Danh ngôn

Trong mọi cộng đồng, chúng ta cần một nhóm thiên thần gây rối.

We need, in every community, a group of angelic troublemakers.

(Bayard Rustin – trích bài phát biểu tại New York City 1963)

Trong mọi trường hợp, chắc chắn rằng sự thiếu hiểu biết, đi kèm với quyền lực, là kẻ thù tàn bạo nhất có thể có của công lý.

It is certain, in any case, that ignorance, allied with power, is the most ferocious enemy justice can have.

(James Baldwin - No Name in the Street 1972)

Các cuộc cách mạng và các cá nhân có thể bị giết hại, nhưng bạn không thể giết chết các ý tưởng.

While revolutionaries and individuals can be murdered, you cannot kill ideas.

(Thomas Sankara, một tuần trước khi bị ám sát, 1987)

Không có cảm giác nào cô đơn hơn việc bị chính đất nước mình trục xuất.

There's not a more lonely feeling than to be banished by my own country.

(Kiyo Sato – Kiyo’s Story 2009)

Ban Biên tập

Địa chỉ liên lạc:

1. Thơ

tho.vanviet.vd@gmail.com

2. Văn

vanviet.van14@gmail.com

3. Nghiên cứu Phê Bình

vanviet.ncpb@gmail.com

4. Vấn đề hôm nay

vanviet.vdhn1@gmail.com

5. Thư bạn đọc

vanviet.tbd14@gmail.com

6. Tư liệu

vanviet.tulieu@gmail.com

7. Văn học Miền Nam 54-75

vanhocmiennam5475@gmail.com

Tra cứu theo tên tác giả

Thứ Sáu, 15 tháng 11, 2024

Từ mở rộng biên cương trên bản đồ đến xây dựng đảo nhân tạo: Lịch sử 100 năm tranh chấp biển Đông (8)

Tác giả: Lê Oa Đằng

Việt dịch: Phan Văn Song

This image has an empty alt attribute; its file name is image-61.png

從地圖開疆到人工造島:百年南海紛爭史

黎蝸藤

CÔNG TY SÁCH NGŨ NAM

ĐÀI BẮC-2017

III.3. Trung Quốc “tiếp thu” các đảo ở biển Đông

Ngày 14/8/1945, Đồng minh tuyên bố Nhật Bản chính thức đầu hàng và trong cùng ngày ban bố “Lệnh bình thường số 1”, công bố 5 khu vực tiếp nhận đầu hàng. Trong đó khu vực phía Bắc vĩ tuyến 16° N của Đông Dương do Trung Quốc tiếp nhận đầu hàng, khu vực phía Nam vĩ tuyến 16° N do Tổng chỉ huy chiến khu Đông Nam Á (Anh) và tư lệnh Australia tiếp nhận đầu hàng.

Theo sắp xếp tiếp nhận đầu hàng này, Hoàng Sa nằm ởA 15° đến 17° vĩ bắc, miễn cưỡng có thể tính là nằm trong phạm vi tiếp nhận đầu hàng của Trung Quốc, còn Trường Sa nằm trong khu vực tiếp nhận đầu hàng của Anh và Australia. Thực ra, trước đó rất sớm, việc tiếp nhận đầu hàng của Trường Sa đã được tiến hành rồi: ngày 10/8/1945, tại đảo Spratly (Trường Sa Lớn) Hải quân Anh chính thức tiếp nhận sự đầu hàng của Nhật Bản; ngày 21/11/ 1945, ba chiếc tàu chiến Mĩ đến đảo Ba Bình (đảo lớn nhất trong quần đảo Trường Sa) thực hiện xử lí quân chiếm đóng Nhật Bản trên đảo này.[285] Còn Hoàng Sa không hề có trình tự tiếp nhận đầu hàng chính thức, quân Nhật tự động rút lui khỏi Hoàng Sa về đảo Hải Nam.

Cần phải chỉ ra là: thứ nhất, tiếp nhận đầu hàng không phải có nghĩa là quy thuộc chủ quyền, ví dụ như Trung Quốc tiếp nhận đầu hàng ở miền Bắc Việt Nam, sau đó trao lại cho Pháp; thứ hai, ở Hoàng Sa không có một nghi thức tiếp nhận đầu hàng, bất kể người Pháp hay là người Trung Quốc khi quay lại Hoàng Sa vào năm 1946, đều không có lính Nhật nào trên đảo, vì vậy lấy việc tiếp nhận đầu hàng làm lí do để đến Hoàng Sa là không đứng vững; thứ ba nghi thức tiếp nhận đầu hàng ở Trường Sa đã được quân đội Anh hoàn thành vào ngày 10/8 trước khi Thế chiến II kết thúc, vì vậy cái gọi là “tiếp nhận đầu hàng” ở Trường Sa năm 1946 của Trung Quốc là không tồn tại. Tuy nhiên, điều đáng chú ý là việc tiếp nhận đầu hàng cùng sự hiện diện quân sự của Trung Quốc ở miền Bắc Việt Nam có quan hệ hết sức quan trọng đối với sự phát triển của tình hình Hoàng Sa và Trường Sa sau đó, khi Pháp trở lại biển Đông sau chiến tranh, nước này luôn luôn lo lắng về thái độ của Trung Quốc.

Sau chiến tranh, việc quan trọng hàng đầu của Trung Quốc trong vấn đề lãnh thổ phía Nam là “thu hồi Đài Loan”. Ngay khi chiến tranh kết thúc, ngày 29/8 Tưởng Giới Thạch liền bổ nhiệm Trần Nghi làm trưởng quan hành chính tỉnh Đài Loan, ngày 1/9 tuyên bố thành lập “Văn phòng trưởng quan hành chính tỉnh Đài Loan” và “Bộ Tổng tư lệnh Cảnh vệ tỉnh Đài Loan” tại Trùng Khánh, đồng thời uỷ nhiệm Trần Nghi kiêm nhiệm Tổng tư lệnh “Bộ Tổng tư lệnh Cảnh vệ tỉnh Đài Loan”. Ngày 15/10, Quân đội chính phủ Quốc dân đổ bộ lên cảng Cơ Long. Ngày 25/10, Đài Loan tiến hành lễ tiếp nhận đầu hàng, văn phòng trưởng quan hành chính tỉnh Đài Loan chính thức hoạt động, Trần Nghi tuyên bố Đài Loan và quần đảo Bành Hồ chính thức đưa vào bản đồ Trung Quốc trở lại, Đài Loan đã được thu hồi.

Đối với các đảo biển Đông bao gồm Đông Sa, Hoàng Sa và Trường Sa, ban đầu Trung Quốc không hề để ý đến. Mãi đến ngày 19/4/1946, khi Trần Nghi gửi thư cho Bộ Ngoại giao thì mới gây sự chú ý của Trung Quốc đối với các đảo biển Đông. Hóa ra trong thời chiến các trạm khí tượng ở Trường Sa và Hoàng Sa đều do đài khí tượng của Đài Loan quản lí. Sau chiến tranh, 5 nhân viên công tác đài khí tượng do Toàn quyền Đài Loan phái đến đảo Hoàng Sa đã mất tích 2 năm. Trại tù binh San Francisco ở Mĩ gửi thư cho phía Đài Loan, cho biết hai người trong số đó đã được quân Mĩ cứu, nhưng vẫn còn 3 người không rõ tung tích, mong phía Đài Loan giúp đỡ tìm kiếm.

