Danh ngôn

Trong mọi cộng đồng, chúng ta cần một nhóm thiên thần gây rối.

We need, in every community, a group of angelic troublemakers.

(Bayard Rustin – trích bài phát biểu tại New York City 1963)

Trong mọi trường hợp, chắc chắn rằng sự thiếu hiểu biết, đi kèm với quyền lực, là kẻ thù tàn bạo nhất có thể có của công lý.

It is certain, in any case, that ignorance, allied with power, is the most ferocious enemy justice can have.

(James Baldwin - No Name in the Street 1972)

Các cuộc cách mạng và các cá nhân có thể bị giết hại, nhưng bạn không thể giết chết các ý tưởng.

While revolutionaries and individuals can be murdered, you cannot kill ideas.

(Thomas Sankara, một tuần trước khi bị ám sát, 1987)

Không có cảm giác nào cô đơn hơn việc bị chính đất nước mình trục xuất.

There's not a more lonely feeling than to be banished by my own country.

(Kiyo Sato – Kiyo’s Story 2009)

Ban Biên tập

Địa chỉ liên lạc:

1. Thơ

tho.vanviet.vd@gmail.com

2. Văn

vanviet.van14@gmail.com

3. Nghiên cứu Phê Bình

vanviet.ncpb@gmail.com

4. Vấn đề hôm nay

vanviet.vdhn1@gmail.com

5. Thư bạn đọc

vanviet.tbd14@gmail.com

6. Tư liệu

vanviet.tulieu@gmail.com

7. Văn học Miền Nam 54-75

vanhocmiennam5475@gmail.com

Tra cứu theo tên tác giả

Thứ Tư, 5 tháng 2, 2025

TCHERFUNITH (kỳ 3)

Inrasara                                                                                             Tiểu thuyết

Chương 2

ĐỨA CON KANH CỤ

4 giờ chiều. Tôi nói với Loan, hôm nay anh có chuyện, em về sau nhé. Cô thư kí nói, dạ thưa sếp. Giọng nàng từng mượt mà, hôm nay mượt mà hơn thường lệ. Tôi sắp lên chức cao nhất của Ban Tuyên huấn Tỉnh. Tháng sau có quyết định chính thức. Phó Văn phòng thường trực hẹn tôi lai rai, chiều nay. Sự kiện rất đáng ghi vào sử sách, hắn nói. Tay này ưa đại ngôn, nhưng kệ, cũng vui.

- Em vừa nhận tin nóng có thể khiến sếp chơi cồ hơn, lại là chất kích thích rất bổ ích cho cuộc lai rai chiều, - hắn bô bô, khi vừa vào bàn. Tôi nói:

- Có gì cứ nói đại đi, coi thế sự thế nào?

- Sau giải phóng, đây là ca đầu tiên… anh đoán được không? - Hắn cố tình vờn tôi.

- Nếu là tin đáng giá, thết ông một em chân dài, nói đi… 

- Sếp có tưởng tượng, Việt Nam ta nảy nòi vụ tự thiêu không?

Tôi không nói gì.

- Cách nay hơn tháng, - hắn tiếp, - ngay sát cạnh tỉnh ta.

- Mình chưa nghe. Báo chí im ắng thế. Hay chuyện nhạy cảm?

- Nhạy cảm thì có nhạy cảm, buồn cười bởi đó là tự thiêu… hụt, - Xanh nói, nhăn răng cười.

- Dzô đã, ông anh, - hắn nói. Hắn làm một hơi cạn li. Tôi nói, - thì dzô.

- Bất ngờ không?

- Không. Thiếu nhân chứng vật chứng thì không chung chi đâu nhé.

- Thằng bạn em bên an ninh vừa xì cho em biết, hôm qua. Có lẽ họ sắp tin chính thức cho anh, không lâu đâu.

- Tiếp đi, - tôi nói.

- Tại thôn Vĩnh Trường, nơi nhà máy điện hạt nhân dự án sắp tới, Mai Văn Kuan, 6 giờ 34 phút sáng ngày 11 tháng 3 năm 2012, chuẩn bị tự thiêu thì đám sinh viên đồng bọn quên bình xăng, thế là hỏng.

Tôi thoáng giật mình, nhưng nén lại kịp. Tôi nói, không phải đâu. Ông ta nhai cyanua.

- Không sai, nhưng đây nè, - hắn nói, - đưa cho tôi mấy tấm ảnh.

Xanh quen trật tự, và như để khiêu khích tôi, đưa từng tấm một. Tấm 1- Năm thanh niên theo sau một người đàn ông trung niên từ con đường cát đi xuống phía biển. Tấm 2 - Cảnh quang thôn Vĩnh Trường vừa dời đi với ngổn ngang gạch, cát, vôi vữa chưa dọn. Tấm 3 - Đoàn người đứng chụp chung tấm ảnh, hậu cảnh là núi Chà Bang. Tấm 4 - Người đàn ông ngồi kiết già, mặt quay về hướng biển, nơi có mấy giàn sắt đứng lờ mờ lạc lõng. Tấm 5 - Người đàn ông dáng to lớn, oai phong ngồi tư thế kiết già, chụp cận cảnh.

Tôi nhìn thật lâu và nghe choáng. Tôi lặng người đi. Tôi liếc lên Xanh đang đưa cho tôi tấm 6 - Cảnh người đàn ông tát thanh niên. Tấm 7 - Cả đoàn đi xuống bãi cát.

Tôi không nói gì.

- Tay sinh viên ăn cái tát kia đã bỏ quên bình xăng dưới làng… - Xanh nói. Tôi như đang đi qua màn sương mù, cái đầu quay cuồng những hình ảnh chẳng cái nào rõ cái nào.

- Dzô đi, sếp, - hắn tiếp.

- Ừ, dzô đi… - tôi nói. Tôi tu một hơi hết li bia Đức, ngoắt cô tiếp viên lại. - Em kêu Như Quỳnh giúp anh nhé.

- Ông ta đã nhai nó ngay trước cổng bệnh viện…, - Xanh nói.

Như Quỳnh đến, nhanh như gió. - Em tiếp bạn anh nhé, - tôi nói.

- Không, không được, - hắn xua tay, - bồ sếp vợ bạn, chân lí rồi.

- Thằng Toàn sắp tới đây, tôi có việc cần đi gấp, biết tuân lệnh sếp một lần đi. - Tôi nói, không nhìn Xanh, chộp lấy túi xách, bước như lao ra cửa.

 

tôi đã hỏi mẹ sao mẹ không có em bé, mẹ nói đợi con lớn đã

tôi hỏi mẹ cha đâu mẹ, thằng Quân con Lệ có cha sướng quá, sao con không thấy cha

mẹ nói cha đi xa con à, con ngủ đi mẹ thương mẹ hôn nè

mẹ hôn lên trán tôi

tôi làm vỡ ấm trà ông, ông đét vào mông tôi thằng Chàm phá quá trời phá, ông nói đáng lẽ kêu mày thằng hoang mới phải

bà nói tội quá ông à, bà khóc

bà nói biết thế này tôi dắt nó vào Sài Gòn phá quách cho rồi

ông nói ai bảo

bà nói biết thế này tôi đâu ưng ông

tôi hỏi mẹ thằng Chàm là gì mẹ, ông nói mày thằng hoang là gì mẹ, mẹ khóc

tụi hàng xóm chọc tôi con hoang

 

tôi hỏi mẹ cha có về nữa không

mẹ nói thời buổi này không biết được, có lẽ cha vượt biên qua Mỹ

tôi nghe ở làng có nhiều người vượt biên qua Mỹ, tôi biết tôi cỡ tuổi đó mẹ không muốn nói hết

hôm tôi vào Phan Thiết thi học sinh giỏi về, tôi bảo mẹ nói thật với con đi

mẹ nói cha con đi lúc con còn trong bụng mẹ, ông bảo mẹ phá thai nếu muốn sống trong nhà này, bà khóc

bà dắt mẹ qua nhà dì đẻ con nuôi con được một tuổi bà sang dẫn mẹ về

tôi hỏi sao cha bỏ mẹ

mẹ nói cha con rất tốt, cha con giỏi lắm

 

