầu gỗ nhỏ nên thơ, du khách lên ca nô, xuồng máy đi vào vùng sông nước hãy còn hoang sơ không phải không thích thú. Thế nhưng dân làng cho biết, ít có du khách trở lại lần hai, do tổ chức của ta vẫn còn khá nghiệp dư.

Dệt thổ cẩm truyền thống ở xóm ‘puk’ Koh Pabuak ngày càng teo tóp. Xóm chỉ có mỗi khung dệt còn hoạt động cho có màu, còn thì bà con lấy hàng từ “Nam Vang” về bán. Mẫu mã cũng là mẫu mã chung, cóp ở đây một ít kia một ít, thậm chí chỉ cần gom các nơi về bán. Ế cũng phải.

Làm gì, để sống sót? Vẫn là câu hỏi đầu tiên và cuối cùng.

 

3.

Cuối năm 2013.

Tối qua, tiễn em lên xe đò về quê. Sáng sớm tôi phone:

- ‘palei’ mình có gì lạ không em?

- Không hỏi em, mà hỏi ‘palei’ trước, anh kì không? - Em nói.

- Không kì đâu mei, hỏi ‘palei’ để thăm sức khỏe em đó mà.

- Drit rét lắm anh, - em nói.

- Em phải mang găng tay với lại trùm khăn mặt suốt thôi, khéo vào Sài Gòn xấu xí anh lại chê. - Lát sau em nói.

- Đừng em à. Hãy cho nắng Cham ninh em, mặc cho gió quê hương phang vào da thịt em. Thoải mái đi. Cứ để bàn chân trần em bước xuống con mương, bàn tay trần em cầm lấy bó mạ. Không xấu đâu, anh thương mà. 

- Anh lại đùa em rồi, - em cười. Tôi nhìn thấy hàng răng em qua giọng cười quen thuộc.

- Không đùa đâu. Vào, anh sẽ hôn thật lâu bàn chân ấy.

- Lại học đòi dân thành phố, chán chết.

- Ui, mấy thứ sản phẩm đồi trụy đó, học gì mà học. Đó là bàn chân quê hương, em à. Anh sẽ hôn thật lâu bụi đất ‘palei’ mình…

- Anh sến thấy mụk ngoại luôn đó…

- “Không sến thì không thành thơ tình”, thơ cei Sara đấy.

Em im lặng, tôi thêm: “Ôm em trong tay mà đã nhớ em ngày sắp tới”.

Em không nói. Tôi tiếp:

- Không phải thi sĩ Cham đâu. Thanh Tâm Tuyền đấy. Xưa ông bà Cham lãng mạn chả kém: Brei ka klaung cum dhul di palak takai Po! Cho con được hôn bụi đất dưới bàn chân Ngài… Kệ, có nhà thơ nào thiếu chất sến.

 

‘palei’ có gì lạ không em?

19-1-2013

Tôi hỏi em. Tôi nói với em, tối qua anh vừa nghĩ ra ý niệm cho tiểu thuyết. Tiểu thuyết thời sự xã hội. Anh khởi động viết nó ngay từ buổi sáng nay, khi em về đến quê. Mỗi ngày một chương. Dài hay ngắn tùy cảm hứng với sức khỏe anh và nỗi nhớ em. Viết, không phải để nguôi nhớ, và để tăng cường cái nhớ kia. Em đừng cười phô hàng răng đẹp nhé. Về bất cứ đề tài gì vừa nảy sinh trong xã hội Cham nhỏ bé của chúng ta. Của em và anh. Mọi vấn đề được gợi hứng từ em. Tiểu thuyết mở. Chữ nghĩa và hình ảnh. Thư và tin. Sự kiện và nhận định. Dư luận và tác động của nó. Mọi người đều có thể dự phần cùng viết, cùng nói lên ý kiến của mình. Nếu hứng, một đứa con Cham vô danh nào đó bất chợt xuất hiện, và dự phần. Có khi họ còn sáng tạo nhiều hơn tác giả của tiểu thuyết này nữa không chừng.

- Như Em có gì bí mật, hãy mail cho anh của Nguyễn Viện hả anh? - Em hỏi.

- Gần như thế. Còn tên tiểu thuyết, anh tạm xài tên bài thơ Nguyên Sa: “Paris có gì lạ không em?”

- Anh lại sến rồi, - em cười lanh lảnh.

- Ừa, thì sến. - Tôi cũng cười.

Em email cho tôi.

“Rét quá anh à. Gió và rét. Quê hương mình muôn đời cứ chịu đựng nỗi này. Sáng hôm qua, đợi chiều qua Trung tâm, em chạy xe một vòng quanh ‘palei’ Chăm. Mùa màng nhiều nơi đã xong. Nghe bà con kể vụ mùa rất khá. Anh chớ lo, em đã vứt khen che để được thở không khí đồng quê, để nghe lại mùi rạ và bùn đất. Em có dừng xíu trước cổng ‘palei’ anh, nhưng không vào làng. Cũng hơi nhớ anh”.