Vì vậy, họ tra cứu các ghi chép, vào ngày 8/12/1945, đài khí tượng Đài Loan phái một tàu cứu hộ đến Hoàng Sa tìm kiếm, phát hiện Hoàng Sa không có một bóng người, phần lớn thiết bị đã bị phá huỷ, phỏng đoán 3 người còn lại có thể theo người Pháp rút về Việt Nam. Lúc này, trong thư gửi cho trung ương, Trần Nghi mới đề xuất: “Quần đảo Hoàng Sa vốn thuộc lãnh thổ nước ta, nên để tỉnh chúng tôi hay tỉnh Quảng Đông tiếp thu?[286]

Cùng ngày, Trần Nghi lại gửi thư cho Viện Hành chính đề xuất: (1) Hoàng Sa là lãnh thổ của Trung Quốc, có nên để Đài Loan tiếp thu hay không?; (2) Đông Sa gần Đài Loan, lại có ngư dân Đài Loan hoạt động, dự kiến để Đài Loan tiếp thu; (3) Quần đảo Tân Nam trong thời kì Nhật trị thuộc Cao Hùng quản lí, hiện đang tích cực chuẩn bị tiếp thu, xin chuyển điện cho Bộ Tổng tự lệnh quân đội Mĩ ở Philippines nhờ giúp đỡ.[287]

Đáng để nhắc đến là trong “Tuyển tập sử liệu” do Đài Loan xuất bản có nhắc đến việc “tháng 11 năm Dân quốc thứ 34 (1945), Cục Khí tượng thuộc Văn phòng trưởng quan hành chính Đài Loan phái người đến tiếp thu trạm đo đạc khí hậu ở Hoàng Sa”, đồng thời đưa ra sử liệu: trong giấy thông hành do Tổng tư lệnh Cảnh vệ cấp phát ngày 20/11 có bản tiếng Trung và tiếng Anh, cho phép một tàu cứu hộ ra biển, thời gian có hiệu lực là từ ngày 20/11 đến ngày 30/12. Sau đó “Tuyển tập sử liệu” miêu tả vì “đi lại khó khăn không thể đến nơi được”.[288] Nhưng “Tuyển tập lịch sử” lại cho thấy một bức ảnh của một hồ sơ được tạo ra vào năm Dân quốc thứ 63 (năm 1974), trong đó thấy có một tấm bia gỗ viết “Cục Khí tượng Văn phòng trưởng quan hành chính Đài Loan đã tiếp thu xong”. Lời ghi chú bên cạnh bức ảnh chỉ rõ đây là “Bia kỉ niệm Văn phòng trưởng quan hành chính Đài Loan tiếp thu trạm đo đạc khí hậu Tây Sa” tháng 11/1945.[289] Trong “Tuyển tập sử liệu” không giải thích vì sao phía trước nói “đi lại khó khăn không thể đến nơi được”, sau đó lại nói đến việc dựng bia kỉ niệm ở đó. Hơn nữa vì sao “đi lại khó khăn không thể đến nơi được” mà trong thư ngày 19/4/1946 Trần Nghi lại nói rằng ngày 8/12 ông có phái thuyền đến đó? Hiện vẫn không rõ. Rất có thể ngày 8/12 thực sự có “tàu cứu hộ” xuất phát đi Hoàng Sa, mục đích chuyến đi của Đài khí tượng là tiếp thu trạm đo đạc khí hậu Hoàng Sa hay tìm kiếm nhân viên mất tích, hoặc có thể cả hai. Trên hai tấm giấy thông hành này đều có đóng dấu của Trần Nghi, nhưng không khẳng định ông có đích thân tham dự vào việc này hay không. Tuy nhiên, xét từ bức thư Trần Nghi gửi Viện Hành chính ngày 19/4/1946, việc đi đến Hoàng Sa tháng 12/1945 chắc chắn không thể được coi là hành động tiếp thu Hoàng Sa. Tóm lại, sự kiện năm 1945 này không làm ông chú ý, cũng không nghĩ đến việc “tiếp thu Hoàng Sa và quần đảo Tân Nam” vào lúc đó, mãi đến khi nhận được thư của phía Mĩ năm 1946 ông mới đem ra bàn với Bộ Ngoại giao và Viện Hành chính.

Qua đó, các đảo biển Đông bị lãng quên nay mới trở lại tầm ngắm của chính phủ Trung Quốc. Viện Hành chính lập tức gửi thư cho Bộ Ngoại giao và Bộ Nội chính, yêu cầu nghiên cứu các công việc liên quan đến việc tiếp thu. Bộ Ngoại giao cho rằng Hoàng Sa là nơi tranh chấp giữa Trung quốc và Pháp trước chiến tranh, trong Thế chiến thứ hai, ban đầu bị Pháp chiếm đóng rồi bị Nhật chiếm lấy sau đó, nên để Trung Quốc tiếp thu, nhưng chọn để Quảng Đông hay Đài Loan tiếp thu thì do Bộ Nội chính định đoạt; Đông Sa thuộc lãnh thổ Trung Quốc, xem như có thể do Đài Loan quản lí sau khi thu hồi; quần đảo Tân Nam thì “không thuộc phạm vi chuyên ngành của Bộ chúng tôi”, do đó trong trả lời không có nhắc đến.[290]

Tiếp đó, Trung Quốc bắt đầu tích cực chuẩn bị việc tiếp thu. Đối với Hoàng Sa, Bộ Ngoại giao bắt đầu chỉnh lí hồ sơ có liên quan đến Hoàng Sa để đề phòng phía Pháp có thể cản trở. Đối với quần đảo Tân Nam,[291] Bộ Ngoại giao chỉ thị tòa Lãnh sự ở Manila tìm đến quân Mĩ đóng ở Philippines để nhờ giúp đỡ.[292] Nhưng quân Mĩ đóng ở Philippines cho rằng những đảo này không phải là khu vực quản lí của mình, muốn Trung Quốc đàm phán với Tổng tư lệnh MacArthur ở Tokyo.[293] Do đó, Bộ Ngoại giao yêu cầu đại diện ở Nhật đàm phán với McArthur,[294] nhưng không thấy văn bản về việc này, không biết có liên hệ với McArthur hay chưa cũng như không biết được phản ứng của phía Mĩ.

Mới đầu, công tác tiếp thu của Trung Quốc đối với Hoàng Sa và quần đảo Tân Nam là độc lập. Hoàng Sa và Đông Sa tương đối đơn giản, rất nhanh chóng bắt đầu thực hiện theo trình tự cụ thể, hạ tuần tháng 5 thì đã bắt đầu chỉ định sẽ do đơn vị bộ đội nào tiến hành tiếp thu. Ngày 12/9, đảo Đông Sa do toàn bộ 64D được phái từ một trong những binh đoàn 159B tiến vào chiếm giữ.[295] Vì khoảng cách tương đối xa, lại có khả năng tranh chấp ngoại giao, nên việc tiếp thu Tây Sa (Hoàng Sa) được thảo luận cùng với Nam Sa (Macclesfield Bank) và Đoàn Sa (Trường Sa) sau đó. Nhưng về vấn đề quần đảo Tân Nam, do nhận thức không đầy đủ về địa lí và lịch sử nên dẫn đến tranh luận rất lớn. Lúc này, do Philippines đã đưa ra yêu sách với quần đảo Tân Nam (xem phần sau), khi tiếp thu quần đảo Tân Nam Trung Quốc không thể không thận trọng hơn. Đâu là ranh giới của quần đảo Tân Nam ? Quần đảo Tân Nam mà người Philippines chỉ ra có phải chính là quần đảo Tân Nam mà Đài Loan chỉ ra không? Quan hệ của nó với quần đảo Nam Sa, quần đảo Đoàn Sa như thế nào đều không thể biết được. Mới đầu có người cho rằng quần đảo Tân Nam chính là quần đảo Nam Sa (tức quần đảo Trung Sa hiện nay),[296] nhưng qua nghiên cứu của Tổng lãnh sự Manila mới sáng tỏ là quần đảo Tân Nam và quần đảo Nam Sa của Trung Quốc không phải một, mà là quần đảo Đoàn Sa.[297] Nhưng Đoàn Sa và quần đảo Tân Nam có phải là một hay không vẫn còn có nghi vấn. Khi mở rộng biên giới trên bản đồ lần thứ nhất năm 1935, Trung Quốc đặt tên cho Spratly Islands (Trường Sa) là Đoàn Sa vốn là tên dịch ra tiếng Trung của Tizard Islands, nó chỉ để gọi các đảo ở phía Bắc quần đảo Tân Nam. Vì vậy trong bản đồ của Trung Quốc, Đoàn Sa có lúc chỉ toàn bộ quần đảo Tân Nam, có lúc chỉ chỉ các đảo phía Bắc của quần đảo Tân Nam. Tình hình lộn xộn này mới được làm sáng tỏ trong bức điện cuối tháng 8 mà Tổng lãnh sự quán ở Manila gửi Bộ Hải quân: “Kiểm tra thấy quần đảo Tân Nam (Shinnan Gunto) không phải tên gọi khác của quần đảo Nam Sa (Macclesfield Bank), quần đảo này nằm ở giữa quần đảo Nam Sa, Philippines, Borneo và bán đảo Đông Dương, bao gồm tất cả đảo và đá ở biển Nam Trung Quốc, đảo chính của nó bao gồm quần đảo Đoàn Sa (Tizard Bank), đảo Trung Tiểu (Loaita Bank), đảo Thiên Tân (Thitu Island), đá Bắc Hiểm (North Danger) và đảo Tây Điểu (Spratly hay Storm Island)...[298] Phải mất trọn vẹn hai tháng để làm rõ vấn đề này.