ông không chửi tôi nữa, ông dẫn một cô gái Bắc kì vào nói hồi chiến tranh ông có hứa với bạn chiến đấu

cô gái xinh xắn lanh lợi, nghe lời mẹ tôi ưng

tôi hỏi mẹ sao mẹ không lấy chồng

mẹ nói thôi lỡ rồi con à, mẹ nuôi cháu

tôi nói mẹ có chồng đỡ cô đơn hơn

mẹ nói mẹ không còn thiết nữa, thôi cứ để mẹ ở vậy đi, mẹ vui mà

 

mẹ nói cha con còn sống con à, con liên hệ mời cha dự đám cưới đi

tôi nói thôi mẹ à, chắc ổng quên mẹ con mình rồi

mẹ nói mẹ không biết nữa, nhưng một đời một lần, con gửi thiệp mời đi

tôi nói ông không chịu đâu, tôi nói con cũng không cần ổng nữa

mẹ nói thôi cũng được

tôi thấy mắt mẹ ngấn nước

mẹ nói chắc cha con không tới đâu

tôi cho mẹ cái thiệp khống

mẹ nói cảm ơn con

sau đám cưới tôi nói con đã nói rồi, ông có về đâu

mẹ quay mặt đi

 

ông nói cần làm khai sinh mới cho thằng Quang, ông nói tui bảo thằng Nhân ở xã làm mới

bà nói ông muốn làm gì thì làm

ông nói bỏ hẳn họ và tên cha đi, để vậy không ăn ai đâu

bà nói phải vậy tui đâu chịu ông

ông nói để nó còn phải lên nữa, chứ cả đời chôn chân ở huyện có mà ăn cứt

mẹ đi vào phòng trong, mẹ khóc

 

mẹ nói cha con mất rồi con à

tôi nói thôi đi mẹ, quên ông ta đi

mẹ nói phong tục bên Cham tránh mọi bề nhưng không tránh ngày chết

tôi nói con đảng viên chết là hết

mẹ nói mẹ xin con mà, mẹ con mình mang ciet bánh cho cha con một lần trong đời

tôi nói con không hiểu

mẹ nói con đưa mẹ về nội để mẹ lạy cha con lần cuối

tôi nói nhưng đằng ấy họ có nhận không,

mẹ nói bên ông bà nội họ chờ con à

tôi nói hay con cho thằng Tân đưa mẹ đi

mẹ nói mẹ xin con một lần thôi

tôi nói dạ con đưa mẹ đi

mẹ nói mẹ yêu con lắm, mẹ khóc

 

Tôi thấy tôi khóc, hai mắt tôi đẫm nước. Tôi nhìn đồng hồ, đã 10 giờ hơn. Tôi gọi điện cho Xanh:

- Ông còn đó không?

- Dạ còn, thưa sếp. Sếp xong chưa, em qua rước lai rai tiếp…

- Thôi miễn, ông tạt qua nhà đưa mình mấy tấm ảnh hồi chiều, mai mình trả lại…

- Dạ thưa sếp.

- Sớm nhé, mình chờ, - tôi nói.

 

hôm nay, tôi không đi làm

Hân hỏi anh không đi làm à

tôi nói em đi đi, anh mệt anh bảo Tân đưa em đi

mẹ ghé qua phòng tôi, mẹ hỏi con không đi làm à mà xe còn ngoài sân

tôi nói không thưa mẹ

mẹ vào

 

tôi hỏi cha có tốt không mẹ

mẹ im lặng

tôi hỏi cha có giỏi thật không mẹ

mẹ nói cha con tốt lắm, mẹ hỏi con có mệt lắm không

tôi nói đỡ nhiều rồi mẹ

mẹ nói cha con biết nhiều thứ lắm, mẹ nói cha con suốt ngày làm, cái gì cha con cũng biết làm, tối cha con đọc, cha con đọc nhiều sách dày, mẹ nói vali sách mẹ còn giữ nè

tôi hỏi cha đọc cả tiếng Pháp tiếng Anh à

mẹ nói mẹ không biết, nhưng cha con giỏi lắm

tôi nói mẹ cho con biết đi, tại sao cha bỏ đi biệt vậy

mẹ nói mẹ không biết, mẹ nói khi ông bảo mẹ phá thai mẹ nói rồi ảnh về cha à

ông nói mày ngồi đó mà mong

bà nói thế nào nó cũng về mà

ông nói thằng đó chớ hòng ló đầu vào nhà này

bà nói ông nói thế mà nghe được

mẹ nói con hiểu rồi mẹ

 

hôm nay tôi bảo Tân chở tôi qua Sơn Hải, tôi nói mày chờ tao ở đây

tôi bỏ nó ở lại, tôi đi qua khu thôn cũ Vĩnh Trường, tôi đi qua các bãi cát độn cánh rừng thưa, tôi thấy ngọn Po Nai đứng sừng sững trên núi Chà Bang đá là đá, tôi thấy biển Sơn Hải đang nhô lên mấy giàn sắt, tôi ngó lung, tôi thử khoanh vùng nơi cha tôi ngồi chuẩn bị cho cuộc tự thiêu, tôi thấy dấu vết đã bị gió cát xóa đi, nhưng tôi nhận ra đây chính là chỗ cha tôi ngồi, giữa hai cây là-đo cỗi, tôi thử ngồi vào và nhắm mắt lại, tôi không thấy gì cả, tôi nghe gió thổi bay cát vào đầu và áo, tôi nghe nắng đang đổ xuống cát và rừng thưa, tôi thấy tôi đứng dậy, tôi thấy tôi đang đi trong gió và cát và khu dân cư thưa thớt và những bóng công nhân đi lại và mấy chiếc xe ủi đất và con đường đắp dở dang ngổn ngang vữa và nhựa đường và chiếc xe của tôi và tôi thấy Tân đang vẫy tôi, tôi đi về phía hắn

 

hôm nay tôi đi qua cơ quan

Xanh nói chào sếp, chúc mừng sếp hôm qua em nhận được quyết định chính thức rồi

tôi nói ông cho tôi xem qua mấy tấm còn lại

hắn chạy vào phòng rồi chạy lại, hắn đưa cho tôi bằng hai tay

tôi cầm lấy xấp ảnh đi vào phòng, tôi thấy trước bàn làm việc có cái bảng hiệu mới Tiến sĩ Mai Văn Quang - Trưởng ban, tôi ngồi xem ảnh  

 

buổi chiều, Phó Chủ tịch tỉnh mời tôi qua phòng họp, tôi thấy có Xanh, Tuấn và vài nhân vật chóp bu của tỉnh nữa

Phó Chủ tịch nói các đồng chí cần quán triệt tư tưởng, các vấn đề mới nảy sinh ở Ninh Thuận cũng có thể ảnh hưởng đến tỉnh ta, diễn biến hòa bình xảy đến bất ngờ khó lường trước, đề phòng thì không thừa

Phó Chủ tịch nói vai trò của đồng chí Quang là rất quan trọng, đồng chí vừa được cất nhấc

Xanh nói cả vụ tự thiêu hụt cũng là một cách diễn biến

Phó Chủ tịch nói tôi có cuộc họp khẩn, ông đi

vài người bước ra theo ông

Xanh ở lại với tôi, đưa cho tôi tờ báo Nhân dân mở sẵn, hắn chỉ tôi đoạn tô màu vàng

 

Vương Hữu Tấn, Viện trưởng Viện Năng lượng nguyên tử Việt Nam cho biết: Việc lựa chọn địa điểm xây dựng nhà máy ÐHN là vấn đề quan trọng. Trong quá trình lựa chọn địa điểm, chúng ta căn cứ trên ba nhóm tiêu chí chính để bảo đảm độ an toàn của nhà máy. Trước tiên là những yếu tố tự nhiên có thể làm mất an toàn cho nhà máy, như động đất, núi lửa, sóng thần... cần được nghiên cứu cẩn thận. Có những số liệu phải được thu thập trong một thời gian rất dài. Bên cạnh đó là các yếu tố do con người gây ra. Thí dụ, các nhà máy hóa chất ở gần có thể gây cháy nổ; nhà máy nằm ở gần đường lên xuống của máy bay ở các sân bay. Ðó là những nguy cơ ảnh hưởng đến sự an toàn của nhà máy ÐHN.  Một yếu tố nữa cũng phải được tính đến là ảnh hưởng đối với cộng đồng dân cư trong trường hợp nhà máy hoạt động bình thường hoặc khi nhà máy xảy ra sự cố. Với ba tiêu chí an toàn này, các cơ quan chuyên môn của Việt Nam nghiên cứu với sự tư vấn của các chuyên gia đến từ các nước có kinh nghiệm trong vấn đề năng lượng nguyên tử như Nhật Bản, Hàn Quốc, Pháp, Nga và Cơ quan năng lượng nguyên tử quốc tế (IAEA), việc lựa chọn xây dựng nhà máy tại tỉnh Ninh Thuận là hoàn toàn phù hợp.

