Danh ngôn

Trong mọi cộng đồng, chúng ta cần một nhóm thiên thần gây rối.

We need, in every community, a group of angelic troublemakers.

(Bayard Rustin – trích bài phát biểu tại New York City 1963)

Trong mọi trường hợp, chắc chắn rằng sự thiếu hiểu biết, đi kèm với quyền lực, là kẻ thù tàn bạo nhất có thể có của công lý.

It is certain, in any case, that ignorance, allied with power, is the most ferocious enemy justice can have.

(James Baldwin - No Name in the Street 1972)

Các cuộc cách mạng và các cá nhân có thể bị giết hại, nhưng bạn không thể giết chết các ý tưởng.

While revolutionaries and individuals can be murdered, you cannot kill ideas.

(Thomas Sankara, một tuần trước khi bị ám sát, 1987)

Không có cảm giác nào cô đơn hơn việc bị chính đất nước mình trục xuất.

There's not a more lonely feeling than to be banished by my own country.

(Kiyo Sato – Kiyo’s Story 2009)

Ban Biên tập

Địa chỉ liên lạc:

1. Thơ

tho.vanviet.vd@gmail.com

2. Văn

vanviet.van14@gmail.com

3. Nghiên cứu Phê Bình

vanviet.ncpb@gmail.com

4. Vấn đề hôm nay

vanviet.vdhn1@gmail.com

5. Thư bạn đọc

vanviet.tbd14@gmail.com

6. Tư liệu

vanviet.tulieu@gmail.com

7. Văn học Miền Nam 54-75

vanhocmiennam5475@gmail.com

Tra cứu theo tên tác giả

Thứ Ba, 23 tháng 7, 2024

William Stanley Merwin – Những bài thơ chọn lọc

Nguyễn Man Nhiên

 

William Stanley Merwin sinh ngày 30/9/1927 tại New York. Ông lớn lên ở thành phố Union (New Jersey) và Scranton (Pennsylvania), là con trai của một mục sư Trưởng Lão, và bắt đầu viết thánh ca từ khi còn nhỏ. Merwin theo học tại Đại học Princeton. Sau khi tốt nghiệp năm 1948, ông đã đi khắp Châu Âu, dạy học và làm dịch thuật tự do. Ông đã sống ở Majorca, London, Pháp, Mexico, Boston và New York.

W. S. Merwin là một nhà thơ Mỹ giành được nhiều sự chú ý cùng lời khen ngợi của công chúng và có sức ảnh hưởng mạnh mẽ đến các nhà thơ đương đại. Nhà thơ Edward Hirsch đã viết rằng “Merwin là một trong những nhà thơ vĩ đại nhất trong thời đại chúng ta. Ông là sự hiện diện tinh thần hiếm hoi trong đời sống và văn học Mỹ”. Trong suốt sự nghiệp viết văn dài bảy thập kỷ của mình, Merwin đã khám phá cảm giác ngạc nhiên và tôn vinh sức mạnh của ngôn ngữ, đồng thời đóng vai trò là một nhà hoạt động phản chiến trung thành và ủng hộ môi trường. Tác phẩm của Merwin thể hiện một cam kết táo bạo đối với việc thử nghiệm và chuyển đổi bắt nguồn từ sự cần thiết về mặt đạo đức của việc làm chứng nhân, và chịu ảnh hưởng bởi niềm tin sâu sắc của ông về môi trường, hòa bình và chống chủ nghĩa đế quốc.