Đến tháng 8, Viện Hành chính quyết định giao tỉnh Quảng Đông tạm thực hiện việc tiếp thu “các quần đảo Đông Sa, Tây Sa, Nam Sa, Đoàn Sa”,[299] không biết được vì sao không để Đài Loan tiếp thu, có thể là muốn tiện việc thống nhất hành động. Ngày 20/9, Bộ Nội chính, Bộ Ngoại giao, Bộ Quốc phòng và Hải quân cùng tổ chức hội nghị về việc tiếp thu “quần đảo Đoàn Sa”. Hội nghị đã thảo luận các vấn đề địa lí có liên quan đến quần đảo Tân Nam. Hải quân nói quần đảo Đoàn Sa chỉ là một bộ phận của quần đảo Tân Nam, nhưng Đài Loan nói quần đảo Đoàn Sa chính là quần đảo Tân Nam, hơn nữa hai bên đưa ra giải thích khác nhau về vị trí quần đảo Tân Nam, Hải quân nói quần đảo Tân Nam nằm giữa 112° đến 117° kinh Đông, Đài Loan nói giữa 111° đến 117° kinh Đông. Rốt cuộc phải xác định vị trí và tên gọi cũng như phạm vi của quần đảo này như thế nào? Cuối cùng, các bên quyết định: (1) Tỉnh Quảng Đông tiếp thu quần đảo Đoàn Sa càng sớm càng tốt với sự giúp đỡ của Bộ Quốc phòng, phạm vi địa lí tiếp thu do Bộ Nội chính định ra; (2) Về vị trí địa lí quần đảo này và tên gọi các đảo thuộc về nó, Bộ Nội chính cần phải chỉnh vẽ lại trên bản đồ chi tiết; (3) Trước mắt không cần nêu ra vấn đề chủ quyền của quần đảo này với các nước, nhưng để ứng phó với các tranh chấp có thể phát sinh trong tương lai, Bộ Nội chính, Bộ Quốc phòng và Bộ Tổng tư lệnh Hải quân cần gửi các tư liệu có liên quan cho Bộ Ngoại giao để dùng cho việc giao thiệp.[300]

Ngày 25/9, bốn bộ lại họp lần nữa, Bộ Nội chính đưa ra bản vẽ “Nam Hải chư đảo vị trí lược đồ” (南海諸島位置略圖: Lược đồ vị trí các đảo biển Đông) được vẽ và bản dịch “Nam Hải chư đảo danh xưng nhất lãm biểu” (南海諸島 名稱一覽表: Bảng kê tên gọi các đảo biển Đông). Cuộc họp đã thống nhất phân định khu vực tiếp thu theo bản đồ của Bộ Nội Chính, và trước khi tiếp thu hoàn toàn, không công bố ra bên ngoài.[301] Trong bản đồ và bảng kê tên gọi này, quần đảo Tân Nam được chính thức đặt tên là quần đảo Nam Sa, “quần đảo Nam Sa” được đặt tên lại là “quần đảo Trung Sa”, còn quần đảo Đoàn Sa là nhóm đảo, đá ở phía Bắc quần đảo Tân Nam, nhưng tên gọi các đảo, đá cơ bản như phiên bản năm 1935.[302]

Trong bản đồ này đã xuất hiện đường chữ U do 8 đoạn rời nhau tạo thành,[303] đây là sự xuất hiện sớm nhất của nguyên mẫu “đường 9 đoạn” sau này trong văn kiện chính thức. Cách vẽ cơ bản giống với “đường 9 đoạn”, bao gồm cả bãi Chiêm Mỗ (詹姆沙: Chiêm Mỗ sa, nay gọi là bãi ngầm Tăng Mẫu / James Shoal). Xét từ quá trình ra đời, có thể thấy rằng mục đích của đường này chỉ là để chỉ định phạm vi các đảo tiếp thu. Trong “Nam Hải chư đảo danh xưng nhất lãm biểu” (Bảng kê tên gọi các đảo biển Đông) không hề bao gồm đá Dân Chủ (đảo Hoàng Nham/ Scarborough Shoal). Sau quá trình chuẩn bị này, ngày 9/10, Bộ Quốc phòng chủ trì tổ chức “Hội nghị tiến quân chiếm đóng quần đảo Nam Hải” với sự tham gia của Bộ Ngoại giao, Bộ Nội chính, Cục Quân vụ, Bộ Tổng tư lệnh Hải quân, Bộ Tổng tư lệnh Không quân, Bộ Tổng tư lệnh Liên cần... Quyết định rằng Hải quân hoàn thành công tác tiến quân chiếm đóng Tây Sa, Nam Sa (quần đảo Trung Sa) và Đoàn Sa (quần đảo Nam Sa) trước ngày 7/11, việc quân sự của các quần đảo tạm do hành doanh Quảng Châu quản lí, Bộ Ngoại giao phải làm công tác chuẩn bị ngoại giao, nhưng tạm không nêu ra vấn đề chủ quyền với các nước.[304]

Sau khi người Nhật rút đi, xuất hiện khoảng trống quyền lực ở các đảo biển Đông. Năm 1946, người Pháp đã đổ bộ lên đảo San Hô (Hoàng Sa) ở Hoàng Sa và đảo Trường Sa Lớn ở Trường Sa nhưng phía Trung Quốc dường như không biết điều đó (xem III.5), còn Philippines mới độc lập đã tuyên bố có chủ quyền đối với Trường Sa, nhưng không có hành động thực tế (xem phần sau). Trung Quốc ý thức về những tranh chấp ngoại giao mà Hoàng Sa và Trường Sa sẽ gây ra nên quyết định chiếm đóng các đảo biển Đông càng sớm càng tốt, đặc biệt là Hoàng Sa và Trường Sa đang có tranh chấp. Hành động này nếu không bí mật thì cũng không hề công khai. Có thể thấy, Trung Quốc biết rõ tình hình quốc tế có tranh chấp về chủ quyền, nên muốn chiếm càng sớm càng tốt để tạo thành sự đã rồi, tạo cơ sở cho các tranh chấp ngoại giao có thể xảy ra sau này. Vì vậy, mặc dù Trung Quốc định nghĩa hành động này là “tiếp thu” nghe có vẻ quang minh chính đại nhưng vẫn tiến hành không công khai.

Hải quân mỏng yếu của Trung Quốc bị Nhật Bản tiêu diệt hoàn toàn trong chiến tranh, không có sẵn để có thể dùng đi “tiếp thu” Hoàng Sa và Trường Sa. May gặp dịp sau chiến tranh Mĩ dư thừa số lượng lớn vật tư quân sự, vì vậy phía Mĩ đã tặng cho Trung Quốc một lô tàu chiến trong Thế chiến II theo “Đạo luật thuê mượn” (Lend-Lease Act), đúng vào lúc có thể dùng vào công tác tiếp thu. Vào ngày 29/10, bốn tàu chiến (Vĩnh Hưng, nguyên là USS Embattle, thuyền trưởng Lưu Nghi Mẫn; Trung Kiến, nguyên là LST-716, thuyền trưởng Trương Liên Thụy; Thái Bình, nguyên là USS Decker, thuyền trưởng Mạch Sĩ Nghiêu; Trung Nghiệp, nguyên là LST-1056, thuyền trưởng Lí Đôn Khiêm) xuất phát từ Thượng Hải, dừng lại ở Hổ Môn một thời gian ngắn, bổ sung nhân viên đo vẽ, ngày 6/11 từ Hổ Môn lên đường đến Du Lâm, Hải Nam, bổ sung vật tư và thuê ngư dân địa phương làm hướng đạo. Sau đó, đoàn chia làm hai nhóm, Diêu Nhữ Ngọc chỉ huy hai tàu “Vĩnh Hưng” và “Trung Kiến” đến Hoàng Sa ngày 24/11, dựng “Bia kỉ niệm Hải quân thu hồi quần đảo Tây Sa” trên đảo Vĩnh Hưng (khi đó vẫn gọi là đảo Vũ Đức hoặc đảo Cây, đảo Phú Lâm, Woody Island), đồng thời để lại một đơn vị quân trú đóng và xây dựng một trạm khí tượng.

Lâm Tuân thì chỉ huy tàu “Thái Bình” và “Trung Nghiệp” đến đảo Thái Bình (khi đó gọi là đảo Trường) vào ngày 12/12. Đây là lần đầu tiên chính phủ Trung Quốc tuyên bố chủ quyền ở Trường Sa được lịch sử ghi chép có thể tra cứu. Trên đảo Thái Bình (Ba Bình), quan quân đã cử hành nghi thức tiếp thu, tuyên bố đảo Thái Bình do tỉnh Quảng Đông quản lí, đồng thời thành lập Ban Quản lí quần đảo Nam Sa trên đảo Thái Bình. Quan quân cũng dựng bia đá, kéo quốc kì và đã phá bỏ kiến trúc cũ của Nhật Bản xây dựng trên đảo Thái Bình. Trên đảo còn thấy bia đá do người Pháp để lại vào tháng 10 cùng năm.[305] Nhân viên khoa học kĩ thuật cùng đi còn đo vẽ bản đồ địa hình, khảo sát môi trường tự nhiên cũng như thu thập một số khoáng vật và mẫu đất. Bia đá quan quân lập trên đảo Thái Bình khắc chữ “Trung Hoa Dân quốc dựng lại ngày 12 tháng 10”. Nhưng trên thực tế đó là lần đầu tiên Trung Quốc lập bia ở quần đảo Trường Sa.