 

tôi thấy một người lạ vào phòng, Xanh giới thiệu đồng chí Hùng bên an ninh

Hùng bắt tay tôi

Xanh đi ra ngoài

Hùng nói chúng tôi biết quan hệ của đồng chí với ông Kuan, chúng tôi rất cảm thông với hoàn cảnh của đồng chí, trên đánh giá cao sự kiên trung lí tưởng của đồng chí

 

hôm nay tôi không đi làm, tôi nói với Hân anh ra Phan Rang, tôi nói Tân đưa chị đi làm

nàng không nói gì

tôi hôn lên tóc bé Nhã rồi lái xe đi

tôi cho xe dưới bóng mát cây me, tôi vào nhà ngoại

tôi hỏi Khang ông bà có nhà không

nó bảo ông còn đi đâu nổi nữa mà không có nhà, có mỗi chửi mà cũng không chửi nỗi nữa là

nó nói hay anh gặp ba đi, ba ra đồng sắp về rồi

nó nói em có nhìn thấy anh hôm ‘Tak Kayuw’, trông anh gầy hơn

nó hỏi anh có mất ngủ không đấy, nó nói làm quan có khác tướng sang thấy rõ

tôi nói để anh vào thăm ông bà xíu

ông thấy tôi thì quay đi

bà cầm cả hai tay tôi rồi vuốt tóc tôi, bà nói thằng Kuan con tôi, ôi con trai tôi

ông quay lại nhìn tôi chằm chằm

bà nói ông có biết nó không

ông nói tôi là thứ gì mà không biết cháu mình

tôi hỏi bác Cả nhà mình có biết cha cháu tự thiêu không

bác Cả bảo có, Cham hôm trước hôm sau là biết cả làng

bác nói cha cháu thông minh lắm, nhưng nó hoang lắm

bác nói nhà có mỗi mình nó, bác nói dòng họ này chỉ có mỗi thằng Sara và nó

 

sáng nay tôi vào Sài Gòn

Khang bảo cho em đi với

tôi nói ừa em lên xe đi

nó nói xe cán bộ có khác, chạy sướng

tôi nói em nói chuyện gì đi

tôi phone cho Hân anh không ghé nhà, tôi phone cho Xanh mình không ghé cơ quan

Khang nói em nghĩ làm sao chú ấy dám tự thiêu nhỉ, đau chịu sao cho thấu, ba em bảo chú ấy gan cùng mình, gan thì gan chớ còn khối cách, ba nói chú ấy chắc chắn phải được phong anh hùng chống lò hạt nhân, thế nào Liên hiệp quốc cũng sẽ phong cho chú ấy, Cham nhát lắm, ba nói ba cũng nhát như thỏ ấy, ba nói nhát bù ngày xưa tổ tiên Cham quá liều lĩnh, ba nói nếu mỗi ngày Cham tự thiêu một người đi, ngàn mạng liên tù tì như thế thế nào công ty Nga cũng chạy làng cút về nước, ba nói Cham bây giờ nhát lắm, nhát và ngu, ba nói chú ấy sẽ đánh thức trí thông minh và đức dũng cảm đã lặn sâu từ lâu trong gien họ

 

Khang gặp hai sinh viên ngoài phòng trọ đường Nguyễn Sơn, họ nói tiếng Cham với nhau, hai sinh viên có vẻ sợ, họ chỉ chỏ về phía tôi, rồi tôi thấy cả ba cùng cười, họ đi đến phía tôi, chúng tôi vào một restaurant vắng khách

tôi hỏi M7 em nhớ chú ấy nói gì trước khi mất

nó suy nghĩ, nó nói em không nhớ nữa, M9 nói mày tệ thật, mày hãi quá vãi ra quần tên mày mày còn không nhớ

M9 nói chú ấy nói xưa ông Dos kêu cái đẹp cứu chuộc thế giới, chú ấy nói chỉ có sự dũng cảm mới có thể cứu Cham

tôi hỏi chú ấy có nói gì cụ thể hơn không

M7 nói a em nhớ rồi, chú ấy nói những đứa con Cham thế hệ sắp tới sẽ thông minh hơn dũng cảm hơn

Khang nói tiếng Cham với họ, Khang quay qua tôi, ba tao nói Cham bây giờ nhát và ngu, ba tao nói chú ấy quyết đánh thức trí thông minh và đức dũng cảm đã lặn sâu từ lâu trong gien dân tộc Cham

tôi nói em cứ để cho hai bạn trẻ nói

 

Khang nói anh chơi sang quá, cán bộ ăn uống có khác

họ nói tiếng Cham với nhau, tôi nói đừng kêu anh là cán bộ nữa, tôi hỏi M9 chú ấy dự tính chuyện đó lâu chưa, tôi nói em chớ ngại

Khang nói tiếng Cham, Khang quay qua tôi, em bảo anh là con chú Kuan hai đứa đừng ngại, M9 nói chú ấy gặp cháu bàn từ Katê năm rồi

tôi hỏi với ai nữa, M9 nói chỉ mỗi em, mấy đứa kia trước giờ ra Phan Rang em mới cho biết, M9 nói chú ấy oai phong lắm, người như thế chết phí quá

M7 nói phải chú ấy mới dám làm

M9 nói có mà bé gan thỏ như mày ấy, nếu chú ấy cho phép tao cùng làm thì tao chơi luôn

Khang nói mầy ghê thiệt tao bé gan lắm

tôi hỏi chú ấy có nhắc gì đến vợ con không

M9 nói nếu các bạn trẻ có gặp vợ con chú, đừng e ngại gì cả, chú ấy nói nhưng hãy dè chừng có kẻ mạo nhận vợ con chú

 

hôm nay tôi gặp Inrasara, chú đưa cho tôi bản photocopy Nhật kí của kẻ bị săn đuổi, tôi nói cảm ơn chú

một đỗi sau chú đưa Ghi chép Dân tộc học của Mai Văn Kuan

 

tối nay tôi nói với Hân, anh nghỉ việc em à

Hân vùng ngồi dậy nhìn tôi chòng chọc, nàng nói anh vừa nói gì, nàng mở to hai mắt nhìn tôi

tôi nói anh không làm việc nữa

nàng hét ông Quang điên Quang điên, nàng nói cả tuần nay anh đi đâu không biết, anh bỏ bê cơ quan, thằng Xanh điện cho em hỏi anh đi đâu tắt máy nó không gọi được

nàng nói anh điên rồi, tuổi cỡ anh mà lên đến ghế đó cả nước chưa có ai, anh là ai chứ, bề dày thành tích của ông, của đồng chí của ông mới dọn cho anh ngồi ghế cao hôm nay, anh nghĩ anh là ai kia chứ, anh điên rồi

nàng nói và nàng khóc thành tiếng rất lạ

mẹ tôi chạy tới

mẹ hỏi hai đứa có gì không

nàng nói ảnh tính bỏ việc đó, giọng khàn đục nghe rất ớn

tôi nói sáng mai anh vô cơ quan, tôi nói em ngủ đi

mẹ quay đi

 

hôm nay ông dậy sớm, ông nói tao nói rồi đáng lẽ phải đưa con Thảo vào Sài Gòn nạo bỏ, tao dạy cả thiên hạ được lại dạy hai mụ đàn bà nhà này không xong, hỏi có thối không, thằng hoang hủy ấy nó nghĩ nó là ai cơ chứ, phải bỏ tù rục xương nó mới khôn ra

tôi hôn bé Nhã, tôi nói Tân đưa anh đi

tôi nói với Xanh chuẩn bị mình bàn giao nhé

hắn nói sếp bảo gì em

tôi nói mình thôi việc, à gì nhỉ, mình xin về hưu sớm

hắn nói ông anh khéo đùa rồi

chú Trường bên Tổ chức Đảng bước vào

tôi nói tôi thôi việc chú à

mấy nhân viên khác chạy lại, chú xua tay họ lui ra

tôi nói tôi không còn cảm hứng làm việc nữa

chú nói thôi lúc này cháu mệt, khi nào tinh thần ổn định tính lại, đừng nói gì thêm

chú đi ra

Xanh nói chú Trường nói chí phải anh Hai à

tôi nói tôi mất hết cảm hứng làm việc

Xanh nói trưa nay qua Thủy Tiên thư giãn nhé

tôi nói miễn đi, mình về đây 

 

hôm nay tôi nói con có lỗi với linh hồn cha mẹ à

mẹ nói con không có lỗi đâu, lỗi tại mẹ

tôi nói mai con đi Chakleng

mẹ không nói gì

tôi nói con đã thất thố với linh hồn cha

mẹ khóc

tôi nói cha rất vĩ đại mẹ à

tôi đưa tập Nhật kí cho mẹ, mẹ xem qua mặt chữ, mẹ khóc, mẹ nói đúng là chữ cha mầy

tôi nói con yêu cha lắm

mẹ nói mẹ cũng yêu cha con

tôi nói mai con ra Phan Rang

mẹ không nói

 

sáng nay, tôi qua phòng thấy bé Nhã đang ngủ say, tôi hôn lên mắt bé Nhã

tôi thấy cửa phòng Hân đóng kín mít

tôi nói với mẹ con đi đây

mẹ không nói gì

tôi bảo Tân đưa anh ra bến xe.