W. S. Merwin là tác giả và dịch giả của hơn 50 cuốn sách. Ngoài thơ, ông cũng viết nhiều vở kịch, văn xuôi và hồi ký. Tập thơ đầu tay của Merwin, A Mask for Janus (1952), ngay lập tức đón nhận sự hoan nghênh của giới phê bình và được thi hào W. H. Auden chọn xuất bản cho giải thưởng Yale Series of Younger Poets vì “kỹ thuật điêu luyện, đồng thời tập trung vào hình ảnh cổ điển và thần thoại”. Năm 1956, ông nhận được học bổng viết kịch từ Nhà hát Nhà thơ ở Cambridge (Massachusetts) và chuyển về Hoa Kỳ. Những tập thơ ông viết trong thời gian này, Green with Beasts (1956), The Drunk in the Furnace (1960) và The Moving Target (1963) chứng minh sự khởi đầu của một thay đổi đáng kể trong phong cách và quan điểm. Bài viết của tờ New York Times về quyển The Drunk in the Furnace đã ghi nhận “sự trần tục, gai góc, tính nhân văn trực tiếp đã truyền tải những bài thơ hay nhất”. Năm 1967, Merwin xuất bản tập thơ được giới phê bình đánh giá cao, The Lice, phản ánh nỗi tuyệt vọng của nhà thơ trước sự ngược đãi của con người đối với phần còn lại của tạo vật. Tiếp theo là The Carrier of Ladders (1970), nhờ đó ông đã nhận được Giải Pulitzer. Các tập The Compass Flower (1977), Finding the Islands (1982) và những bài thơ tình trong The Rain in the Trees (1988) được ghi nhận là có những thử nghiệm vần điệu và giọng điệu tích cực hơn. Travels (1993), đề cập đến mối nguy hiểm và khả năng khám phá ở một nơi xa lạ, nhận Giải thưởng Thơ Lenore Marshall. The River Sound (1999) được vinh danh là “cuốn sách đáng chú ý của năm” theo tờ New York Times. Tuyển tập Migration: New & Selected Poems – Giải thưởng Sách Quốc gia năm 2005 – là “lời tiên tri thế tục dựa trên sự tinh tế về mặt nhận thức”, thể hiện sự phát triển trong phong cách thơ của Merwin từ có cấu trúc sang mạch lạc tự do, đồng thời cũng cho thấy ông là một nhà thơ chính trị kiên định, không chỉ theo dõi sự nghèo khó của hành tinh theo nghĩa đen mà còn biến nó thành biểu tượng cho sự nghèo nàn về khả năng biểu tượng hóa của nền văn hóa đương đại. Tiếp đó, tập thơ Present Company (2007) đã mang về cho ông Giải thưởng Bobbitt của Thư viện Quốc hội. Trong The Shadow of Sirius (2008) – đoạt Giải Pulitzer năm 2009, ông khám phá những ký ức nhẹ nhàng, trong sáng thời thơ ấu và những chủ đề phổ quát như cái chết và trí tuệ, cũng là những phần tự truyện hay nhất trong thơ Merwin. Những bài trong The Moon Before Morning (2014) khám phá thời gian và vẻ đẹp của thiên nhiên. Tập thơ cuối cùng của Merwin, Garden Time (2016), được viết bằng cách đọc cho vợ ghi, khi ông đã mất gần hết thị lực. Đó là cuốn sách tập trung vào ký ức, tuổi già và cách sống của một người trong hiện tại. Trên tờ New York Times, Jeff Gordernier gợi ý rằng “Garden Time của Merwin giống như một phần của chuỗi liên tục vượt thời gian, một dòng sông trải dài suốt chặng đường quay trở lại các nhà thơ Hàn Sơn và Lý Bạch.”

Merwin nổi tiếng với phong cách thơ phóng khoáng, trong đó bày tỏ mối quan ngại của mình về sự xa lánh của con người khỏi môi trường. Một số nhà phê bình văn học đã xác định Merwin thuộc nhóm được gọi là các nhà thơ tiên tri, nhưng chính ông đã từng nhận xét: “Tôi chưa phát triển một lý thuyết thẩm mỹ trừu tượng và không ý thức được mình thuộc về bất kỳ nhóm nhà văn cụ thể nào”. Qua nhiều năm, thơ của Merwin chuyển từ giọng điệu trang trọng sang giản dị, rõ ràng hơn. Như tờ Atlantic Monthly đã viết, “Ý tưởng trong thơ Merwin rộng lớn như sinh quyển nhưng lại thân mật như một lời thì thầm. Ông truyền tải bằng sự đơn giản ngọt ngào của ngôn ngữ có nền tảng ý thức về bản thân nơi nó thuộc về, lơ lửng giữa trời, đất và lòng đất.”