Sau đó vào tháng 3/1947 Trung Quốc lại phái tàu Thái Bình đến đảo Đông Sa, đồng thời tuyên bố Đông Sa, Tây Sa, Nam Sa đều thuộc quyền quản lí của Hải quân.[306]Đến lúc đó, Trung Quốc cho rằng các đảo ở biển Đông “đều nằm dưới quyền quản lí chủ quyền của chính phủ Trung Quốc một lần nữa”.[307] Nhưng điều này còn có nhiều nghi vấn. Thứ nhất, từ “một lần nữa” không hề chuẩn xác, đó là lần đầu tiên Trung Quốc quản lí Trường Sa; thứ hai, Trung Quốc chỉ đến đảo Ba Bình mà đánh đồng với việc đã quản lí toàn bộ Trường Sa là có vấn đề; thứ ba, khi đó nước Pháp có đóng quân ở Hoàng Sa, Trung Quốc chỉ tiến quân chiếm đóng đảo Phú Lâm ở phía Đông, không hề quản lí toàn bộ Hoàng Sa. Hành động của Trung Quốc bị Pháp phản đối, và Pháp cũng không thừa nhận chủ quyền của Trung Quốc ở Hoàng Sa và Trường Sa. Tàu thuyền Trung Quốc dùng khi “thu hồi” Hoàng Sa và Trường Sa đều là tàu thuyền do Mĩ tặng Trung Quốc. Nếu như không có số tàu này, Trung Quốc trên cơ bản có thể không có cách nào “thu hồi” các đảo biển Đông trước nước khác (chẳng hạn như Philippines). Thế nhưng gần đây Bộ trưởng Ngoại giao Trung Quốc Vương Nghị lại nói “Trung Quốc và Mĩ lúc đó là đồng minh, quân Trung Quốc lúc đó ngồi trên tàu chiến của Mĩ để thu hồi quần đảo Nam Sa, điểm này các bạn Mĩ phải rất rõ chứ”.[308] Ý Vương Nghị nói bóng gió là việc Trung Quốc ‘thu hồi’ các đảo ở biển Đông được phía Mĩ ủng hộ. Kiểu lập luận này quả là sằng bậy – quân Trung Quốc khi đó không hề ngồi trên “tàu chiến của Mĩ”, mà là ngồi trên “tàu chiến của Mĩ tặng” để ‘thu hồi’ quần đảo Trường Sa. Hơn nữa, khi đó không hề có chuyện Mĩ biết trước kế hoạch thu hồi của Trung Quốc. Sau khi Mĩ tặng tàu chiến cho Trung Quốc, những tàu chiến này chính là tàu chiến của Trung Quốc, không có bất cứ quan hệ gì với Mĩ nữa. Nếu không, nếu như Trung Quốc bán hoặc tặng vũ khí cho nước khác, được nước đó dùng để đánh nhau, thì liệu có thể nói là Trung Quốc ủng hộ nước đó đánh nhau không?

III.4. Mở rộng biên cương trên bản đồ lần thứ hai và sự xuất hiện đường đứt đoạn hình chữ U

Ngay sau khi Trung Quốc tiếp thu và đóng quân ở các đảo biển Đông, Trung Quốc và Pháp đã có tranh chấp về chủ quyền quần đảo Hoàng Sa và Trường Sa (xem tiết sau). Trung Quốc khi đó vẫn chưa chính thức công bố việc tiếp thu quần đảo Hoàng Sa, cũng vẫn chưa công bố phạm vi quần đảo Trường Sa. Do đó, để củng cố tính hợp pháp của chủ quyền Hoàng Sa, Trường Sa, chính phủ Dân quốc quyết định thảo luận về việc có cần công bố quá trình tiếp thu hay không, công bố thế nào và đâu là phạm vi lãnh thổ của Trung Quốc ở Hoàng Sa và Trường Sa mà Trung Quốc muốn nêu ra trong công bố. Về hai vấn đề đầu, thái độ các bên cơ bản giống nhau, tức là cần phải công bố, công bố trong nước thì tốt hơn. Nhưng về vấn đề thứ ba, mặc dù trước khi tiếp thu đã xác định phạm vi quần đảo Trường Sa, nhưng việc có nên công bố theo phạm vi này hay không vẫn còn gây tranh cãi, Lâm Tuân - người chủ trì việc tiếp thu, đã đưa ra 3 phương án về cách tiếp thu của Trung Quốc ở quần đảo Trường Sa để bàn cho việc công bố: thứ nhất, lấy quần đảo Tân Nam của Nhật Bản làm phạm vi, tức là tất cả các đảo, bãi, đá từ 7° đến 12° vĩ Bắc, 111° đến 117° kinh Đông, nhưng e là quá gần đảo Palawan của Philippines; thứ hai, từ 7° đến 12° vĩ Bắc, 111° đến 115,5° kinh Đông; thứ ba, 10° đến 12° vĩ Bắc, 114° đến 115° kinh Đông.[309] Ông cho rằng phương án 2 lí tưởng nhất, tức là cần phải từ bỏ các đảo nhỏ ở phía Đông gần với Philippines.[310] Nhưng Bộ Nội chính cho rằng cần phải tuyên bố chiếm hữu toàn bộ quần đảo Trường Sa.

Ngày 14/4/1947, Bộ Nội chính mời các cơ quan có liên quan họp, thảo luận “Phương án xác định và công bố phạm vi và chủ quyền Tây Sa, Nam Sa”, kết quả là:

(1) “Cực Nam phạm vi lãnh thổ biển Đông phải đến bãi Tăng Mẫu, trước chiến tranh chống Nhật phạm vi này đã được các xuất bản phẩm của các cơ quan, trường học và nhà sách của nước ta lấy làm chuẩn, và từng có việc Bộ Nội chính trình phương án lên, nhưng vẫn theo phương án cũ không thay đổi”;

(2) “Việc công bố chủ quyền quần đảo Tây Sa, Nam Sa do Bộ Nội chính trình phương án lên chính phủ Dân Quốc sau khi đặt tên, vẫn do Bộ Nội chính thông báo cả nước biết. Trước khi công bố, Bộ Tổng tư lệnh Hải quân phải cố gắng hết sức tiến quân chiếm đóng tất cả các đảo thuộc quần đảo này càng nhiều càng tốt”.[311]

Nhưng có thể do Lâm Tuân vẫn kiên quyết, Viện Hành chính có vẻ thấy rằng có thể bàn bạc lại.[312] Ngày 10/6, Viện Hành chính tổ chức hội nghị 3 bên gồm Bộ Nội chính, Bộ Quốc phòng và Bộ Ngoại giao để thảo luận công việc có liên quan. Công bố phạm vi quần đảo Tây Sa là toàn bộ quần đảo Tây Sa, các ý kiến về cơ bản nhất trí, nhưng phạm vi quần đảo Nam Sa thì có quan điểm khác nhau. Đại biểu Bộ Nội chính Phó Giác Kim cho rằng phải lấy ấn phẩm về phạm vi lãnh thổ Nam HảiHải mà Bộ Nội chính xuất bản trước chiến tranh làm chuẩn, công bố tiếp thu toàn bộ quần đảo Nam Sa. Bộ Quốc phòng thì cho rằng kiến nghị của Lâm Tuân chỉ là kiến nghị của cá nhân, không đại diện Bộ Quốc phòng; “tuy nhiên, kiểm tra phạm vi kiểm soát của Nhật với quần đảo Nam Sa cũng xác định là bao gồm toàn bộ các đảo, nhưng không xa đến biển quốc tế ở phía Tây, ta tiếp thu từ trong tay người Nhật, hiển nhiên vẫn có thể lấy phạm vi này làm chuẩn” (tức lấy phạm vi quần đảo Tân Nam của Nhật Bản). Bộ Ngoại giao cho rằng trước tiên Bộ Quốc phòng sẽ đưa quân đến trú đóng ở những điểm quan trọng trong quần đảo, sau đó sẽ quyết định phạm vi và cách thức thông báo. Cuối cùng, hội nghị quyết định:

(1) Phạm vi công bố phải theo phạm vi lãnh thổ Nam Hải do Bộ Nội chính đệ trình làm chuẩn;