 

Phụ lục-2

 

GHI CHÉP DÂN TỘC HỌC

CỦA MAI VĂN KUAN

(trích đoạn)

 

1

 

Từ biết suy nghĩ, tôi ý hướng dựng bộ tiểu thuyết lịch sử Cham cận đại, với tham vọng phác thảo toàn cảnh văn hóa - lịch sử - xã hội dân tộc suốt một thế kỉ. Thời gian ngắn quen M’sa, tôi làm ngay hai tập trong dự tính 9 tập của bộ sử thi kia, lấy tên Con đường vô tận.

Khởi đầu từ năm 1834, khi Thak Wa theo gót Lê Văn Khôi khởi nghĩa thất bại, con dân Cham hoảng loạn, mạnh ai chạy thoát thân ‘Xa-ai o krưn ka adei, mik o krưn lac kamwơn Anh không nhìn nhận em, chú không nhìn nhận cháu. Hầu hết chạy qua Cam Bốt, Thái Lan, hay xa hơn - Mã Lai, một phần nhỏ chạy lên đất Churu, khu vực nam Lâm Đồng ngày nay. Họ ẩn náu trên đó, mãi khi tờ chiếu Thiệu Trị ban xuống, họ mới lần lượt kéo nhau xuống. Số ít vẫn ở lại, lấy vợ sinh con đẻ cháu. Với tộc Churu là chính.

Tập thứ hai bắt đầu ba mươi năm sau đó, khi non vạn cư dân Cham trở về tạm ổn định đời sống. Thời thế biến chuyển nhanh, kéo theo sự thay đổi tâm lí lẫn mĩ học của tôi. Tôi không còn tha thiết với thể loại tiểu thuyết sử thi. Rời bỏ Phan Rang, tôi ném bỏ gần hết những gì đã viết. Đây là một trong các trang trích đoạn tôi còn giữ lại được.

 

Phan Rí, 1864

Từ vọng gác cao ngất đã sụp lở còn lưu lại từ thời Po Cơng ở Sông Lũy nhìn về hướng tây nam là làng Canar với dăm chục mái tranh thấp lè tè bị che khuất bởi những lùm cây, bỗng nhô lên một nóc ngói chắc nịch đóng khung bởi bờ thành cũng đã sụp lở nửa phần. Đây là nơi cố thủ cuối cùng của quân đội Champa gượng chống đại quân Tây Sơn quyết tràn qua mảnh đất cuối cùng của Champa để tấn công quân chúa Nguyễn đang đồn trú ở phương Nam. Sông Lũy đã gây khó khăn cho quân Tây Sơn không ít, rồi cũng bị đánh bật. Thủ phủ cuối cùng của Champa bị tràn ngập bởi quân Yuôn, cuốn luôn theo gót đoàn quân là những báu vật được cất giấu trong khuôn viên thành có mái ngói kia lưa lại nỗi sợ hãi kinh hoàng như những viên sỏi sau cơn lũ lịch sử trong tâm hồn của đám dân cùng khốn. Các triều đại đi qua dân tộc ở lại, nhưng Cham ở lại với nỗi thắc thỏm lo âu trước đe dọa và không đe dọa đến nỗi dân tộc kia không còn mang trong mình một đặc tính tối thiểu làm thành dân tộc. Chỉ biết cam phận và cam phận. Thỉnh thoảng, có vài người đầy cá tính bước qua khu đất này, lưỡng lự nấn ná lại nhìn, rồi đi biệt vô âm tín.

Dưới ánh trăng mờ nhạt chiếu qua màn mù mưa vừa tạnh, người đàn ông vận bộ áo Mưdwơn đang đứng sững trước cổng thành kia. Trong đó là nơi cư trú của công chúa Champa cuối cùng. Hắn đứng đó hồi lâu. Lui chăng? Không. Muốn làm việc lớn, phải dám đánh nước liều với vận may. Hắn rẽ theo một lối mòn, bước nhanh vào ngõ hẻm, băng qua sân rộng dẫn đến ngôi nhà chính, dừng lại trước cánh cửa đóng kín bưng. Đứng trong hành lang tối mò này, hắn nhớ sứ mệnh bác ‘Kut’han giao. Hắn biết đây là công tác nặng nề và nguy hiểm. Đêm nay, tại căn nhà xa lạ âm u đầy bí mật này, biết đâu nhà tù hay cái chết đang đợi hắn. Biết đâu, người Yuôn đang sống trà trộn trong đó. Biết đâu trong này chỉ toàn bọn chó săn sẵn sàng xỏ tai hắn giao cho kẻ thù.

Hắn dấn tới vài bước, gõ nhẹ vào cánh cửa. Cửa im thin thít.

Hắn gõ, mạnh tay hơn. Vẫn im phăng phắc, như thể nhà hoang. Im lặng ngột ngạt phủ trùm lên khuôn viên thành. Hắn bước đến cuối hành lang rồi quay lại, chờ đợi. Vách tường gỗ quý không có lấy một khe hở cho tia sáng lọt ra, nên hắn chỉ cảm nhận hơi hướng con người qua khướu giác. Hắn dừng lại trước cửa chính. Lại gõ. Hắn gọi:

- Có ai nhà không?Cho khách ngủ nhờ qua đêm.

Có vài tiếng sột soạt bên trong rồi im lặng trở lại.

- Ai đó?

Hắn giật mình, quay ngoắt sang phía có tiếng gọi: một bộ mặt nhăn nheo hiện ra qua cánh cửa phụ vừa hé mở. Hắn băng qua khoảng tối hành lang, đi tới.

- Có khách chép sách từ phương xa, - hắn nói.

Ông già quan sát hắn.

- Nhà có người bệnh, ông thứ lỗi cho, chúng tôi không tiếp khách. - Giọng lão run run, toan lui bước.

- Tôi chỉ xin tá túc qua đêm, - hắn nói, nắm lấy cánh cửa.

- Tôi còn phải xin phép công chúa tôi. - Ông già nói, đóng cửa lại. Hắn chợt thấy mình bị bỏ rơi trong bóng tối, như kẻ bị lạc ngoài thế giới Cham dưới này. Sợ hãi ngự trị mọi nơi. Dân tộc hắn tiều tụy lắm rồi, hắn nghĩ.

- Ông miễn thứ cho, chúng tôi đã có khách chép sách. - Tiếng nói sau cánh cửa vọng ra. Hắn không ngờ có kẻ đã sử dụng phương sách của hắn, trước cả hắn.

- Ông cho tôi xin chiếc chiếu ngủ ngoài hành lang vậy, chứ vào giờ này tôi tìm đâu ra chỗ nghỉ lưng, - hắn nói vào.

Không có tiếng đáp lại. Hắn nghĩ thế nào cũng phải nghỉ đêm ngoài hành lang. Hắn bước vài bước qua góc hành lang nhìn ra ngoài sân, đứng đợi.

- Ơn công chúa tôi mời ông... - Tiếng ông già sau lưng.

Cửa mở. Lão cầm đèn soi đưa hắn đi dọc theo căn phụ dẫn vào một phòng chính rộng lớn. Họ dừng lại trước cửa trong. Có tiếng mở chốt. Ánh sáng hất vào mặt hai người khi cửa mở rộng.

- Mời ông... - lão nói, vẫn đứng nơi bậc cửa. Hắn bước nhanh vào, chắp tay thi lễ trước mặt người con gái có nước da trắng nhợt.

- Xin cám ơn công chúa.

- Không, đây là nữ tì, công chúa tôi đang ngủ…

 

Đó là một tưởng tượng. Từ quang cảnh cho đến con người lẫn sự kiện đều là tưởng tượng. Tôi nghĩ nó hay lắm, sáng tạo ghê lắm. Hôm nay đọc lại, tôi thấy nó quá văn chương, văn chương chứa đựng vô số ngôn từ vô tích sự trong thời đại này. Nó chỉ có khả năng vuốt ve trí tưởng tượng của đầu óc rỗi việc, hay của con người thiếu thực tiễn đời sống. Trong khi trái đất hôm nay đang ngập tràn sự kiện và sự kiện. Đời sống Cham thì đầy tràn chuyện kể chưa có người kể. Những chuyện kể nguy cơ chìm vào lãng quên.