- Em vừa bảo qua Trung tâm. Bên đó có gì lạ không em? - Tôi hỏi.

- Trung tâm Nghiên cứu Văn hóa Chăm đang kỉ niệm 20 năm ngày thành lập ở Ninh Thuận, anh à. Bà con đến đông, sách trưng bày nhiều, hay lắm.

Hay lắm! Nhưng để làm gì cơ chứ, mấy nghiên cứu trịnh trọng kia, ai nhìn thấy nó ở đâu? Nói chứ, anh không chống cái sự nghiên cứu, anh chỉ hỏi: để làm gì? Nó có đi vào đời sống thực của Cham không? Các công trình nặng bao tải ấy, có ma mà biết! Vậy ta làm cho ai?

- Dạ, anh nhắc em mới nhớ - em nói nhỏ.

- Còn Trung tâm nhà ta, họ cất cái “chức năng giới thiệu các giá trị văn hóa Cham đến với nhân dân trong nước và nước ngoài” ở đâu? Có bao nhiêu mạng Cham hưởng được thành quả kia? Ta muôn đời hô tiếp thu truyền thống ông bà để sáng tạo ra cái mới, hỏi đâu là truyền thống để ta tiếp thu?

- Dạ, em thấy bảo tàng cũng đóng cửa suốt...

- Vậy phải làm sao, anh? - Lát sau, em hỏi.

Cha nói Trung tâm Văn hóa Chàm do ông Cha người Pháp lập ở thị xã Phan Rang, khi ấy sơ sài lắm vậy mà đã làm được bao nhiêu chuyện. Đến nó thành biểu tượng của Cham. Hồi cha đi học có tạm trú ở đó hơn năm. Ông nội những lần có chuyện xuống thị xã đều ghé thăm. Bà con Cham ra vào Trung tâm như nhà mình ấy.

- Không phải anh chị em bên nớ dở, - tôi nói, chỉ do ta quá xa rời quần chúng. Mà thiếu quần chúng, thì món hàn lâm kia đứt đuôi cái thằn lằn rồi còn gì.

- Anh lại đùa rồi.

- Ừa, thì đùa xíu. Chứ đời nó mênh mông nhiêu khê lắm, biết đâu mà lần.

- Thôi nói chuyện mình đi em.

- Dạ, có gì mới em mail cho anh.

- Phone đi em.

- Để làm gì?

- Để anh nhìn những đường răng em trắng

- Lại sến nữa rồi.

 

- Mình có nên hôn nhau từ biệt không em? - Tôi hỏi, khi em chuẩn bị bước lên xe.

- Anh cói, người ta cười chết. - Em nguýt tôi.

- Đấy đấy, em thấy đó. Người yêu cãi nhau to tiếng trước mặt mọi người thì được, còn hôn nhau chia tay thì không. Vợ chồng nắm tóc nhau giữa ban ngày ban mặt thì được, còn xa nhau lâu ngày gặp chạy tới ôm chầm lấy nhau thì không. Em không thấy lạ sao? - Tôi nói một hơi, như thuộc bài.

- Thôi mà anh, Tây nó khác. Hôm nào không có ai nhìn, mình làm Tây một bữa…

Em cười. Tôi cười.

 

Sáng sớm nay, tôi nhận email em:

“Cảm giác em lúc này rất trống vắng. Hệt các ‘palei’ Cham. Làng vắng hoe, anh à. Có gia đình cả ba đứa con cùng vào làm xưởng may ở Đồng Nai, bỏ lại cha mẹ già. Còn đỡ, gia đình cả cha lẫn mẹ với anh cả đi buôn xa, nhà chỉ còn ba đứa nhỏ trông coi nhau, mà đứa lớn có lớn gì cho cam, mới học đến lớp Mười một. Đi, có khi ba, bốn tháng mới về. Ai sẽ dạy dỗ đám nhóc, mà dạy thế nào, ai mà biết được.

Em thử đi qua Bal Caung, Ram. Cũng vậy. Vắng. Hơi thở sống động của làng xưa dường như vừa đi vắng. Ruộng đất phân chia đồng đều đầu người. Loáng cái, mấy gia đình nghèo bán lại cho người có tiền. Cứ thế, hiện làng còn rất ít chủ sở hữu phần ruộng. Không việc làm, bà con sống và chờ đợi. Chờ đợi tin, tiền từ các thành phố, miền đất lạ.

Qua Cwah Patih ghé nhà người quen. Hai ông bà suốt ngày ôm đứa cháu chờ tiền con gái đi xuất khẩu lao động tận Mã Lai.