Merwin từng được hỏi về vai trò xã hội của một nhà thơ – nếu có – ở Mỹ. Ông nhận xét: “Tôi nghĩ hiện nay có một loại hy vọng được xây dựng trong thơ mà người ta thực sự mong muốn, một cách vô vọng, cứu được thế giới. Người ta đang cố gắng nói tất cả những gì có thể nói về những điều mình yêu thích khi vẫn còn thời gian. Tôi nghĩ đó là một vai trò xã hội, phải không? Chúng ta tiếp tục bày tỏ sự tức giận và tình yêu của mình, và chúng ta hy vọng, có lẽ trong vô vọng, rằng nó sẽ có tác dụng nào đó. Nhưng tôi chắc chắn đã vượt qua nỗi tuyệt vọng, hay tầm nhìn ngu ngốc, nhức nhối mà tôi cảm thấy; người ta không thể chỉ sống trong tuyệt vọng và giận dữ mà cuối cùng không phá hủy được thứ mà người ta tức giận. Thế giới vẫn còn đây và có những khía cạnh trong cuộc sống con người không hoàn toàn mang tính hủy diệt, và cần phải chú ý đến những thứ xung quanh khi chúng vẫn còn ở xung quanh chúng ta. Và bạn biết đấy, theo một cách nào đó, nếu bạn không chú ý đến điều đó thì cơn giận chỉ là sự cay đắng mà thôi.”

Về công việc dịch thuật của Merwin, David Hinton nói: “Nghệ thuật của W. S. Merwin rất được ưa chuộng và giải thưởng này tôn vinh sự khao khát đó. Dịch là có một giọng nói khác, từ đó mở rộng tầm nhìn của một người với tư cách nhà văn; Merwin thể hiện cả cuộc đời dành cho việc đó: nuôi dưỡng nghệ thuật của riêng mình bằng những tiếng nói khác. Và vì thế, Merwin tiếp tục là món quà trọn đời dành cho sự khao khát tiếng nói khác của chúng ta”.

W. S. Merwin đã giành được gần như mọi giải thưởng danh giá cho một nhà thơ Mỹ, và ông đã hai lần được vinh danh là Nhà thơ Khôi nguyên Hoa Kỳ (1999-2000 và 2010-2011). Các danh hiệu khác của Merwin bao gồm Giải thưởng Aiken Taylor cho Thơ Mỹ hiện đại, Giải thưởng Bollingen, Giải thưởng về Văn học của Thống đốc Bang Hawaii, Giải thưởng Văn học Lannan cho Thành tựu Trọn đời, Nhà văn Lila Wallace-Reader's Digest ' Giải thưởng, Giải thưởng Thơ Lenore Marshall và Giải thưởng Wallace Stevens từ Học viện Nhà thơ Hoa Kỳ, Giải thưởng Dịch thuật PEN, Giải thưởng Thơ Ruth Lilly, Giải thưởng Tưởng niệm Shelley, Giải thưởng Văn học Quốc tế Zbigniew Herbert, cũng như các học bổng từ Học viện Nhà thơ Hoa Kỳ, Quỹ Guggenheim, Quỹ Nghệ thuật Quốc gia và Quỹ Rockefeller.

Là một Phật tử thực hành đồng thời là người đề xướng hệ sinh thái sâu sắc, Merwin sống từ cuối những năm 1970 trên một đồn điền cũ ở Hawaii, nơi ông đã dày công khôi phục lại trạng thái rừng nhiệt đới ban đầu và cuối cùng khu đất này đã có gần 500 loài cây cọ. Năm 2010, Khu Bảo tồn Merwin được thành lập.