Vả lại, tôi đã tưởng tượng sai. 

Tôi vừa đến Phan Rí hai tháng qua. Biến cố 1975 đẩy tôi ngụp lặn giữa dòng lịch sử, xuôi và ngược, lên và xuống. Từ Chợ Lầu đi vào trong khoảng 200 mét thì gặp cầu Sông Cạn. Quẹo phải là làng Xuân Quang, bên trái cầu là Xuân Hội. Hơn cây số từ cầu Sông Cạn đi tới là làng Tịnh Mỹ. Đúng hơn, như tiếng Cham gọi, là Bal Canar Thủ đô Canar - thủ đô cuối cùng của Champa. Canar có một ngôi nhà cổ khá khang trang do hoàng tộc để lại, ngôi nhà gia đình bà Nguyễn Thị Thềm đang ở. Bà Thềm được xem là công chúa cuối cùng của Champa. Nghe kể bà rất đẹp, dáng sang trọng, quý phái.

Lúc tôi gặp bà, thì bà đã không còn nghe được gì, dù vẫn rất phong thái con nhà.

Nhà vua bôn đào qua Cam Bốt, để lại ngôi nhà với đám gia nhân cùng con cháu muốn ở lại. Ngôi nhà chẳng của cải nào đáng giá. Trước lúc thiên di lớn, toàn bộ vật gia bảo đã được chuyển lên vùng rừng núi cho người Raglai cất giữ. Dân tộc Raglai tiếng trung thành. Thêm, Cham xem ‘Raglai anưk taluc pataw Người Raglai con út vua, nên của cải giao lại cho đứa con út, là phải. Vương triều mất, những chứng tích làm biểu tượng vương quyền cần được lưu lại. Loạn lạc cùng liên tục chịu thất bại dạy Cham ít nhiều tính thận trọng. Đến những ngày lễ lớn, người Raglai mang tất cả xuống đồng bằng làm lễ, xong lại gùi lên. Dày thêm mối quan hệ khăng khít anh em giữa hai dân tộc. Triều đại cuối cùng của vương quốc nổi tiếng về vàng bạc, họ đi, bát ngát châu báu để lại. Cham mênh mông lễ, người Raglai vẫn miệt mài gùi xuống - các báu vật cần thiết cho mỗi lễ khác nhau. Mười năm, hai mươi năm đến nửa thế kỉ…

Nỗi đời gập ghềnh bao hang hố, mấy biến cố xảy đến bất ngờ đến kẻ giàu óc tưởng tượng nhất cũng không lường được.

Thực dân Pháp chiếm trọn đất nước Việt Nam, ra sức vơ vét. Mỗi quan Tây vơ vét mỗi kiểu khác nhau. Kho tàng hoàng gia Cham không nằm ngoài tầm ngắm của họ. Một ngày xấu trời, quan Tây cho vời bà Nguyễn Thị Thềm vào dinh trong Phan Thiết, tiếp đón long trọng. Bằng giọng lưỡi ngon ngọt của chính trị gia lõi đời, ngài nói:

- Thưa công chúa, năm nay đúng một trăm năm vương quốc Champa bị xóa tên trên bản đồ thế giới. Để cho cả loài người biết sự vĩ đại của vương triều, sự hùng mạnh của một vương quốc từng làm cho cả khu vực Đông Dương khiếp hãi, cùng sức sáng tạo vô địch của con dân Champa xa xưa, năm nay chính phủ Đại Pháp sẽ làm đại lễ kỉ niệm cực kì long trọng mời khách quốc tế đến tham dự và chiêm bái…

Ngài mong muốn công chúa nói với người anh em Raglai mang hết vàng bạc quốc vương để lại xuống phục vụ cho đại lễ. Ngài biết, vì ngài đã từng, dù sử dụng quyền lực vũ khí hay ý định mua chuộc bằng đồng phrăng cũng không đánh đổ sự trung thành đến lì lợm của tộc người này, nên phải cậy công chúa. Công chúa ngây thơ ngỡ quan Tây trân quý văn minh Champa thật, còn người Raglai trung thành thì tin nghe công chúa. Thế là cả hai đã bị lừa.

Xong cuộc, mọi của cải hoàng gia ở lại, chỉ có con người được về. Hai màng nhĩ của bà công chúa xinh đẹp, quý phái bị đâm thủng ngay trong đêm định mệnh đó. Để bịt mọi thông tin về sự cố lịch sử kia. Năm này sang năm khác, Katê đến Katê, người Raglai xuống núi phân trần, công chúa đều lắc và lắc và lắc…

 

Xuân Quang và Xuân Hội là hai làng Cham lai tôi nghe tiếng đã lâu, mãi bây giờ mới đến. Người Cham ở Bình Định, Phú Yên là Chàm cổ, còn Cham ở đây là Kinh cổ. Dân địa phương đọc trại đi thành Kanh Cụ. Hai làng nằm dọc bờ sông đất mầu mỡ, lại nghèo cực, sống khép kín. Vài chục mái tôn, ngói thấp lè tè, lơ thơ, buồn tủi như muốn tránh những con mắt tò mò dòm ngó.

Hai tộc Việt Cham sống xen cư và cộng cư vùng Phan Rí, trai gái ra chợ hay lên rẫy, gặp nhau rồi yêu nhau. Tôi tưởng tượng những cuộc tình trắc trở, với bao chia li và xua đuổi. Họ trốn mẹ cha tìm đến vùng đất này, tách rời quê Cham cũ Dhaung Panan, lập thành khóm, xóm rồi làng. Không vốn liếng, không họ hàng thân thích để nhờ cậy, họ dựa vào sự trung thành và lòng tin yêu, mà sống mà hi vọng.

Mãi sau này, thời Ngô Đình Diệm, khi bộ phận tộc người mang thẻ căn cước người Việt gốc Chàm được cấp giấy miễn quân dịch, thanh niên Việt ở vài làng lân cận trốn lính chạy vào, hai làng Kanh Cụ này mới đông dần lên. Họ nói cả tiếng Việt lẫn Cham. Rất ít gia đình có bàn thờ. Ở đó, còn cả ciet treo trong nhà. Tuy thế nghèo vẫn nghèo, sau thế kỉ, vẫn là trăm mái ngói lơ thơ, nhỏ, thấp.

 

Sự phân biệt Cham Việt kéo dài mãi tận “cách mạng”, vẫn chưa chịu dứt. Chính dân cách mạng 75 ông cán bộ Bùi Xuân ra bắc công tác cả tháng về, nghe tin chuyện tình đứa con gái rượu, gần nửa đêm, đã xộc lên rẫy hệt loài khỉ đực. Ông đập rầm rầm cái cửa, khiến cánh cửa chòi đan mấy thanh tre lỏng khỏng sơ sài bị bật tung. Tôi dụi mắt ngồi dậy thì nhận ngay tiếng quát:

- Thằng Chàm này, cút khỏi đây ngay. Cút, cút muôn năm… Mày mà còn xớ rớ nhà này… mày mà còn hú hí với con Thảo, thì ngó cây súng này. - Ông hét, vỗ bộp bộp vào cặp da đen có lẽ súng ngắn đang nằm đâu ở trỏng.

- Tôi cần lấy vài thứ, - tôi nói, không nhìn ông, đi một mạch xuống làng.

Không phải tôi sợ tiếng quát khàn đục lạc giọng ngu ngốc của tay cách mạng 75 ấy, cũng chẳng phải súng ngắn trong cặp da chưa lên cò làm tôi hãi, mà - ngay khi ông vỗ vỗ vào cặp da kia, tôi nghĩ về bao cuộc tình bị ngăn trở, bị xua đuổi tại hai làng cô độc và buồn tủi này, suốt một thế kỉ rưỡi qua. Và tôi đã câm lặng cam chịu.

Thảo Dung đang say giấc. Tôi nhìn nàng. Tôi nhìn chồng sách. Tôi liếc qua mấy bộ quần áo nàng sắm cho tôi vẫn còn phẳng dấu là. Đi bước bằng đầu ngón chân đến chiếc bàn, tôi mở hộc bàn lôi ra hai tập Agenda. Không hôn nàng, tôi nhón chân bước ra, khép cửa lại.