- Mấy tháng đầu thì có vài triệu gửi về, cả tháng nay không đồng nào cả. - Bà kể. Nó gọi điện về bảo công ty trước của nó phá sản gì đó, bán nó cho công ty mới lương chỉ đủ tiêu. Mượn đỡ chị bạn cùng phòng hai triệu tính mang đi gửi cho thằng Klu lại bị cướp chặn lột hết. Trốn về thì được, nhưng nợ ngân hàng lấy đâu mà trả. Hỏi có khổ thân không!

Tối qua, trên đường em về em chạy qua nhà nhỏ bạn học cũ xíu. Cô này càng thảm hơn. Làm việc sao quanh đi quẩn lại chưa đầy năm đã thương một chàng cùng công ty. Rồi non năm, đứa con lai oe oe mở mắt chào đời. Thương thì có thương thật. Nhưng khi bà mẹ thằng chồng chưa cưới mà đã có con ấy biết chuyện, hỏi:

- Nghe nói người Cham theo chế độ mẫu hệ, con theo về với mẹ phải không?

- Dạ, - nó nói.

- Nghe nói bên ấy làm đám thiêu chỉ chừa lại tro?

- Dạ thưa, chín miếng xương làm lễ nhập ‘Kut’ ạ.

- Thì có khác chi.

Im lặng.

- Vậy thì còn đâu dấu vết mồ mả tổ tông!

Thế là ngay khi đứa con dứt bú, nó bị cho về.

Nhỏ bạn ở Kraung may mắn hơn. Tên sở khanh quất ngựa truy phong ngay khi biết nó dính bầu. Thế là nó một mình làm nuôi thai, làm nuôi con, rồi để khi thằng bé biết bập bẹ thì hai mẹ con bồng bế nhau về nội”.

 

- Có mảng nào sáng không em? - Tôi hỏi.

- Không, buồn lắm anh, chuyện về các cô gái Cham ấy mà - em nói. - Em vừa nghe một chuyện nữa nè… Thôi, để khi nào gặp kể thì tiện hơn.

- Em có nghĩ ngày nào đó sẽ có cô gái Cham dính sida không? - Thật lâu sau, tôi hỏi.

Em im lặng. Tôi nghe tiếng em thở qua điện thoại. Tôi nói:

- Hai mươi lăm năm sau đổi mới, ta sở hữu đủ cả. Đồng ruộng ta được phân lô ngăn nắp với thủy lợi ổn định cho cả ba mùa vụ nè. Đường nhựa vào làng, các ngõ chính nội làng đã bê tông hóa nè. Mạng lưới điện nông thôn phủ khắp xóm làng nữa nè. Rồi nào là trường đẹp và nước sạch ta có đủ. Các cụ có khoản cho tuổi già, các hộ nghèo được tiền trợ cấp, thanh niên ta có Dream, Citi, Space đủ loại. Thêm mấy chiếc ôtô vi vu ngược xuôi đường làng.

- Em có cần kê khai thêm không? Nhé! Các cô gái Cham bắt đầu ra đi… Xưa mấy em bám ‘palei’, bám ‘Kut’, ‘Ghur’ đất nước đổi mới, các em trôi giạt, và trôi giạt nhiều hơn cả. Trôi giạt, các em mang về ‘palei’ những gì nào? Các em sẽ có nhiều tiền để giúp gia đình hơn, học nhiều bài học khôn ngoan hơn, có vài lề thói ứng xử mới lạ hơn. Gì nữa? Các em có nhiều bộ cánh đẹp hơn, có niềm vui thoáng qua cùng với nó là nỗi buồn gặm nhắm, sự mất niềm tin, và điều không thể tránh, là sida. Cả sida tâm hồn nữa, chắc chắn thế.

- Không buồn sao? - Tôi hỏi, không phải với em, mà với tôi.

- Dạ, - em nói, rất khẽ.

Tôi nói với em em nhớ không, lần đầu tiên mình gặp nhau, lần đầu tiên mình hôn nhau, rồi lần đầu tiên mình ăn nằm với nhau, sao em không hỏi anh chuyện bao cao su. Không hỏi gì cả. Mười năm làm dân thành phố, biết đâu anh mang trong mình căn bệnh nào đó. Em đã không đòi hỏi gì cả. Như nhiều cô gái quê Cham đã không đòi hỏi một thứ gì cả. Truyền thống dạy các em thế. Em tin, hay lắm. Nhưng đó là niềm tin chứa trong nó bao đổ vỡ.

Em im lặng. Tôi nói với em, anh đã có một đời vợ, em cho anh mà không đòi hỏi gì cả. Biết đâu, khi tặng cho em bầu tâm sự, anh sẽ rú ga xe bỏ đi. Như khối anh chàng vội quành xe chạy thoát thân. Em sẽ mang nó đi đâu? Về ‘palei’, chắc chắn thế.

- Nhưng em biết, anh yêu em. - Em nói.