W. S. Merwin qua đời vào ngày 15/3/2019, thọ 91 tuổi. Trên tờ New Yorker, nhà báo Dan Chiasson nhận xét: “Việc Merwin nhấn mạnh vào chất thơ có tính hữu ích giàu trí tưởng tượng, chống lại sự xâm lấn của các trào lưu văn học nhiều thập kỷ, đã thành công trong việc mang lại cho thế giới tưởng tượng của ông một số niềm vui và nỗi kinh hoàng hữu hình mà chúng ta liên kết với thế giới thực. Merwin có thể nói rằng ông đã sắp xếp lại những yếu tố cấu thành nên tầm nhìn của mình. Nhưng ông cũng trồng và chăm sóc một khu rừng cọ hiện được bảo vệ vĩnh viễn và mở cửa cho công chúng tham quan. Những bài thơ của ông, giống như khu rừng đó, là một thứ lưu giữ thời gian.”

Dưới đây giới thiệu 20 bài thơ chọn lọc của William Stanley Merwin, do Nguyễn Man Nhiên chuyển ngữ từ nguyên tác tiếng Anh: The Ships Are Made Ready In Silence, A Door, We Continue, The Source, Wish, The Falcons, For A Coming Extinction, Green Fields, The Asians Dying, Remembering, Air, It Is March, December Night, The River of Bees, For the Anniversary of My Death, Whenever I Go There, When You Go Away, Bread, Echoing LightNative Trees.

 

 

NHỮNG CON TÀU ĐÃ SẴN SÀNG TRONG IM LẶNG

 

Neo vào cùng một vòng:

Giờ khắc, bóng tối và tôi,

La bàn đội mũ trùm đầu như chim ưng.

Giờ đây ký ức về em lại nhức nhối

Với việc rửa sạch những mảnh vỡ không bao giờ rời khỏi cảng

Chúng ta từng lên kế hoạch cho những chuyến đi,

Chúng đến gõ cửa như những trái tim hỏi:

Những gì khởi hành trên thủy triều này?

Hơi thở của đất, hơi thở ấm áp,

Em siết chặt cái lạnh quanh rốn,

Mặc dù tất cả bờ biển trừ bờ đầu tiên đều là hải ngoại,

Và bờ đầu tiên không phải quê nhà cho đến khi bị bỏ lại đằng sau.

Sự lựa chọn của chúng ta là của chúng ta nhưng đã không thực hiện

Chứa đựng như nó vốn có, đích đến của chúng ta

Khoanh tròn sự mất mát như với san hô, và

Một đích đến chỉ cho đến khi đạt được.

Tôi đã để lại cho em niềm hy vọng sẽ nhớ đến tôi

Dù bây giờ có rất ít sự giống nhau.

Vào lúc này tôi không thể tin vào sự thay đổi nào,

Cột buồm không ngừng

Lắc lư giữa những chòm sao giống nhau,

Đêm không bao giờ lấy lại đức tính đen tối

Từ bến cảng hình trái tim,

Biển rung động như trái tim,

Bầu trời uốn cong như trái tim,

Nơi tôi biết ánh sáng sẽ vỡ tan như tiếng kêu

Trên một khám phá:

“Trống rỗng.

Trống rỗng! Nhìn đi!”

Nhìn.

Đây là buổi sáng.

 

 

CỬA

 

Đây là nơi có thể có một cánh cửa

nơi tôi đang đứng

Trong ánh sáng bên ngoài tất cả các bức tường

sẽ có một cái bóng ở đây

suốt cả ngày

và một cánh cửa dẫn vào đó

nơi bây giờ có tôi

và ai đó sẽ đến gõ cửa

trên không trung này

rất lâu sau khi tôi đã đi

và trước mặt tôi là một cuộc đời

sẽ mở

 

 

CHÚNG TA TIẾP TỤC

 

Vết rỉ hoen chút màu phương Tây nằm

Vào cuối chuyến đi

Nhạc cụ chúng tôi không còn nữa.

Những người tin tưởng

Vào cái chết dứt bỏ sự thờ phượng của họ

Riêng tôi thì chúng tôi

Tiếp tục

Một vết sẹo cũ

của ánh sáng chiếc kèn chúng ta

Khách hành hương đeo miện gai

Nhìn vào mắt lạnh

Dưới những lá cờ người mù dương ra

Trong một nắm tay

Lá thư họ biến mất

Nếu bàn tay mở ra:

Từ thiện về nhà

Bắt đầu

 

 

NGUỒN

 

Giấc ngủ thoáng qua trong mắt bé – có ai biết từ đâu

nó đến? Vâng, có tin đồn rằng nó có nơi ở,

trong ngôi làng cổ tích giữa bóng tối của khu rừng được chiếu sáng lờ mờ

đom đóm, ở đó treo hai nụ e lệ đầy mê hoặc.