(2) Việc công bố phải được thực hiện trong nước qua tuyên bố báo chí, và Bộ Nội vụ nên biên soạn lịch sử, địa lí cùng thiết bị cũng như bản đồ giải thích kèm theo của quần đảo Tây Sa, Nam Sa trình chính phủ để lưu hồ sơ, đồng thời thông báo cho các cơ sở và trường học trong nước biết;

(3) Về thời gian công bố, phải chờ sau khi tiến quân chiếm đóng các đảo quan trọng của quần đảo Nam Sa (như đảo Song Tử và đảo Nam Uy) và sau khi lập các cột mốc đánh dấu lãnh thổ trên các đảo thứ yếu lân cận rồi mới công bố.[313]

Trong bản thẩm tra giải thích của Bộ Ngoại giao, những thảo luận khi đó được miêu tả nhiều hơn. Hải quân đề nghị để tránh va chạm với Philippines phải từ bỏ các đảo vô dụng gần nước này, hạn chế phạm vi Nam Sa ở quần đảo từ 7° đến 12° vĩ Bắc, 111° đến 115° 30’ kinh Đông. Nhưng hội nghị cho rằng có 4 lí do không thể theo đề nghị của Hải quân: (1) Việc hoạch định cương giới một nước phải lấy chủ quyền thuộc về ai làm căn cứ, không thể vì có tranh chấp với nước khác, sợ tranh chấp mà từ bỏ; (2) Nam Sa đã là lãnh thổ của ta, hơn nữa phạm vi thu hồi xác định trước đó đã xác định tọa độ là “4° đến 12° vĩ Bắc, 111° 30’ đến 117° kinh Đông, cực Nam biên giới nước ta là đảo James ở 4° vĩ Bắc”, không phải nghi ngờ gì nữa; (3) Dù những đảo dự tính bỏ đi không có giá trị kinh tế nhưng về quân sự có lợi cho hoạt động của tàu ngầm, huống chi là chủ quyền ở đó, cũng không thể từ bỏ, “mở rộng lãnh thổ, không lo lãnh thổ quốc gia quá nhiều, người ta muốn còn chẳng được, lẽ nào chúng ta có thể tự mình cam tâm từ bỏ”; (4) Lãnh hải cũng là một bộ phận của lãnh thổ quốc gia, liên quan đến chủ quyền, không dễ dàng từ bỏ, vả lại quần đảo Nam Sa cách đảo Palawan trên 12 hải lí, ngoài 3 hải lí lãnh hải mỗi bên ra, hai bên còn cách nhau một khoảng biển quốc tế đáng kể. Về phương thức tuyên bố thì sử dụng phương thức công bố trong nước, không cần sử dụng phương thức tuyên bố quốc tế, vì “quần đảo Nam Sa dựa theo báo cáo của Bộ Nội chính về địa lí và lịch sử là lãnh thổ nước ta đã có căn cứ.” Nhưng chỉ công bố toàn bộ quần đảo là phạm vi thu hồi thì chưa đủ, phải nhanh chóng chiếm đóng thực sự mới là thượng sách.[314]

Trong lần thảo luận này quyết định không lựa chọn thi hành phương thức công bố quốc tế, tác giả cho rằng lí do thực sự là sợ quốc tế phản đối. Cái gọi là “quần đảo Nam Sa dựa theo báo cáo của Bộ Nội chính về địa lí và lịch sử là lãnh thổ nước ta đã có căn cứ”, theo thảo luận phần trên, ngay cả chưa tới mức cả vú lấp miệng em thì chứng lí cũng yếu kém – Trung Quốc chưa từng nêu ra với quốc tế rằng quần đảo Trường Sa thuộc nước này thì dùng cái gì để nói “đã có căn cứ” ? Động thái của Trung Quốc chẳng qua là thông qua các tuyên bố trong nước cùng lúc với việc kiểm soát thực tế càng sớm càng tốt để tạo ra ấn tưởng giả về “sự đã rồi”. Dù như thế nào, căn cứ theo quyết định hội nghị, ngày 15/7 Viện Hành chính đưa ra huấn lệnh: (1) Về phạm vi Tây Sa, Nam Sa, phạm vi của cả hai đều là toàn bộ quần đảo; (2) Về việc tuyên bố thu hồi các đảo thì Tây Sa không cần tuyên bố (vì đã tuyên bố nhiều lần), và vì Nam Sa chỉ thực sự chiếm đảo Thái Bình nên không cần phải tuyên bố toàn bộ hoặc một phần thuộc về ta; (3) Nước ta cần phải phái quân đến chiếm đóng các nơi như bãi Song Tử và đảo Spratly... (4) Trong tương lai, khi nào và dùng phương thức nào tuyên bố các quần đảo này thuộc về ta hoặc do ta thu hồi cần phải xem tình hình chiếm đóng thực tế ở quần đảo Tây Sa, Nam Sa rồi họp để quyết định.[315]

Do đó, Ti Phương vực Bộ Nội chính tiến hành công tác đặt tên một lần nữa. Trước đó, Bộ Nội chính đã đổi tên quần đảo Nam Sa trước đây thành quần đảo Trung Sa, đổi tên quần đảo Đoàn Sa trước đây thành quần đảo Nam Sa. Sau khi tiếp thu quần đảo Tây Sa, ngày 3/4, đảo Vũ Đức (Woody Island, trước đây cũng có tên là đảo Lâm) của Tây Sa được đổi tên thành đảo Vĩnh Hưng, đảo Trường (Itu Aba Island) của Nam Sa được đổi tên thành đảo Thái Bình (lấy tên tàu chiến của Trung Quốc khi tiếp thu để đặt tên).[316] Sau đó, tiến hành “khử Tây hóa” tên gọi các đảo thêm một bước. Tháng 10, Bộ Nội chính đã xác định phương án.[317] Tháng 12, Bộ Nội chính phê duyệt tên gọi mới của các đảo ở biển Đông, cũng xuất bản “Nam Hải chư đảo tân cựu danh xưng đối chiếu biểu” (南海諸島新舊名稱對照 表: Bảng đối chiếu tên gọi cũ mới các đảo biển Đông).[318]

Cùng lúc với việc xác định tên gọi, Bộ Nội chính cũng vạch ra vị trí các đảo ở biển Đông, và xuất bản “Nam Hải chư đảo vị trí đồ” (南海諸島位置圖: Bản đồ vị trí các đảo biển Đông) (Hình 15), trên bản đồ có vẽ đường 11 đoạn.

Trong sách “Nam Hải chư đảo địa lí chí lược” (南海諸島地理志略: Sơ lược địa lí các đảo ở biển Đông) do Trịnh Tư Ước biên soạn, Ti Phương vực chủ biên xuất bản tháng 11 cũng có đính kèm bản đồ này và bảng đối chiếu tên gọi các đảo bằng tiếng Trung và tiếng Anh rất chi tiết. Tháng 2/1948, Ti Phương vực Bộ Nội chính phát hành “Trung Hoa dân quốc hành chính khu vực đồ” (中華民國行政區 域圖: Bản đồ khu vực hành chính Trung Hoa Dân quốc),[319] các đảo biển Đông và đường đứt đoạn xuất hiện ở trên bản đồ nhỏ ở góc dưới phải của bản đồ lớn. Ba xuất bản phẩm này đều là xuất bản phẩm chính thức của nhà nước, đại biểu cho quyền uy và ý chí của chính phủ. Trong đường 11 đoạn, 2 đoạn ở Vịnh Bắc Bộ sau này bị chính phủ nước Cộng hòa Nhân dân Trung Hoa xóa đi, trở thành đường 9 đoạn được mọi người biết đến hiện nay, nước ngoài thường gọi nó là đường chữ U, cũng có người gọi là đường lưỡi bò.

Phiên bản ban đầu của “Nam Hải chư đảo vị trí đồ” là bản đồ đường 8 đoạn tháng 9/1946.[320] Từ phần thảo luận trên, có thể thấy rằng sự xuất hiện của bản đồ này nhằm giải quyết phạm vi tiếp thu của Hải quân đối với các đảo ở biển Đông, đặc biệt là phạm vi quần đảo Trường Sa mà lập ra. Vì vậy, hàm nghĩa của đường chữ U này chỉ là để chỉ định phạm vi các quần đảo, đánh dấu chúng là “lãnh thổ” của Trung Quốc. Nó không phải là một đường biên giới biển, cũng như không liên quan gì với bất cứ quyền lợi biển nào. Trong thảo luận của các bộ vào ngày 10/ 6, lãnh hải Trung Quốc được thừa nhận rõ ràng chỉ có 3 hải lí, giữa Trường Sa và đảo Palawan của Philippines có vùng biển quốc tế, do đó đường đứt đoạn không phải là đường lãnh hải.[321] Khi đó, mặc dù Tổng thống Mĩ Harry S. Truman tuyên bố đường tài nguyên trong phạm vi 200 hải lí,[322] nhưng khi vẽ đường này, Trung Quốc chưa hề nhắc đến tuyên bố của Truman, có thể thấy mục đích ban đầu của đường này không liên quan gì với quyền lợi tài nguyên biển.