Tôi mường tượng đôi mắt em nhìn sâu vào mắt tôi. Tôi nói:

- Em nhìn thấy mắt anh không?

- Dạ có, - em nói. - Và em tin anh.

- Buồn quá em nhỉ, - tôi nói. Một lúc lâu: - ‘palei’ có gì lạ, mail cho anh nhé.

 

______________

Câu chuyện em kể về cô gái Cham bỏ con về ‘palei’ một mình mãi ám tôi, không dứt ra được. Tôi nghĩ phải có chuyện gì đó ghê gớm lắm, để một người mẹ mẫu hệ đã đành đoạn như thế. Em không cụ thể. Em không biết để mà cụ thể.  

Rồi khi Điện hạt nhân triển khai, bao nhiêu nữa người nữ Cham bỏ đất, bỏ ‘palei’ ra đi?

 

4.

Tháng 8-2013

‘Palei’ có gì lạ không em?

- À anh, anh có biết Trường Pô-Klong không?

- Biết em à. Cha nói trường đầu tiên của Cham, thầy Cham học sinh Cham. Cha nói trường đã đào tạo cả thế hệ trí thức Cham phục vụ cho chế độ…  

- Anh biết thầy Bah không?

Cha nói không thầy Thành Phú Bá thì không có Trường An Phước, một học trò An Phước khóa đầu tiên tự tin tuyên thế. Một anh khác cái, phải là bộ tam cơ: Thiếu tá Dương Tấn Sở, không thầy Thành Phú Bá, không anh Năm [tức Quảng Văn Đủ]. Còn một anh Chakleng kêu cha nói, Chakleng cần nói lời cảm ơn thầy Bá nhiều nhất, chớ trước khi An Phước ra lò, Chakleng có đâu mấy mống học lên Trung học. Ngay khóa một, sáu mang; khóa hai: bảy anh chị, rồi… Nói thế không phải không đúng. Trường Trung học An Phước tiền thân của Trường Pô-Klong là nền móng đầu tiên dựng nên nền giáo dục Cham hiện đại, ở đó thầy Thành Phú Bá đóng góp công đầu.

- Có gì không em?

- Thầy ấy vừa từ Mỹ trở lại.

- Có nhiều người từ nước ngoài về…

- Nhưng thầy ấy về ở luôn.

- Là sao, em?

- Điện hạt nhân ấy, thầy về làm ‘ong Camưnei’ ông Từ giữ tháp Pô Klong Girai.

Cha nói đời ông là một chuổi cơ khổ như định mệnh vận vào tên ông. THời An Phước, một tay ông làm bao xâu tất cả môn học cho 65 học sinh trong một môi trường như thế, phải nói là kì công. Ông người chân phương, cha nói, cái gì cũng chân phương. Nói, cười, dạy, lối hành xử, chân phương đến cả chữ kí. Tìm được con người xã hội mà có tâm tính hòa ái như ông Bá phải nói là cực hiếm trong cái xã hội đầy cạnh tranh này.

- Thầy sẽ ở đó luôn, cả khi lò ấy bị xì.

Cha kể hồi giải phóng, mấy bận ộng bị vào tù ra khám bởi nỗi… “cá Rô”. Thật giả trúng trật mù mờ, chỉ có lịch sử phán xét – như cách nói dễ dãi của người đời. Dẫu sao, với tấm lòng nhân hậu, ông không thể không giúp người một khi họ gặp hoạn nạn. Ra tù, làm ruộng, trồng nho, nuôi heo như bao nông dân Cham khác.

- Tuyệt vời em, phải nói là tuyệt. Nòi giống Cham không bao giờ tiệt hết gien hi sinh cao cả đâu!

Cha nói, cha đã học thầy Bah hồi trường còn mang tên An Phước, sau hai năm ở Pô-Klong cha chuyển qua Duy Tân trường Việt.  

 

- Còn nữa, anh.

Im lặng giây lâu: Anh đọc Chân dung Cát của Inrasara chưa?

- Chưa, em à. Có gì ở đó không?

- Chương “Đi tìm bản trường ca bỏ hoang” ấy, lạ lắm. NHân vật ấy cũng đã trở về…

- Em tóm tắt cho anh đi.

Này nhé, trường ca Ariya Bini - Cam kể, hoàng thân Bà-la-môn yêu say đắm cô gái Islam từ Mưkah. Cô gái đáp trả chừng mực, cho việc truyền bá đạo Hồi vào vương quốc Bà-la-môn được thuận lợi hơn. Mối tình trái ngang đổ vỡ kéo theo cuộc chiến tranh huynh đệ. Sau đó là tan rã quê hương, ly tán của cả dân tộc. Kế hoạch thất bại, nàng lên tàu trở về cố quốc.

Nhân vật Chế Khan quyết rằng mọi chia rẽ của Cham xuất phát từ nỗi đó. Tứ bấy cho đến hôm nay, cả cái mà trí thức Cham ở Mỹ định danh là “Chiến trường Akhar thrah” cũng vậy.