Từ đó nó

đến hôn lên mắt bé.

Nụ cười thoáng qua trên môi em bé ngủ

có ai biết nó sinh ra ở đâu không? Vâng, có tin đồn rằng một thanh niên

ánh trăng lưỡi liềm nhợt nhạt chạm vào rìa đám mây mùa thu đang dần tàn

và ở đó nụ cười lần đầu tiên được sinh ra trong giấc mơ của một giọt sương

tắm rửa buổi sáng – nụ cười thoáng qua trên môi khi bé

ngủ.

Chiếc mũ mát dịu ngọt ngào nở trên tứ chi em bé – có ai biết nó giấu ở đâu bấy lâu nay? Vâng, khi mẹ còn là

một cô gái trẻ nó đã xâm chiếm trái tim mẹ một cách dịu dàng và lặng lẽ

bí ẩn của tình yêu – sự mát dịu ngọt ngào đã nở rộ trên

tứ chi của bé.

 

 

 

ƯỚC

 

Ngôi sao trong tay tôi

Đang rơi

Tất cả đám đồng phục đều biết điều gì là vô ích

Liệu tôi có thể cúi đầu trước sự Cần Thiết

Chứ không phải trước những người làm thuê cho cô ấy

 

 

CHIM ƯNG

 

Có nhiều năm tôi đã biết

bông hoa trong những bức tường đá đỏ

giờ đây trong sân nơi tôi đã quay về với bạn

chúng ta uống rượu của du khách

nhiệt độ của hầm

hoàng hôn đang trào ra

từ máu khô của khối xây

không còn giờ khắc nào trên đồng hồ mặt trời

bây giờ là những con cú ở góc tháp

đang thức giấc trên nắm đấm của những người canh giữ chúng

nhưng trời vẫn còn

đang trong ngày

và ba con chim ưng xuất hiện

trên sân

không có lông trên đầu hoặc ngực

chúng bay xuống chỗ chúng tôi

đến cổ tay của chúng tôi và giữa chúng

sau đó chao lượn và đậu ngay phía trên

giữ chúng tôi trong tầm mắt

chờ đợi

chúng đang đợi chúng tôi

lần này chúng sẽ đi cùng chúng tôi

khi chúng tôi rời đảo

đêm nay cho đến hết cuộc đời

 

 

CHO SỰ TUYỆT CHỦNG SẮP TỚI

 

Cá voi xám

Bây giờ chúng tôi đang đưa bạn đến Sự Diệt Vong

Vị thần vĩ đại đó

Nói với nó

Rằng chúng tao, những người truy đuổi mày, đã phát minh ra sự tha thứ

Và không tha thứ gì

Tôi viết như thể bạn có thể hiểu được

Và tôi có thể nói điều đó

Người ta luôn phải giả vờ điều gì

Giữa những thứ sắp chết

Khi bạn lìa bỏ biển cả gục đầu dưới chân họ

Bạn không còn gì

Nói với hắn rằng chúng ta đã được tạo ra

Vào một ngày khác

Sự hoang mang sẽ giảm dần như tiếng vọng

Quanh những ngọn núi bên trong bạn

Không được chúng tôi nghe thấy

Và tìm đường ra

Bỏ lại sau lưng tương lai

Đã chết

Và của chúng ta

Khi bạn sẽ không gặp lại

Những chú cá voi con đang giỡn ánh sáng

Hãy xem xét những gì bạn sẽ tìm thấy trong khu vườn đen

Và tòa án của nó

Những con bò biển những con chim An-ca lớn những con khỉ đột

Các vật chủ không thể thay thế trải dài vô số

Và định trước như những vì sao

Sự hy sinh của chúng ta

Hãy hợp lực với họ

Hãy nói với hắn

Rằng chúng ta mới là người quan trọng

 