This image has an empty alt attribute; its file name is image-77.png

Hình 15: “Nam Hải chư đảo vị trí đồ” (Bản đồ vị trí các đảo ở biển Đông) do Bộ Nội chính Chính phủ Quốc Dân xuất bản (1947)

Thực ra, trước thế chiến hai đã thấy đường chữ U trong các bản đồ không chính thức riêng lẻ của Trung Quốc. Vào năm 1941, trong sách “Trung Hoa Dân Quốc địa lí tân đồ” (中國民國地理新圖: Bản đồ địa lí mới Trung Hoa Dân Quốc) do Hồ Tấn Tiếp chủ biên đã xuất hiện đường phạm vi, bao gồm Đông Sa và Hoàng Sa bên trong.[323] Trong “Trung Hoa tối tân hình thế đồ” (中華最新形勢圖: Bản đồ hình thế mới nhất của Trung Hoa) do Đồ Tư Thông chủ biên cũng có đường phạm vi này, nhưng điểm cực Nam kéo dài đến khoảng 15° N.[324] Sau sự kiện 9 đảo nhỏ năm 1933, cùng với việc mở rộng biên giới trên bản đồ lần thứ nhất của Bộ Nội chính, bản đồ mới xuất bản ngoài việc thường ghi rõ 4 quần đảo lớn ra, còn có một số vẽ thêm vào đường phạm vi hình chữ U, nhưng phần lớn đều giới hạn trong 7° đến 9° N.[325]

Bản đồ đầu tiên vẽ bãi ngầm Tăng Mẫu vào trong đường chữ U thường được xem là bản đồ do Bạch Mi Sơ vẽ năm 1936. Trong tình hình trong nước và quốc tế khi đó, tuyệt đại bộ phận học giả Trung Quốc đều có tình cảm dân tộc mạnh mẽ. Dưới ngòi bút của họ, lãnh thổ “trước kia” của Trung Quốc càng lớn càng tốt, thậm chí cả những vùng lãnh thổ trước kia căn bản không thuộc Trung Quốc cũng bị xem là “đất đai bị mất” của Trung Quốc, ví dụ Triều Tiên, Việt Nam, Lưu Cầu (Ryukyu), thậm chí Afghanistan và Trung Á... Bạch Mi Sơ là một trong các đại diện. Ông là nhà địa lí học nổi tiếng, vào năm 1925 đã xuất bản sách “Trung Hoa Dân Quốc tỉnh khu toàn chí” (中華民國省區全志: Ghi chép toàn bộ các tỉnh, khu vực của Trung Hoa Dân Quốc) khoảng 4 triệu chữ (khi đó vẫn chưa có Nam Sa, cũng không có đường 9 đoạn). Năm 1929, sau khi bị loại khỏi Đại học Sư phạm Bắc Kinh, từ một nhà địa lí tương đối thuần túy ông bắt đầu trở nên cực đoan, trở thành coi “sinh mệnh nhân dân gửi vào trời đất, sức mạnh đất nước dựa vào lãnh thổ”, nhấn mạnh địa lí học phải phục vụ chủ quyền và toàn vẹn lãnh thổ đất nước.[326] Ông ta lần lượt xuất bản các bản đồ và sách như “Trung Quốc quốc sỉ đồ” (中國國恥圖: Bản đồ sỉ nhục của Trung Quốc), “Biên cương thất địa sử lược” (邊疆失 地史略: Sơ lược lịch sử đất biên cương bị mất) cùng các bản đồ và sách khác.[327] Từ tên sách có thể biết những sách này đều thổi phồng “nỗi nhục”. Đáng chú ý là mặc dù “Trung Quốc quốc sỉ đồ[328] (Hình 16) ra sức khuếch đại chủ nghĩa dân tộc nhưng trong bản đồ không có quần đảo Nam Sa, trái lại có quần đảo Sulu của Philippines. Bản đồ khác do Đồ Tư Thông xuất bản năm 1927 là “Trung Hoa cương giới biến thiên đồ” (中華疆界變遷圖: Bản đồ sự thay đổi biên giới của Trung Hoa)[329] (Hình 17), trong bản đồ có hai đường biên giới quốc gia là “biên giới quốc gia hiện tại” và “biên giới quốc gia trước kia”. Biên giới quốc gia trước kia thì bao gồm hầu như toàn bộ Đông Nam Á và quần đảo Sulu, nhưng không có quần đảo Trường Sa, còn biên giới hiện tại chỉ bao gồm quần đảo Hoàng Sa, tương tự như “Trung Quốc quốc sỉ đồ”.

This image has an empty alt attribute; its file name is image-78.png

Hình 16: “Trung Quốc quốc sỉ đồ” của Bạch Mi Sơ

Sau lần mở rộng biên giới trên bản đồ lần thứ nhất vào năm 1935, Bạch Mi Sơ nhanh chóng theo kịp tình hình. Vào năm 1936, trong bản in mới của “Trung Quốc kiến thiết tân đồ” (中國建設新圖: Bản đồ mới về kiến thiết Trung Quốc) do ông ta biên soạn có “Hải cương nam triển hậu chi Trung Quốc toàn đồ” (海疆南展後之中國全圖: Bản đồ toàn bộ Trung Quốc sau khi mở rộng biên giới biển về phía Nam) (Hình 18),[330] phạm vi của đường này đến khoảng 4° vĩ Bắc, đã bao gồm bãi ngầm Tăng Mẫu.[331] Tuy nhiên, bản đồ này không giải thích chứng cứ cho phạm vi này một cách thuyết phục, chỉ nêu rằng “tháng 7 năm thứ 22, Pháp chiếm 6 đảo ở biển Đông, sau đó Cục Đo đạc đường biển Bộ Hải quân đo đạc thực tế hai quần đảo Nam Sa, Đoàn Sa, nói chung đó là nơi ngư dân nước ta mưu sinh, chủ quyền của chúng đương nhiên thuộc về ta. Tháng 4 năm thứ 24, tập san của Uỷ ban thẩm tra bản đồ thuỷ bộ trung ương công bố bản đồ các đảo ở Nam Hải của Trung Quốc, phía Nam của biên giới biển kéo dài đến quần đảo Đoàn Sa, cực Nam đến bãi Tăng Mẫu, vừa đúng 4° vĩ Bắc, đó là quá trình phát triển của biên giới biển về phía Nam”.[332] Đoạn văn này có chỗ không đúng thực tế: năm 1933, Bộ Hải quân Trung Quốc không hề có chuyện gọi là “đo đạc thực tế hai quần đảo Nam Sa, Đoàn Sa”; nhưng cũng cho thấy rõ sự thật về chuyện mở rộng biên giới trên bản đồ. Kết hợp với khuynh hướng dân tộc chủ nghĩa của ông, chứng cứ này phần lớn là chủ quan. Bản đồ này của Bạch Mi Sơ đã trở thành tiền thân của đường chữ U bao trùm toàn bộ biển Đông, cực Nam đến bãi ngầm Tăng Mẫu sau này.

This image has an empty alt attribute; its file name is image-79.png

Hình 17: “Trung Hoa cương giới biến thiên đồ” của Đồ Tư Thông (1927)

This image has an empty alt attribute; its file name is image-80.png

Hình 18: “Trung Quốc kiến thiết tân đồ” của Bạch Mi Sơ (1936)

Ngoài ra, có một nhà bản đồ khác là Trần Đạc cũng vẽ đường chữ U lên trên biển vào khoảng năm 1935 với những thay đổi của nó cũng tương tư như đường của Bạch Mi Sơ. Trong bản in “Trung Quốc cương vực biến thiên đồ” (中國疆域變遷圖: Bản đồ thay đổi cương vực Trung Quốc) năm 1934 của ông, đường chữ U chỉ đến Hoàng Sa và Trung Sa (khi đó gọi là Nam Sa, Hình 19), trong “Trung Quốc cương vực biến thiên đồ” (Hình 20) xuất bản năm 1936 đường ranh giới từ chỗ biên giới Trung-Triều ở Hoàng Hải kéo dài liên tục đến biển Đông. Phần ở biển Đông gần giống với đường của Bạch Mi Sơ nhưng không biểu thị rõ bãi ngầm Tăng Mẫu.