Anh thử đọc đoạn này:

- Dứt khoát là có một trường ca khác. Tui phải tìm ra nó! Chế Khan đột ngột kết luận. Có phải thâm ý của cha Mưhuê là muốn con trai ông truy tìm bản trường ca này, như trối trăng của vị hoàng thân kia không?

- Nhưng làm sao ông quyết đoán thế khi chỉ dựa trên tâm trạng? Tôi hỏi.

- Này nhé: Biết rằng, ngay từ thế kỉ XVI, khi đất nước đang thời nguy khốn sau biến cố Vijaya, khi đã chán ngấy tinh thần văn hóa Ấn Độ, Champa dõi mắt sang nền văn hóa mới, niềm tin mới: Islam. Để đến đầu thế kỉ XVII, vua Po Rome phải hối hả xắn quần vượt biển Đông qua Kalentan mong bốc đơn thuốc cho sinh mệnh dân tộc. Nhưng Hồi giáo, như cô gái xinh đẹp, đến quá muộn màng. Định mệnh đã xuống tay. Thực tế, Hồi giáo cũng không cứu vãn nổi nguy cơ đang ập đến. Chẳng những thế, Hồi giáo hầu như – qua tiếp xúc và va chạm – còn góp ngón út đẩy cho đại bi kịch xảy ra nhanh hơn:

- Qua cuộc tình một chiều này, ở chiều sâu của thi phẩm, thi sĩ hé lộ cho chúng ta thấy phương thức truyền Islam vào Champa, tâm lý Cham khi đón nhận nó và ảnh hưởng của nó trong Vương quốc – những sự kiện không tư liệu lịch sử nào ghi nhận.

- Dĩ nhiên thi ca đã mang chở nó rất tình cờ. Lúc sau, hắn nói, không nhìn tôi:

- Trước và sau biến cố Lê Văn Khôi, có hàng loạt tác phẩm thế sự lớn ra đời. Lẽ nào trước đó chưa đầy thế kỉ, với biến động quyết định như thế lại chỉ đẻ ra một trường ca trữ tình-thế sự?

- Nhưng bản Ariya Bini - Cam mà chúng ta biết là bản chưa trọn vẹn…

- Không. Nó là một trong ít văn bản hiếm hoi còn tồn tại và là văn bản hoàn chỉnh.

Im lặng.

- Phải có vài trường ca khác đang lưu lạc, chắc chắn.

Chế Khan. Tôi chưa bao giờ nghĩ hắn rành rọt thế, chắc nịch thế, kẻ luôn suy tư mù mờ và khoái hoạt để cho cái mù mờ được là thế, cứ là thế; kẻ đã phát biểu lạnh như dao cắt rằng chớ khờ khạo tin vào xã hội Cham ngày mai không lây nhiễm đĩ điếm cướp của giết người, xã hội mẫu hệ tan rã làm phân mảnh tất cả những gì gọi là cố kết vững bàn thạch ngàn năm; kẻ ngay sau đó tuyên ngôn lớn tiếng rằng giải thoát không là chạy trốn như loài chuột nhắt hay chúi nhủi đà điểu mà là đi trước, tan rã trước cái tan rã. Kẻ từng nhận định triết lí Cham là thứ triết lí hổng chân nhất trong các thứ hổng chân, hổng chân đầu tiên và cuối cùng. Suốt 20 năm. Đột ngột hôm nay nổi hứng bốc một phương thuốc tối hậu chữa trị căn bệnh xã hội đó khi lập ngôn độc địa rằng nó xứng đáng là lý tưởng sống của thanh niên Chakleng thế kỉ XXI: triết lý hổng chân. Hãy tái khám phá nó, yêu thương nó, bảo tồn và phát huy nó, bởi chính nó chứ không phải gì gì khác sẽ cứu vớt chúng ta, ngày mai. Chân lý vừa tìm thấy như thọc lét hắn khiến hắn vỡ cười làm lồng ngực rung lên ùng ục. Nhưng xã hội Cham hậu-mẫu hệ, hậu-rã đám sẽ như thế nào thì hắn lí giải rất mù mờ. Cái hắn biết chắc bây giờ là hắn đã đi trước, dzọt trước để khoanh tay nhìn nó xảy ra. Làm cái gì hắn thích, hắn thấy nó có ý nghĩa hoặc chính hắn ban ý nghĩa cho nó. Chấm hết. Hắn không rung đùi, nhưng qua giọng nói đầy âm sắc thanh thoát tôi biết hắn đang rất khoái hoạt.