 

ĐỒNG XANH

 

Vào thời điểm này của thế kỷ, chỉ còn lại ít người tin vào

động vật vì chúng không còn ở đó trong những bộ phận tỉa tót

được dọn trên đĩa và những lời cầu xin từ những chiếc xe tải có mái che

là âm thanh của những cái bóng không có tương lai

vẫn còn trò chơi cho thú vui giết chóc

và có những thú cưng dành cho trẻ em nhưng cuộc sống theo

dòng chảy của riêng chúng khác với chúng ta và những người lớn tuổi hơn đã di cư trước chúng ta một số đã

đi xa rồi nhưng Peter với đôi má hốc hác

và nhúm râu trắng trên khuôn mặt của một Lawrence lụ khụ

Peter người đã sống ở một thời gian và đất nước khác

người đã chứng kiến ​​rất nhiều thứ xuất hiện và biến mất

vẫn tin vào thiên đường và nói rằng ông chưa từng một lần

nghi ngờ điều đó kể từ thời thơ ấu ở trang trại thời

của những con ngựa mà ông đã không nghi ngờ điều đó trong những

thời điểm tồi tệ nhất của Đại chiến và sau đó và ông đã đi đến

cái mà ông ấy coi là một kiểu mẫu trần tục

khi ông lang thang về phía nam ở tuổi lục tuần

vào lúc đó nói năng đủ rành rọt

để họ đưa ông ra ngoài ông đã đi những con đường nhỏ nhất

vào một thế giới mà ông nghĩ đã là quá khứ

với những bông hoa dại mà ông hầu như không nhớ và những người hàng xóm

cùng nhau cắt cỏ trên đồng buổi sáng

xới cỏ trước bữa ăn trưa mang vào

bởi thời gian nuôi lấy sữa và vô số

tất cả những đức tính mà ông ngưỡng mộ và phần thưởng dồi dào của chúng

trong mắt một người nước ngoài và ông vẫn ở đó

suốt những ngày còn lại của mình chỉ để nhìn thấy những gì ông muốn thấy

cho đến mùa đông khi ông không thể dùng nĩa được nữa

trái đất trong khu vườn của ông và sau đó ông đã cho đi

nhà cửa đất đai mọi thứ và tự mình cam kết

đến một ngôi nhà để chết trong một lâu đài cổ nơi ông nán lại

một thời gian vây quanh bởi những người khuyết tật

cơ thể hoặc tâm trí và khi nằm đó ông nói với tôi

rằng bức tường cạnh giường ông hầu như mở ra mỗi ngày

và ông đã nhìn thấy những gì thực sự ở đó và đó là cuộc sống vĩnh cửu

như ông nhận ra ngay khi nhìn thấy những khu vườn

ông đã tạo dựng và những cánh đồng xanh bát ngát nơi ông đã từng là

một đứa trẻ và mẹ ông đang đứng đó và rồi bức tường đóng lại

và xung quanh ông là những ngày cuối cùng của thế giới

 

 

 

NGƯỜI CHÂU Á SẮP CHẾT

 

Khi những khu rừng đã bị phá hủy, bóng tối của chúng vẫn còn đó

Tro tàn của người đi bộ vĩ đại đi theo những người sở hữu

Mãi mãi

Không có chuyện họ sẽ trở lại là có thật

Cũng không lâu

Trên các dòng nước

Như những con vịt trong thời của những con vịt

Bóng ma những ngôi làng kéo lê trên bầu trời

Làm nên một chạng vạng mới

Mưa rơi vào đôi mắt mở to của người chết

Trùng trùng âm thanh vô nghĩa

Khi mặt trăng tìm thấy chúng, chúng là màu sắc vạn vật

Đêm biến mất như vết bầm tím nhưng không gì có thể chữa lành

Người chết mất dạng như vết bầm tím

Máu tan loãng vào những vùng đất cấy cày bị nhiễm độc

Đau đến chân trời

Còn lại

Trên cao những mùa đá

Chúng là những chiếc chuông giấy

Rung lên không sự sống

Những người sở hữu di chuyển khắp nơi dưới Cái Chết, ngôi sao của họ

Như những cột khói tiến vào bóng tối

Như ngọn lửa mỏng manh không ánh sáng

Họ không có quá khứ

Và đốt cháy tương lai độc nhất.