Một bản đồ khác là “Trung Quốc phân tỉnh minh tế đồ” (中國分省明細圖: Bản đồ chi tiết phân chia các tỉnh của Trung Quốc) (1940, Hình 21) cũng có đường phạm vi này, diện tích bao phủ lớn hơn phiên bản của Bạch Mi Sơ và đường 9 đoạn sau này, về cơ bản vẽ sát vào đường bờ biển của các nước khác ở ven biển Đông. Xét đến việc từ cuối thời Thanh cho đến năm 1940, Trung Quốc chưa hề có một lần thực thi chủ quyền mang tính thực chất ở quần đảo Trường Sa (không kể việc mở rộng biên giới trên bản đồ) cũng như Trung Quốc khi đó đang có chiến tranh với Nhật, biển Đông cơ bản là bị Nhật Bản kiểm soát, mà các nhà bản đồ Trung Quốc có thể vẽ ra đường biên giới như vậy thì quả thực đáng kinh ngạc.

This image has an empty alt attribute; its file name is image-81.png

Hình 19: “Trung Quốc cương vực biến thiên đồ” của Trần Đạc (1934)

This image has an empty alt attribute; its file name is image-82.png

Hình 20: “Trung Quốc cương vực biến thiên đồ” của Trần Đạc (1936)

This image has an empty alt attribute; its file name is image-83.png

Hình 21: “Trung Quốc phân tỉnh minh tế đồ” (1940)

Sau khi “Nam Hải chư đảo vị trí đồ” được công bố vào năm 1947, các bản đồ mới đều vẽ thêm đường phạm vi mở rộng đến bãi ngầm Tăng Mẫu giống như vậy. Tuy nhieen, cách vẽ đường phạm vi khi đó là rất không cố định. Ví dụ mặc dù “Trung Quốc phân tỉnh tân địa đồ” (中國分省新地圖: Bản đồ mới về phân chia tỉnh của Trung Quốc) (1947, Hình 22) đã phản ánh thành quả việc đặt tên quần đảo Trung Sa và quần đảo Nam Sa cũng như đường phạm vi nhưng chưa vẽ toàn bộ đường phạm vi. Còn bản in lần thứ 5 “Trung Hoa Dân Quốc tân đồ” (中華民國新圖: Bản đồ mới của Trung Hoa Dân Quốc) do “Thân báo” vẽ (1948, Hình 23) cũng đã tiếp thu thành quả mở rộng biên cương mới nhất. Tuy nhiên, khác với bản đồ trên, đường phân giới biển Đông vẫn tiếp tục dùng đường liền nhưng đường liền này khác với đường 11 đoạn tiêu chuẩn. Vì vậy, việc vẽ đường phạm vi này như thế nào khi đó vẫn chưa có tiêu chuẩn thống nhất. Xét đến việc bản đồ do Trung Quốc xuất bản đều trải qua sự kiểm tra và xác nhận của nhà nước, điều này cho thấy đầy đủ rằng miễn là đường này bao gồm các đảo biển Đông ở bên trong thì đã đạt yêu cầu của Bộ Nội chính, còn về phạm vi và hình thức cụ thể (đường đứt hay là đường liền) đều không quan trọng.

Phạm vi đường đứt đoạn rất lớn, ngoài Hoàng Sa và Trường Sa ra, những đường này hầu như đều vẽ đến bờ biển các nước Philippines, Malaysia, Brunei và Việt Nam..., còn phần Tây Nam của đường đứt đoạn có một vùng biển lớn không có đảo nào. Việc vẽ lên bản đồ một phạm vi lớn như vậy có thể gọi là “mở rộng biên giới trên bản đồ lần thứ hai”. Từ việc phân tích sử liệu ở trên, về cơ bản có thể khẳng định rằng việc mở rộng này là do muốn xác định toàn bộ các đảo đã đặt tên năm 1935 là phạm vi lãnh thổ Trung Quốc. Phần Tây Nam mặc dù không có đảo nhưng có các bãi ngầm nằm trong danh mục các đảo năm 1935, nên cũng được khoanh vào trong phạm vi đường đứt đoạn. Các bãi ngầm ở phía Nam như bãi ngầm Tăng Mẫu, trong thời kì Nhật Bản thống trị cũng như trong sách địa lí thông dụng đều không được xem là một bộ phận của quần đảo Trường Sa, nhưng do trong bảng kê tên các đảo năm 1935 đã được xác định là “điểm cực Nam”, vì vậy đường đứt đoạn cũng mở rộng đến mức áp sát bờ biển Borneo.

This image has an empty alt attribute; its file name is image-84.png

Hình 22: Trung Quốc phân tỉnh tân địa đồ (1947)

This image has an empty alt attribute; its file name is image-85.png

Hình 23: Trung Hoa Dân Quốc tân đồ (Thân báo) (1948)

Tuy nhiên, ở cấp độ chính thức, chính phủ Trung Quốc chưa hề giải thích đường này. Vì sao chính phủ Dân Quốc lại vẽ đường này trên bản đồ biển Đông? Tại sao đường này được vẽ thành đường đứt đoạn? Đường này có hàm nghĩa là gì? Chính phủ Bắc Kinh vì sao lại xóa đi hai đoạn trong số đó? Đối với những câu hỏi này, chính phủ Dân Quốc khi đó không có bất kì giải thích nào. Mãi đến những năm 1990 mới đưa ra cách lí giải về vùng nước lịch sử (xem phần V.4), và cho đến nay phía Bắc Kinh cũng không có bất kì giải thích chính thức nào.

Sau khi công bố đường chữ U [năm 2009], Trung Quốc tuyên truyền rằng trong thời gian dài không có nước nào đưa ra phản đối. Cách nói này tưởng đúng mà sai. Sự thực là bất kể đường chữ U có ý nghĩa là gì thì yêu cầu thấp nhất cho đường chữ U là các đảo trong đó thuộc chủ quyền Trung Quốc, nhưng sau Thế chiến II đều liên tục gặp phải sự thách thức và phủ định bằng lời nói hoặc hành động (xem phần sau).

Vì vậy, cái gọi là không có nước nào đưa ra phản đối về đường chữ U... chỉ là các nói tự lừa đối mình mà thôi. Các nước không chĩa vào đường chữ U rõ ràng có lẽ chỉ là hệ quả của việc Trung Quốc chưa hề đưa ra định nghĩa chính thức về đường 9 đoạn.

Dù sao Trung Quốc cũng đã vẽ một vòng lớn như vậy ở biển Đông, vì vậy lập trường của chính phủ Trung Quốc là kiên định với phần trong vòng lớn này. Đây vừa là một di sản cũng là một mối họa của Trung Quốc. Hiện nay đường 9 đoạn đã trở thành khái niệm mơ hồ nhất, cũng là khái niệm gây tranh cãi nhất. Vấn đề biển Đông khó mà giải quyết, hơn nữa nguyên nhân để nhiều thế lực ngoài khu vực can dự vào phần lớn cũng chính vì đường này. Đó là chuyện về sau.


[285] Uss.Da DD-25, Hss.Uolt, and Srerox. Theo “Quá trình tuần tra biên giới biển Nam Sa của hải quân”, Tuyển tập tài liệu các quần đảo biển Đông Trung Quốc 9, Đài Loan học sinh thự cục, 1975, tr.14.

[286] Ngày 19/4 năm Dân quốc thứ 35 (1946), số 03569 Mão Hạo 35 văn phòng khí tượng, (Công hàm văn phòng trưởng quan hành chính tỉnh Đài Loan), “Tuyển tập hồ sơ Bộ Ngoại giao”, tr. 399-400.

[287] Chuyển sao điện của Trần Nghi, “Tuyển tập hồ sơ Bộ Ngoại giao”, tr. 400.

[288]Tuyển tập sử liệu”, tr. 54.

[289]Tuyển tập sử liệu”, tr. 68.

[290]Đưa ra ý kiến việc quần đảo Đông Sa, Hoàng Sa lệ thuộc Quảng Đông, lệ thuộc Đài Loan”, ngày 24 tháng 4 năm Dân quốc 35 (1946), số 2431 chữ Du dân, “Tuyển tập hồ sơ Bộ Ngoại giao”, tr. 401-403.

[291] Bởi vì lúc này định nghĩa hỗn loạn đối với quần đảo Tân Nam, quần đảo Spratly, quần đảo Nam Sa và quần đảo Đoàn Sa nên khi trình bày đoạn này dùng tên gọi quần đảo Tân Nam.

[292]Điện Bộ Ngoại giao gửi Đại sứ Tiền đại ở Paris và Tổng lãnh sự quán Lạt ở Manila”, Thư số 8036, “Tuyển tập hồ sơ Bộ Ngoại giao”, tr. 404.