2

 

Tôi không hiểu vì đâu người ở đây truyền cho nhau câu chuyện về đàn ông có khuôn mặt buồn thế nào rồi cũng bỏ plây ra đi. Đang yên đang lành, họ bỏ nhà ra đi. Đang ăn nên làm ra, không lời nhắn nhủ, họ đi biệt. Sự thể lặp đi lặp lại và kéo dài thế hệ này sang thế hệ khác, trở thành giai thoại.

Tôi hỏi H’Mai làng khác có nhiều trường hợp như vậy không, em nói nhiều, hơn chục. Làng mình bao nhiêu, tôi hỏi, em bảo, cũng lối ấy. Những người ở dưới lên. Dưới nào, tôi hỏi, em nói, dưới đó ấy. Em không nói vùng nào cụ thể, tên người cũng không nốt. Bà kể ông cố nội em cũng đã đi như thế. Tôi hỏi vài người hiểu biết trong làng thì được kể vài câu chuyện như thể truyện cổ tích. Chung chung và mơ hồ, giai thoại trở thành huyền thoại ám ảnh.

Lạ, dân làng chẳng những không xua đuổi họ khi họ tới, mà luôn rộng vòng tay đón nhận họ, những người dưới ấy, dù họ có khuôn mặt với đôi mắt buồn cỡ nào. Tôi cũng được họ xem là người dưới ấy, cũng với khuôn mặt ấy và đôi mắt buồn ấy. Chỉ vài chục năm qua, họ mới xác định rõ đó là người Cham Pangdurangga, khi dân quê tôi gùi hàng thổ cẩm lên đây bán, và trọ lại, có khi đến cả tháng.

Vậy mà dân làng vẫn cứ chấp nhận tôi. H’Mai với cha mẹ em, cả họ hàng em nữa.

 

Mười năm sau thống nhất đất nước, vua Gia Long cử Lê Văn Duyệt vào chức Tổng trấn Gia Định thành, đặt trấn Bình Thuận trực thuộc cho đến khi ông mất. Giai đoạn này, Ong Kadơ Ông Nân, biệt hiệu người Cham đặt cho ông, đã có những nghĩa cử cao đẹp đối với người Cham, được bà con trọng nể. Ngược lại, Minh Mạng, ngay sau khi lên ngôi, đã hành xử tệ hại. Vị vua cuối cùng của Champa, khi nhận thấy mọi quyền lực bị tước đoạt, rời bỏ Bal Canar, cùng những người thân cận chạy sang cư trú Cam Bốt. Dân Cham như rắn mất đầu, không còn ai để nghe theo, đến khi Twơn Phauw, Thak Va theo Lê Văn Khôi dựng cờ nổi dậy, họ đã nhắm mắt đi theo để phải gánh lấy những hậu quả nặng nề. Họ bị quân Minh Mạng thẳng tay đàn áp và khủng bố, chạy tán loạn. Không ít trong số đó chạy lên ẩn náu trên vùng Thượng.

 

Trường ca Ariya Twơn Phauw kể lại cuộc chiến vô vọng của nghĩa quân Twơn Phauw, tâm trạng của quần chúng Cham trong giai đoạn cuối cùng, giai đoạn bi đát cuối cùng của lịch sử dân tộc. Chiến sự xảy ra trong khu vực huyện Hàm Thuận ngày nay. Nghĩa quân của Twơn Phauw di chuyển lên xuống: Bicam, Pajai, Crauh Tang, Hamu Liwa, Hamu Ciet Buh Hala… cùng các vùng cư trú của người Raglai, Churu, Kơho.

Cho đến lúc bấy giờ, nhân dân Champa đã thực sự ngán ngẩm mọi cuộc nổi dậy lớn nhỏ. Họ chỉ mong được an phận. Twơn Phauw biết thế, nhưng ông không dễ dàng chịu thối lui. Đó là một con người trở về với một tư thế tự tin. Tự tin cho rằng mình đến từ Mecca Mưkah, tự tin tuyên bố là giòng dõi vua chúa:

Twơn Phauw nhu lac anưk Po Gihluw

Gaun Alwah tiap kuw mưrai pangap ‘palei’ nưgar

Twơn Phauw bảo ông con vua Trầm

Sứ thần Allah phái về phục hồi đất nước

Khác với Thak Va mươi năm sau đó đã phải vận dụng chiêu bài của người phàm, sau những lần đi chiêu dụ binh lính bất thành, một tối nọ, đã trèo lên ngọn cây cao ngất và hô vang: đây là vua Champa, ngài đã trở về cứu nguy đất nước… để ngay sáng hôm sau, hàng ngàn thường dân ngây thơ đã đi theo ông, rồi tiếp tục đi theo ông luôn vào cõi chết.

Twơn Phauw thì khác. Ông cực kì tự tin khi đối mặt với con người và sự kiện. Tự tin trong khi biểu diễn bùa phép, trong việc chọn lựa hay luyện tập binh sĩ. Tự tin và bất khuất. Khi ông bị bắn rớt ngựa bị thương, và cả khi đã bị đánh bại. Ông ra đi, tư tin nói lời cuối.

Ta hãy tưởng tượng một Twơn Phauw với thân hình cao lớn, ánh mắt rực lửa quyết tâm, đã vội vã tập hợp binh sĩ, vội vàng huấn luyện họ và liền tung họ đi công đồn! Ngay trận ra quân đầu tiên, quân sĩ dưới tay ông bị đánh bại tan tác. Rồi trong trận thứ hai, Twơn Phauw mang nghĩa quân đánh ra Phan Rang mong tạo một sức mạnh mới, nhưng lần nữa lại bị đánh bại. Mỗi lần thất trận là mỗi lần những tai họa lại ập đến dân lành vô tội. Các binh lính ô hợp của ông gồm Cham, Churu, Hơho, Raglai trên mình không còn manh vải, trong bụng chẳng có hạt cơm.

Dwei thruk min tatơk drei jan

Lên dây cung nhưng tay lại run rẩy

Đi tới làng Jawi, làng của người Churu, Twơn Phauw quyết dàn quân đánh xuống một trận quyết định, nhưng nghĩa quân lúc này đã mất khí thế chiến đấu. Ngay cả những người Churu, người Raglai trung thành với ông nhất cũng có dấu hiệu bỏ cuộc: Takai đwơc min pabah tapah xari - Chân chạy nhưng miệng thề rằng sẽ không bao giờ nữa.

Ông đã đến, và ông đã chiến đấu. Chiến đấu vì danh dự, và thất bại trong danh dự.

Mưyah jơl nưgar halei, min drei nhu kađa

Dù mình có thất bại nhưng họ nể trọng mình.

 

Tàn quân của Twơn Phauw biết đó là trận cuối cùng. Ông Than biết đó là trận cuối của trận cuối cùng. Khi chủ tướng đã đi biệt, ông cùng vài người bạn chiến đấu người Churu chạy lên làng Churu ẩn náu. Người bạn đã giới thiệu em gái ruột cho ông. Họ sống đầm ấm và có với nhau hai con trai và năm con gái, sau đó ông đi mất, không để lại dấu vết hay lời nhắn. Hai đứa con trai ông sau đó lấy vợ làng bên, rồi cũng đi biệt. Huyền thoại người có đôi mắt buồn ra đi, hình thành từ đó.

H’Mai là cháu đời thứ năm của ông Than.

Tôi hỏi H’Mai, em thấy đôi mắt anh thế nào? Em nói, buồn lắm, nhưng rất đẹp và mạnh mẽ. Tôi hôn lên đôi mắt em, em không sợ anh bỏ em đi à, tôi hỏi. Em bảo, rồi đứa con mình sẽ ở lại.

Tháng sau, tôi nói với em, anh xuống Sài Gòn có ít chuyện. Em tiễn tôi đi. Và tôi đã không trở lại. Không bao giờ còn có cơ hội trở về với H’Mai nữa.


3

 

Tết 1997, tôi rủ Mai Lan bế Sam ra Quảng Nam giỗ bố nàng. Làng ông ngoại Sam cách tháp Chiên Đàn khoảng ba cây số về hướng tây. Làng ít người mang họ Trà, bố Mai Lan nằm trong số ít đó. Tôi nghe nói tộc họ Trà ở Quảng Nam đếm sát sạt khoảng vạn người. Họ vẫn còn nhận mình là Cham. Nhưng tại sao có số khiêm tốn thế? Ở ngoài Huế còn ít hơn nữa, chỉ khoảng vài trăm người họ Chế còn biết mình mang dòng máu Cham.

Cham cư trú vùng văn hóa - lịch sử lớn nhất, xây dựng nền văn minh lâu dài và huy hoàng nhất Amaravati và Vijaya, họ đâu cả rồi? Đâu là Cham? Cư dân của vương quốc kia bị xua đuổi hay sát hại hết chăng?