 

Thế là nhân vật này đi…

Những trận đi vô định gần như vô tận của Chế Khan dễ gợi cho ta xem nó như cú chơi khăm của định mệnh lên cuộc sống ru rú của hắn suốt 20 năm ròng từ khi anh rời Chakleng lên Playku học cho đến có hai mặt con với Lâm làng Văn Lâm con gái Bà-ni đầu tiên cưới chồng Cham Bà-la-môn mà kẻ độc miệng bảo đó là nỗi đày đọa mang tính tổ tông vô phương cứu vãn.

Kẻ bất ngờ bàn giao công việc tại Phòng Nông nghiệp huyện sau sáu năm gắn bó nhiệt tình rồi đột ngột từ bỏ gia đình yên ấm với bà vợ cùng hai đứa con, rời làng đi biệt hai tháng, trở về một năm rồi lại biệt tăm, nếu không chập thì cũng bị ám bởi cái gì đó vượt ngoài tầm suy đoán của người đồng loại, dù là ông láng giềng trà tối hay cô thư kí thường trực Phòng mà câu chuyện thường ngày không bao giờ việt vị khỏi vũ trụ tem phiếu, lên lương, biên chế, tâm tính đồng chí thủ trưởng; hay cả tôi mà hắn xem như bạn tâm giao độc nhất vô nhị trong các cơn bình phẩm hiếm hoi không đầu không đũa tổ tiên ngàn đời chẳng để lại gì ngoài gia tài rách rưới cho những tâm hồn rách rưới trong cuộc sống rách rưới này.

 

Rồi ông gặp nàng Mưhuê nơi làng Cham heo hút đó. Họ có với nhau mụn con trai. Rồi ông lại đi… Chương tiểu thuyết kết thúc với đoạn:

Một tuần sau, Chế Khan rời Mali. Hôm từ biệt, hắn trả lại nàng Mưhuê tập trường ca. - Biết đâu con trai chúng mình lại cần đến nó để tìm cha.

 

- 75 tuổi, ông trở về cố hương.

- Buồn quá nhỉ!

- Nghe nói ông khen ngợi tinh thần T’Maung, kêu T’Maung là anh hùng, nhưng tui chí muốn nhổ vào cái Hầm đó.

Cha nói sự đối kháng là cần thiết.

- Ngôi nhà ông bỏ lại khi xưa hiện đang bỏ hoang, con cháu ổng đã vào Phan Thiết từ năm ngoái. - My nói, ông về sống ở đó. Có lẽ anh không nên gặp ông. Ông cô độc như con sói già ấy.

 


Hắn đi. Mười năm qua nhanh như thổi.

Dân Văn Lâm, Chakleng không còn thấy Chế Khan về làng vào những dịp Ramưwan hay Katê nữa. Không ai biết hắn làm gì, ở đâu.

Mãi khi ngài giáo sư Trần Hùng nhắc tên hắn vào một sáng kia…

 

 

 

 

       

 

 

 


 

 

4.

Tháng 9-2013

- Mình xuống đây đi em.

Tôi nắm tay em đi qua phần ‘Ghur’ cạnh bờ biển. Hơn trăm hòn “đá ‘Ghur’” nằm co rúm như vẫn còn hãi sợ trước vô tình của tự nhiên và vô tâm của lòng người.

Ở Ninh Thuận, ngoài ‘palei’ Bauh Dơng ‘palei’ Cang nằm sâu trong đất liền, năm làng Cham Bà-ni còn lại cư trú dọc duyên hải. Xưa kia, có khi họ là làng chài nữa không chừng. Thế nên tất cả ‘Ghur’ đều nằm sát biển. Chỉ sau này, ‘palei’ Pabblap với Rơm dời lên, lập ‘Ghur’ mới, ‘Ghur’ yaw trở thành bán [bỏ] hoang. Dẫu sao bà con không để nó hoang hẳn. Không để hoang hẳn, nhưng vẫn cứ bỏ trống trơn hay sửa sang cho khang trang. Sự điêu tàn vốn có của ‘Ghur’ càng làm cho ‘Ghur’ mang vẻ tàn điêu hơn bao giờ. Nắng, gió và cát. Linh hồn triệu sinh linh nằm dưới đó trong một khuôn viên nhỏ bé - hỏi linh hồn có bình an? Trong lúc đó, ngoài mấy ‘Kut’ đã hoang hẳn, hầu hết ‘Kut’ Cham Ấn Độ giáo đã được ‘hiện đại’ hóa.

- Cơ quan chức trách bảo cần lập sổ đỏ, anh ạ.

- Sổ đỏ cho hàng triệu linh hồn đang cư ngụ trong chính “ngôi nhà” mình ư? Di tích rành rành kia. Lạ nhỉ!

- Lạ thế đó.

- ‘palei’ mình còn nhiều cái lạ lắm… - Em nói.