[293]Đàm phán với Bộ Tổng tư lệnh quân đội Mĩ ở Philippines giúp đỡ phía ta tiếp thu quần đảo Tân Nam”, ngày 11/6 năm Dân quốc 35 (1946), điện đến số 1787, “Tuyển tập hồ sơ Bộ Ngoại giao”, tr. 408.

[294]Điện Bộ Ngoại giao gửi Chu đại diện ở Nhật”, ngày 14/6 năm Dân quốc 35 (1946), điện gửi số 3106, “Tuyển tập hồ sơ Bộ Ngoại giao”, tr. 409.

[295]Hội nghị về việc phái quân chiếm đóng quần đảo Đông Sa, Hoàng Sa”, ngày 11/10 năm Dân quốc 35 (1946), số 4245 Chiến mưu hải, “Tuyển tập hồ sơ Bộ Ngoại giao”, tr. 417-419.

[296]Quần đảo Tân Nam có phải chính là quần đảo Nam Sa”, ngày 5 tháng 7 năm Dân quốc 35 (1946), tiết kinh bát tự số 411, “Tuyển tập hồ sơ Bộ Ngoại giao”, tr. 409-410.

[297]Công hàm Bộ Ngoại giao gửi Ban thư kí Viện Hành chính”, ngày 8/8 năm Dân quốc 35 (1946), số 05035 chữ 35 châu Âu, “Tuyển tập hồ sơ Bộ Ngoại giao”, tr. 414-415.

[298]Về vị trí địa lí của quần đảo Tân Nam”, ngày 20 tháng 8 năm Dân quốc 35 (1946), số 04840 điện tử Mĩ (35), “Tuyển tập hồ sơ Bộ Ngoại giao”, tr.758-759.

[299]Tuyển tập hồ sơ Bộ Ngoại giao”, tr.414.

[300]Về việc tiếp thu quần đảo Đoàn Sa, kiểm tra biên bản hội nghị, bản thảo tờ trình hội nghị đính kèm”, ngày 20/9 năm Dân quốc 35 (1946), số 07835 điện tử Mĩ (35), “Tuyển tập hồ sơ Bộ Ngoại giao”, tr.761-763.

[301]Tuyển tập hồ sơ Bộ Ngoại giao”, tr.765-766, “Tuyển tập sử liệu”, tr.56.

[302] “Thư Bộ Nội chính gửi Bộ Ngoại giao”, ngày 9/10 năm Dân quốc 35 (1946), số 0012 phông địa phương, “Tuyển tập hồ sơ Bộ Ngoại giao”, tr.766-775.

[303] “Tuyển tập sử liệu”, tr. 57.

[304]Biên bản hội nghị các cơ quan về việc ta phái quân tiến vào chiếm đóng các quần đảo Đoàn Sa...”, ngày 12/10 năm Dân quốc 35 (1946), số 191 Chiến mưu hải, “Tuyển tập hồ sơ Bộ Ngoại giao”, tr.776-778. “Tuyển tập sử liệu”, tr. 59.

[305] Trương Lương Phúc biên soạn “Để lịch sử nói với tương lai”, Nxb Hải dương, 2011, tr.101.

[306]Tuyển tập sử liệu”, tr.80.

[307] Trương Lương Phúc biên soạn “Để lịch sử nói với tương lai”, Nxb Hải dương, 2011, tr.70.

[308]Vương Nghị nói chuyện biển Đông: hiện tượng không ngừng từng bước xâm phạm chủ quyền và lợi ích của Trung Quốc không thể tiếp tục”, http://news.ifeng.com/a/20150627/44056731_0.shtmlVương Nghị: Yêu cầu chủ quyền của Trung Quốc đối với quần đảo Nam Sa chưa từng mở rộng cũng tuyệt đối sẽ không thu hẹp”, http://news.takungpao.com.hk/world/roll/2015-06/3034194.html

[309]Tuyển tập hồ sơ Bộ Ngoại giao”, tr. 576-579

[310]Tuyển tập hồ sơ Bộ Ngoại giao”, tr.595

[311] “Tuyển tập hồ sơ Bộ Ngoại giao”, tr.583-584.

[312] “Tuyển tập hồ sơ Bộ Ngoại giao”, tr.591-592.

[313] “Tuyển tập hồ sơ Bộ Ngoại giao”, tr.596-597.

[314]Về việc thẩm tra phạm vi thu phục quần đảo Nam Sa”, ngày 12/6 năm Dân quốc 36 (1947), “Tuyển tập hồ sơ Bộ Ngoại giao”, tr.784-788.

[315]Tuyển tập hồ sơ Bộ Ngoại giao”, tr.602-603.

[316]Công hàm Bộ Nội chính gửi Bộ Ngoại giao”, ngày 3 tháng 4 năm Dân quốc 36 (1947), số 0379 kho địa phương, “Tuyển tập hồ sơ Bộ Ngoại giao”, tr. 575.

[317]Công hàm Bộ Nội chính gửi Bộ Ngoại giao”, ngày 3 tháng 4 năm Dân quốc 36 (1947), số 0379 kho địa phương, “Tuyển tập hồ sơ Bộ Ngoại giao”, tr. 575.

[318] Trương Lương Phúc biên soạn “Để lịch sử nói với tương lai”, Nxb Hải dương, 2011, tr.71.

[319] Phó Giác Kim, Ti Phương vực, Bội Nội chính chủ biên, Vương Tích Quang biên vẽ, Thương vụ ấn thư quán, tháng 12/1974. “Tuyển tập sử liệu”, tr.50.

[320]Thư Bộ Nội chính gửi Bộ Ngoại giao”, ngày 9/10 năm Dân quốc 35 (1946), số 0012 phông địa phương, “Tuyển tập hồ sơ Bộ Ngoại giao”, tr.766-775. “Tuyển tập sử liệu”, tr.47.

[321]Về việc thẩm tra phạm vi thu phục quần đảo Nam Sa”, ngày 12 tháng 6 năm Dân quốc 36 (1947), “Tuyển tập hồ sơ Bộ Ngoại giao”, tr.784-788.

[322] United States, Executive Order 9633 of 28 September 1945, 10 Fed. Reg.12303, 59 U.S.Stat.884.

[323] Tôi chưa nhìn thấy bản đồ này, miêu tả trích dẫn từ “Tuyển tập sử liệu”, tr.355.

[324] Như trên.

[325] Như trên, tr. 355-360.

[326] Ngô Phượng Minh: Quan điểm địa lí mới của người khai sáng địa lí học cận đại nước ta Bạch Mi Sơ, Nghiên cứu Địa lí, số 11, quyển 30 năm 2011.

[327] Khang Chiêm Trung, ‘Người con Loan Hà- Bạch Mi Sơ bảo vệ biên giới biển biển Đông’, Hội nghiên cứu văn hóa Loan Hà, http://www.lhwhyj.org/a/huikan/2015/0510/596.html.

[328] Xem bản đồ trong William A.Callahan, China: The Pessoptimist Nation, p.102, Oxford University Press, 2012.

[329] William A.Callahan, China: The Pessoptimist Nation, p.104, Oxford University Press, 2012. Không rõ tác giả ban đầu là ai.

[330] Khó mà tìm ra nguyên bản của bản đồ này. Theo nguồn khác nhau, có hai loại bản đồ khác nhau rất lớn, trong bài viết của Trương Diệu Quang (Trương Diệu Quang, Lưu Giai, Lưu Quế Xuân: Từ bản đồ nhìn nhận sự hình thành và diễn tiến đường biên giới vùng biển biển Đông Trung Quốc, Khoa học địa lí, 2012, quyển 32, số 9, 1035-1040) cung cấp bản đồ phù hợp cách nói trong bài viết. Nhưng trong bài viết “Nguồn gốc đường 9 đoạn ở biển Đông” của Từ Vĩnh Thanh, Ninh Trấn Á, Trung tâm Phát triển nghiên cứu đo vẽ bản đồ, Cục Thông tin địa lí đo vẽ bản đồ quốc gia (http://fazhan.sbsm.gov.cn/article//zxkw/fzdt/sixtyfirst/201307/20130700128833.shtml, truy cập lần cuối tháng 5-2015), hình thức bản đồ giống “Trung Quốc quốc sỉ địa đồ”.

[331] Lí Kim Minh, “Tranh chấp biển Đông và luật biển quốc tế”, Nxb Hải dương, 2003, tr.49. Xem thêm “Tuyển tập sử liệu”, tr.360.

[332] Trích dẫn từ Lí Kim Minh, “Tranh chấp biển Đông và luật biển quốc tế”, Nxb Hải dương, 2003, tr.49.