– Đó là chuyện không hề có.

“Người Chiêm Thành nào đi thì cho đi. Người ở lại thì bổ làm quan” - Hồ Quý Ly dù mang tiếng quyết liệt, đã phải ra chính sách dung hòa đó. Không ít người có học ở lại. Số thường dân ở lại càng không ít. Nhất là cánh chị em. Quý ông quân nhân Việt sau chiến tranh trở thành dân thường, nhu cầu tìm bạn tình là rất lớn. Lớn đến nỗi vua Lê Hiến Tông 28 năm sau Lê Thánh Tông “bình Chiêm” phải ra chiếu dụ với giọng điệu khá cứng: “Kể từ nay, trên từ thân vương, dưới đến dân chúng, đều không được lấy đàn bà con gái Chiêm Thành làm vợ, để giữ cho phong tục được thuần hậu”. Cả thế kỉ sau khi mất Đồ Bàn rồi Phú Yên, nơi ranh giới Tuy Hòa, “người Chàm nếu có ai ra vào cửa khẩu vùng biên để thăm bà con thân thuộc thì đều phải trình báo rõ ngày giờ với các quan đồn”, theo chính sách mới của ông Bùi Tá Hán. Sự thể chứng tỏ Cham vẫn ở lại rất nhiều, sau khi chính quyền bỏ thủ phủ chạy vào Nam. Và, ai dám đảm bảo người từ trong ra thăm bà con đã không trốn ở lại? Và để ở lại cho trót, nếu họ “chối mình là Cham” thì chẳng có gì đáng trách cả.

Như vậy, có thể nhận định rằng suốt cõi Huế, Quảng Nam đến Phú Yên, Khánh Hòa hôm nay, mênh mông Cham đang thở hơi thở tại quê hương mình. Dù họ khai dân tộc Việt, mang họ Việt, hay dù có lắc đầu quầy quậy rằng ta không là Cham, nhưng họ cứ là Cham. Có cớ cho nhà báo Hồ Trung Tú nói như vôi quệt cột trong tác phẩm đầu tay Có 500 năm như thế rằngchúng ta là người Chàm đang nói tiếng Việt bằng giọng Chàm”.

 

Lạ quá! Tôi nhìn đâu cũng thấy bóng dáng anh em bà con tôi ở quê nhà. Trong đáy mắt, trên hàng lông mi, làn da sạm nắng hay cái nhếch môi mỉm cười…

Anh chàng thanh niên tên L trong làng kể cho tôi nghe, tháng Bảy - tức tháng Tư lịch Cham - hằng năm, vào đầu hôm những ngày tiết trời ẩm thấp, bọn trẻ nhìn thấy lũ gà bằng lửa lúc nhúc kiếm ăn. Thấy bóng người là chúng bay mất vào bụi rậm. Lắm lúc có con hình thù rất kì lạ, dáng đi như con bò, cũng bằng lửa, ra ngoài đồng trống, ngơ ngác ngó quanh rồi chạy biến vào rừng. Tôi cố thức canh cùng L mãi đến gà gáy sáng, ba tối liên tục: vẫn không động tĩnh gì cả. Dẫu sao tôi tin anh chàng không dối tôi. Tôi nói:

- Có lẽ do anh đã cúng cho thần Đất vài giọt bia, nên quỷ thần không cho đất động chăng.

Chàng thanh niên không hiểu.

- Buổi lai rai chiều qua ấy mà, - tôi nói.

- À, em nhớ ra rồi. Cứ vào cuộc là anh rót vài giọt bia xuống đất. Thấy lạ, nhưng em không dám hỏi.

Tôi bảo chính dân quê em đã truyền tụng câu Thời hư quỷ lộng, đất động cho tru. Em thấy ba tối qua, có nghe tiếng chó tru nào đâu. Để đất không động, thì cần biết đến Đất. Chàng thanh niên bảo:

- Em thấy làng trên kia người ta còn cúng thần Cây nữa.

Chiều hôm ấy, Lan đèo tôi trên chiếc Dream lên làng thuộc huyện Tiên Phước miền trung du. Tôi xem họ cúng thần Cây, và ngạc nhiên vô cùng. Ở quê tôi khi xưa có một cây Kuao cao to đến bảy trẻ chăn trâu ôm không xuể. Mỗi lần dân làng đánh xe trâu lên núi thường xuống khấn vái. Lễ vật chỉ có mỗi ba hột gà luộc với nửa xị rượu trắng, cũng đủ. Có khi chẳng có gì cả, họ cũng làm lễ, lâm dâm cầu nguyện. Vậy mà cây Kuao đó bị đốn gục, ngay khi giải phóng. Cán bộ cách mạng bảy lăm xách cây rìu dẫn theo mấy anh du kích, thể hiện tinh thần trung kiên duy vật biện chứng. Đồn rằng ngay tháng sau thôi, cả gia đình ông bị thần Cây làm cho tan tành xí quách.

 

Ở đâu tôi cũng nhìn thấy bóng dáng người quê tôi…  Đâu đâu cũng hiện hữu dấu vết Cham, mồn một hoặc mơ hồ. Trần Văn An kể:

 

"Thầy Thím quê tại làng Thi Lai – Hà Mật (huyện Duy Xuyên, tỉnh Quảng Nam), là một pháp sư người Chăm có nhiều pháp thuật. Do phạm tội với triều đình nên ông bị bắt về Huế và bị xử tội chết, ông hóa phép bay vào Bình Thuận. Khi bay ngang quê nhà, ông làm rớt  một chiếc giày. Thầy Thím ẩn cư tại Hàm Tân, tỉnh Bình Thuận, thầy ở ẩn trong rừng và chuyên đóng ghe bầu thuê cho người Việt. Những người muốn đóng ghe thì đem tiền đến đặt tại dinh Thầy và được hẹn ngày đến lấy. Đêm đêm trong rừng sâu gần Bàu Cái, Hàm Tân, từ ngoài biển nhìn vào, người ta thấy đèn đuốc sáng trưng, người đi lại tấp nập. Đó là cảnh Thầy Thím đóng ghe. Khi gà vừa gáy sáng thì cảnh tượng trên biến mất. Ai mà bạo gan chỉ trỏ, bình luận gì thì sẽ bị đau ốm, tai nạn không thể tránh khỏi. Tại khu rừng có một lạch nước nhỏ, dân gian gọi đó là Đường Lướt ván do Thầy Thím dùng pháp thuật tạo ra để đưa ghe bầu hạ thủy.

Thầy đóng ghe rất uy tín và không bao giờ sai hẹn. Dân ghe bầu rất kiêng nể thầy, khi giong bườm/ buồm qua lại khu vực đều đứng trên ghe cúng vọng vào hoặc ghé ghe vào dinh để cúng, cầu mong thầy phù hộ cho chuyến đi được thuận bườm/ buồm xuôi gió”.

 

Sao mà giống thầy Thím ở Bình Thuận thế!

Trên đường về, Lan đưa tôi ghé tháp Chiên Đàn. Tháp nằm cạnh Quốc lộ 1, rất tiện. Ông già giữ đền kể hồi cách mạng về, hai bên đánh nhau dữ. Dân làng phải ra canh tháp không cho phía nào vào khu vực linh thiêng này. Còn mấy trăm dấu vết phía trên trong lòng tháp, - ông kêu - là do mấy lính Cộng hòa đã khích nhau, bắn. Tệ quá, như họ đã từng thách nhau bắn canon vào tháp Dương Long ở Bình Định vậy.

- Bác có dòng máu Cham đó, - tôi nhìn sâu vào mắt bác.

- Tôi cũng nghĩ thế, - bác bật nói.

 


4

 

Năm 1044: 5 ngàn, năm 1069: 5 vạn; thêm các số tù binh lẻ hay tướng sĩ Cham đầu hàng kéo theo bầy đàn thê tử cùng lâu la ra Bắc sống. Dù có bị thổi phồng đến đâu, đó là con số khủng, ở thời đó.

Đầu năm 2006, tôi lên chuyến tàu nhanh ra Bắc. Đây là cuộc bắc tiến đầu tiên trong đời, tôi xúc động kì lạ. Tôi như đi theo dấu chân tổ tiên ngàn năm trước. Đường đèo và dốc thẳm, rừng rú với những lối quẹo quanh co, biển cả dưới kia và đỉnh đá trên này. Tàu xình xịch nuốt nhanh từng mảng tối sáng, từng chặng đường. Khác với tổ tiên tôi, họ đã phải cuốc bộ sau cuộc bại trận, khi thân xác đã rã rời, tâm hồn đã chìm tận đất đen, bỏ lại sau lưng làng mạc, người thân, đi - không biết bao giờ trở về.