Tôi trải tấm khăn trắng lên nền cát trắng bạc đang dần sẫm tối dưới nền trời chiều sắp tắt. Tôi khui chai rượu nhỏ mang theo, rót rượu đầy cái nắp chai đặt ngửa. Chúng tôi quỳ gối lên tấm chăn, mắt hướng về phía mặt trời mọc. Chúng tôi nắm chặt tay nhau, mắt nhắm lại…

Con lạy Yang trên trời dưới đất con lạy mọi Yang biển Yang sông Yang suối Yang bên hai bờ vai trước mặt sau lưng con lạy Yang cho ‘Ghur’ này được tồn tại được có mặt dẫu vô danh trong đêm mờ xin Yang đừng lấy mất đi dấu vết cuối cùng của ‘Ghur’ con lạy Yang cầu Yang xin cho mọi vết tích của tổ tiên ông bà con được lưu lại trên trần gian bụi bặm con cầu Yang cho mối tình chúng con may mắn được may mắn hơn cuộc tình Cham Bini hơn cuộc tình Bini Cham chúng con cầu Yang xin Yang đừng chia xa chúng con chia xé con và người yêu con như hoàng thân Cham đã như cô gái Bani đã con cầu xin Yang nâng đỡ linh hồn chúng con cầu Yang Thần Yang Tháp Yang cha Yang mẹ Yang núi Yang biển Yang trên trời dưới đất con xin Yang cho chúng con được gần nhau mãi mãi mãi mãi con xin Yang chút may mắn hơn… Heleh…

 

- Em đang dạy sắp nhỏ múa Apsara anh ạ, - em nói. Tôi nhìn hàng răng em cười, thật đẹp.

- Em không sợ nhân dân tiến bộ Chàm à?

- Anh lại đùa rồi.

- Thiệt chớ bộ, - tôi nói.

- Các bác ấy sống tuốt bên kia đại dương lận mà. - Em nói, lơ đãng.

- Mấy nhỏ thích lắm, anh.

 

Tôi thấy em múa bụng lần đầu tiên, tại một góc khuất ở thành phố Nam Kương. Buổi chiều nắng đang nhạt. Tôi nói em có đường cong thật diễm ảo. Em cười. Tôi hỏi sao em không múa Apsara? Em nói em đang dạy múa Apsara. Tôi cười, anh lạc hậu rồi còn gì.

 

- Sắp nhỏ nhiêu tuổi em?

- Cuối Tiểu học đó mà. Trình diễn tết năm nay, anh. Vui lắm.

- À, hồi nãy anh hỏi sợ cái gì nhỉ?

- Nhân dân tiến bộ Chàm nghĩ em đang truyền bá văn hóa khiêu dâm, đầu độc tâm hồn non nớt của thế hệ trẻ…

- Khiêu dâm gì, em không hiểu… đừng đùa em mà.

- Thiệt… Họ đang tố cáo với thế giới rằng múa Apsara hở hang, là loại múa khiêu dâm.

- Wow, em chưa nghe bao giờ, anh. Múa cho ông bà cha mẹ mình xem mà khiêu dâm à? Khiêu dâm với ai. Mụk bà ngoại ơi… -  Em kêu lên.

- Thì kẻ có con mắt dâm ô nhìn cái gì cũng ra dâm đãng đâu có trật. 

- Hỏi thiệt, chứ anh có thấy em khiêu dâm không?

- Không, đẹp trong suốt diệu kì…

 

Em bảo tôi dẫn em đi xuống thung lũng đồi cát Nam Kương. Chúng tôi bước chậm thật chậm. Trời lặng gió và nắng nhạt hơn. Thung lũng nằm sâu dưới thành phố. Sâu thật sâu. Em bảo tôi ngồi trên mô đất nhỏ. Ngồi tư thế kiết già, - em nói. Tôi ngồi, nhìn em chậm rãi bước xuống lũng sâu và sâu hơn. Em dừng lại. Rất chậm rãi, em từ từ trút bỏ khơn mưthơm, aw dhai rồi siep rồi khơn… Thân thể em trong như lá. Và em bắt đầu múa. Bước di chuyển và đường cong và nụ cười và ánh mắt và sắc mặt. Những điệu trống Ginơng, Baranưng vọng đến, từ kí ức thẳm sâu. Như từ rất nhiều thế kỉ trước. Em di chuyển dần về phía tôi, rồi lượn quanh tôi. Tôi không còn nghe điệu trống Ginơng nữa. Lúc này chỉ còn nhịp Baranưng vỗ khoan thai vào không gian thánh thiện. Rồi tất cả bỗng im bặt. Em đứng như dấu lặng giữa mênh mông khoảng rỗng, thân hình in đậm vào nền trời đang thẫm đen… 

 

- Em đẹp diệu kì, - tôi nói. Chiều nay em mở email nhé.