Điều kiện giao thông xưa ấy, đường núi chập chùng cheo leo ấy, con số khổng lồ ấy, bao nhiêu sinh linh đã rơi rớt lại dọc đường? Rồi những số đã đến đất Bắc, bao nhiêu người trốn “sở” trở về? Họ có về đến quê mẹ không? Chắc chắn là không rồi? Không ít người dừng chân đất Thanh Hóa, Nghệ An. Họ lấy vợ, cưới chồng sinh con đẻ cháu.

Tàu dừng ở ga trả và đón khách, tôi thấy những đứa trẻ “dáng nâu”, miệng rộng, lông mày dày đậm… khá lạc điệu giữa cộng đồng. Nhưng không!

- Nhiều lắm, - ông khách vừa lên tàu, nói.

Tạ Chí Đại Trường viết trong Tù Binh Chàm

 

Trong trận đánh đầu năm 1044, trên chiến trường ở Quảng Nam, quân Lí giết vua Chàm, bắt 5000 tù binh, đến mấy tháng sau, tháng 7 mới vào thành Chà Bàn bắt cung phi mĩ nữ. Lúc về, làm lễ mừng "bầy tôi dâng tù binh hơn 5 nghìn tên...". Vua "xuống chiếu cho các tù binh đều được nhận người cùng bộ tộc, cho ở từ trấn Vĩnh Khang đến Đăng Châu (nay là Quy Hoá) đặt hương ấp phỏng theo tên gọi cũ của Chiêm Thành." (huyện Tương Dương, Nghệ An và vùng Yên Báy, Lao Kay ngày nay)…

Thế là năm nghìn tù binh về xứ Lí được tập họp theo bộ tộc, phân bổ trong những khu vực mang tên gọi theo kiểu Chàm.

 

Ra Thăng Long, tù binh Cham được cho tìm nhận người anh em bao năm cũ. Và để nguôi nỗi nhớ quê, không ít người mang dừa ra trồng, tạo thành đặc sản Cham không thể lẫn.

 

Trong trận chiến 1069, số tù binh bị bắt lại gấp mười lần trước: 5 vạn người.

Chúng ta không quên loại tù binh đặc biệt được sử dụng cho nhu cầu hưởng thụ của vua … Lí Thái Tổ xây tháp cao ngất trời, dựng cột chùa đá..." Khi Trần Nhật Duật mất (1330), sử kể chuyện ông "thích chơi với người nước ngoài, thường cưỡi voi đến chơi thôn Bà Già có khi ba bốn ngày mới về." Thôn này hồi Lí Thánh Tông đánh Chiêm Thành, bắt được người Chiêm cho ở đấy, lấy tiếng Chiêm đặt tên là Đa Gia Li, sau gọi sai thành "Bà Già".

… tù binh Chàm sau Lí không còn được dùng vào việc sản xuất cho nhà nước nữa. Trường hợp Lí quả là duy nhất… vùng phía tây Thăng Long, trọng tâm là đền Lí Phục Man với dân chúng các làng Yên Sở, Đắc Sở thờ cúng ông.

Dấu vết đặc biệt về mặt cảnh quan quanh đền là cả một vùng trồng dừa, "một sản phẩm hiếm hoi ở đồng bằng Bắc Kì... là thứ cây tạo thành nguồn thu lớn của nơi này" khiến cho người Pháp đặt tên là village des Cocotier.

 

Lưu lại Hà Nội ba ngày, tôi đón xe qua Bắc Ninh, xứ nổi tiếng về dân ca Quan họ. Các nhà nghiên cứu âm nhạc dân tộc cho biết, chúng mang đậm giai điệu dân ca Cham. Tại sao, thì người ta đoán do tù binh Cham truyền lại, - không sai. Nhưng thế nào, là điều quan yếu hơn, thì chưa có nhà nào làm cuộc đối sánh đến nơi đến chốn cả.  

 

… chùa Đinh Xá ở xã Đinh Xá, huyện Kim Bảng… là "làng có chùa Bà Đanh", một làng có nguồn gốc lịch sử là của tù binh Chàm. Nếu lưu ý thêm rằng các đền tháp của Lí tập trung nhiều ở lưu vực sông Đáy thì các địa điểm tù binh này cũng có thể được chứng minh là của Lí.

Phần an trí phía bắc thì như đã thấy còn dấu vết ngày nay là vùng Thạch Thất, Hoài Đức phía tây Thăng Long và vùng Bắc Ninh, Bắc Giang của Bà Chúa Lẫm. Vị trí sau này tuy thường được ca ngợi là phần cội gốc tinh hoa của người Kinh Việt, nhưng xét trạm Hoài Viễn mà nhà Lí lập ra (1044) để đón sứ thần, nghĩa là một thứ trạm biên giới, đặt trên đất Gia Lâm thì đất bà Chúa Xứ coi kho lúc bấy giờ rõ ràng là ở ngoại biên!

… Vùng thứ ba tập trung tù binh Chàm của Lí được Lê Văn Hưu (1272) xác nhận thêm địa điểm là ở vùng Bắc Ninh… cây Cột đá chùa Giạm còn lại ngày nay ở xã Nam Sơn, huyện Quế Võ mà ta nhìn ra là một mukhalinga mang dáng dấp Việt Hán.

 

Trai Việt vào Nam chinh chiến chết trận hẳn phải vô số, để lại quê nhà bát ngát vợ góa với cô gái khó kiếm chồng. Tù nhân Cham ra Bắc còn hừng hực nhựa sống và đầy tài năng. Gặp nhau, họ làm gì? Tôi tưởng tượng mênh mông cuộc tình nảy nở, ở đó. Các thợ, thầy xây tháp, các nghệ nhân tạc tượng đó, ban ngày làm việc, đêm về họ hát. Giai điệu nhớ quê buồn thương thê thiết vang đi, chúng tìm được sự đồng cảm của mấy cô gái cô đơn hay thiếu phụ nhớ chồng.

Và họ tìm đến nhau. Thành vợ thành chồng xây dựng gia đình hạnh phúc, có; nửa chừng, lệnh trên ban xuống chuyển tù binh đi xây tháp, đúc tượng ở xứ khác, có. Đi, có khi gấp gáp đến không kịp nói lời từ giã; hoặc lắm lúc số tù binh này được cho hồi hương. Điều gì sẽ xảy đến? Bên cạnh các cặp quyết ở lại tạo lập đời sống, - dân đen đâu cũng vậy thôi, họ nghĩ - Bắc hay Nam, Cham hay Việt, tình yêu vượt ranh giới quốc gia, dân tộc cũng có không ít cuộc chia li đẫm nước mắt.

Chia tay, có thời gian để làm cuộc chia tay, bịn rịn anh nắm bàn tay, em vin tà áo… em xin chàng người ơi người ở đừng về… Chàng về xứ tận trời nam tít mù khơi kia, em làm sao tìm đến? Chàng đi, biết bao giờ em được gặp lại chàng? Chàng đi, chàng có trở lại không? Còn có cơ may trở về với em, với đứa con thơ dại của chúng mình nữa không? Khi mà ở nơi đó chàng có mẹ có cha, hay biết đâu có người vợ trẻ xưa ấy đang ngóng chờ chàng, như em đang chờ. Người ơi người ở đừng về 

Dù chàng đã chỉ trăng chỉ sao hứa, dù em tin tình yêu của chàng dành cho em, nhưng lòng em cứ sao sao ấy… Chàng thì vậy, còn em? Bèo giạt mây trôi, chốn xa xôi anh ơi, em vẫn đợi… Ngậm một tin trông, hai tin đợi, ba bốn tin chờ… sao chẳng thấy đâu…

Con sông, lá rừng, cánh chim trời, cành tre, những nhánh bèo như phận bèo cùng nỗi nhớ thương ấy sao mà giống nhau đến kì lạ. Cả giai điệu kia nữa… Ra Bắc, tôi muốn nhìn tận mặt con sông quê Bắc Ninh với những cánh bèo giạt kia, cành tre với bóng dừa, nhìn màu trăng với cánh chim bay cô độc ngang trời. Ý định xây dựng cuốn tiểu thuyết Hai mươi lăm năm làm nên một Quan họ nảy trong tôi từ lâu, nay tôi mới có dịp và điều kiện đi thực tế. Tôi đã thấy dòng máu Cham bàng bạc khắp đất nước Việt Nam, Trung Nam Bắc.

Và tôi đã thấy, gì nữa…