… Bài thơ “Apsara Vũ nữ Chàm” được vài nhạc sĩ phổ nhạc. Khánh Vinh giữ đúng nguyên tác. Chứ ca khúc của Amư Nhân dù giai điệu rất bay, nhưng nhạc sĩ này đã thay đổi lời thơ khá buồn cười: Mang hình hài vũ nữ thành Hồn mở ra vóc dáng hình hài thì ý nghĩa của thơ bay mất tiêu rồi còn đâu. Còn đỡ, chứ Nụ cười phiêu lãng trên môi biến thành Trên môi cười điệu nghệ thì nhạc giết chết thơ rồi còn gì. Thi sĩ trải ra hàng ngàn chữ mới chọn được một từ. Nói một cách hình tượng như nhà thơ Cham:

Tôi đốt lên hàng đống chữ

dưới tàn tro

bươi lấy vài lời.

Người làm nghệ thuật hôm nay đã bỏ quên điều cốt tủy đó. Muốn ăn nhanh fast food. Anh từng nghe nhiều ca sĩ có vẻ khá nhà nghề đã hát sai be bét dân ca Cham.

Ciim đơm di dhan kluw pluh

Ciim nau mưthuh klak dhan mưjwa

Ba mươi chim đậu trên cành

Chim đi chiến đấu bỏ cành vắng hoang

thành “bỏ anh một mình”.

Nghệ thuật ngôn từ bị xao lãng kéo theo sự bỏ quên cái tế vi của cảm xúc. Chúng ta tự nhận làm nghệ thuật, nhưng nghệ thuật quay lưng biệt li lúc nào không biết. Niềm tự do phiêu lãng mất đi, chỉ thứ điệu nghệ của kì khu còn lại. Nghệ thuật hết còn làm bay bổng mà cứ là là cõi đất. Tục lụy, ngày càng tục lụy hơn. Đến người ta nhìn hình hài người nữ không gì khác ngoài con mắt dâm dục. Cái Đẹp cứu chuộc thế giới, Dostoievski nói thế. Nhưng hôm nay, chúng ta đang giết chết nó, ngày qua ngày.

Anh tin, em có thể cứu vớt lại phần nào cái Đẹp linh thánh đã mất đó.

 

- Em đã đọc thư anh. Anh có thể nói cụ thể hơn không…

- Với nhà thơ, mỗi từ đầy tràn ý nghĩa, em à. Ngay cả chữ vô nghĩa nhất cũng mang nặng ý nghĩa. Dù chữ ấy có vẻ thừa, lạc lõng hoặc nghịch nghĩa vẫn có sức nặng riêng của nó. Nghệ thuật múa cũng vậy…

- Dạ.

- Nửa bước di chuyển, một mỉm cười, độ uốn của cổ tay hay đường cong của cánh tay đều có ngôn ngữ riêng. Nó mang sức nặng của ý nghĩa, vừa biệt lập vừa tổng thể.

- Dạ, em hiểu.

- Linh thánh và nhục dục cư trú đồng thời trong cơ thể người nữ. Đó là nguyên do người Ấn đặt Chí Tôn ca linh thiêng bên cạnh Dục Lạc kinh nhầy nhụa xác thịt. Điều cốt yếu là biết nhìn.

 

Tôi từ từ ngồi lên, đến bên em, quỳ hai gối trước em. Em nâng tôi đứng dậy.

Em đến từ miền đất nào?

Em vừa lạc khỏi gia đình đang lên đường đi tìm mình.

Còn anh, anh là ai?

Anh vừa rời bỏ sự nghiệp. Cũng đang trên đường đi tìm mình.

Đây là thành phố chết?

Không, là thành phố bỏ quên.

Chúng tôi nhìn sâu vào mắt nhau. Thật dài lâu. Dài như thời gian và lâu như giấc mộng. Lần đầu tiên, tôi hôn em. Em im lặng để tôi hôn em.

Thành phố Nam Kương dần dần trồi lên khỏi thung lũng tối màu.

- ‘palei’ mình có gì lạ không em?

- Không biết chuyện này có phải lạ không? - Em nói. Em kể chiều nay đi lễ, em đã diện bộ cánh mới rất đẹp. Không dám khoe đâu, mọi con mắt đổ dồn vào người yêu anh đó. Mấy nhóc hay các mẹ các chị đã đành, ngay quý bô lão cũng trầm trồ khiến em chốc chốc lại muốn vấp. Lạ lắm anh, cụ ông kêu em lại, chứ cháu biết không, trước Bảy lăm cô gái Cham vận quần tây vào ‘palei’ làng trên xóm dưới nhìn như thể người từ sao Rua rơi xuống, nay thì quần Jean áo sơmi đã đại trà quá đỗi bình thường. Cháu đi ngược thời đại, mới quái. Cách điệu váy áo Cham đến mấy mụk còn nhìn không ra, huống hồ đám trẻ tây học. Lạ nữa, cháu là tây học chính hiệu lại đang sống giữa đất Sài Gòn.

- Ngày mai ‘palei’ mình sẽ còn nhiều cái mới, - em nói.