 

 

TƯỞNG NHỚ

 

Có những chuỗi âm thanh xưa được nghe đi nghe lại

cụm từ của Shakespeare hay Mozart mảnh mai

những cây đũa thần của cực quang phát ra từ chúng

lẫn vào tối tăm dáng đi qua của một ít người

di cư lô nhô trong đêm xa bầy cổ

xa phần còn lại của lời nói xa các nhạc cụ

 

KHÔNG KHÍ

 

Đúng là đêm rồi.

Dưới cây đàn luýt bị lật úp

Một dây đang lướt theo cách của tôi

Vang lên âm thanh kỳ lạ.

Bên này bụi bặm, bên kia bụi bặm.

Tôi lắng nghe cả hai bên

Nhưng tôi vẫn tiếp tục.

Tôi nhớ những chiếc lá ngồi phán xét

Và rồi mùa đông.

Tôi nhớ cơn mưa với những dãy đường.

Cơn mưa cuốn đi mọi con đường.

Không nơi chốn.

Trẻ như tôi, già như tôi,

Tôi quên mất ngày mai, người mù.

Tôi quên đi cuộc sống giữa những khung cửa sổ bị chôn vùi.

Đôi mắt trong rèm cửa.

Bức tường

Cao lên qua các bất tử.

Tôi quên đi sự im lặng

Chủ nhân của nụ cười.

Đây hẳn là điều tôi muốn làm,

Đi bộ trong đêm giữa hai sa mạc,

Và ca hát.

 

 

ĐÓ LÀ THÁNG BA

 

Bây giờ là tháng Ba và bụi đen rơi ra khỏi sách

Chẳng bao lâu nữa tôi sẽ đi

Linh hồn cao lớn đã ở đây

Đã rời bỏ

Trên các đại lộ sợi chỉ không màu nằm dưới

Giá cũ

Khi nhìn lại luôn có quá khứ

Kể cả khi nó đã biến mất

Nhưng khi bạn mong đợi

Với những đốt ngón tay bẩn thỉu và đôi cánh đứt

Con chim trên vai bạn

Bạn có thể viết gì

Nỗi đắng cay vẫn dâng lên trong hầm mỏ cũ

Nắm tay sắp ra khỏi quả trứng

Nhiệt kế lòi ra từ miệng xác chết

Ở một độ cao nhất định

Đuôi diều trong chốc lát đã

Bị bao phủ bởi những bước chân

Việc tôi phải làm vẫn chưa bắt đầu

 

 

ĐÊM THÁNG MƯỜI HAI

 

Con dốc lạnh lẽo đứng trong bóng tối

Nhưng phía nam của cây cối khô khốc

Những cành nặng trĩu khoác lông vũ leo vào ánh trăng

Tôi đến để xem những thứ này

Cây trắng già hơn vào ban đêm

Cây già nhất

Đến tàn lụi đầu tiên

Và tôi nghe thấy những con chim ác là thức giấc dưới trăng

Dòng nước chảy qua nó

Sở hữu những ngón tay không có điểm dừng

Đêm nay một lần nữa

Tôi tìm thấy lời cầu nguyện duy nhất và nó không dành cho nam giới

 

 

SÔNG ONG

 

Trong giấc mơ tôi trở lại dòng sông ong

Năm cây cam bên cầu và

Bên cạnh hai nhà máy nhà tôi

Vào sân có một người mù đi theo

Đàn dê đứng hát

Về những gì đã cũ

Chẳng bao lâu nữa sẽ là mười lăm năm

Già rồi ông sẽ rơi vào mắt

Tôi lấy đi đôi mắt tôi

Một chặng đường dài đến lịch

Hết phòng này đến phòng khác hỏi tôi sẽ sống thế nào

Một trong những kết cục làm bằng đường phố

Đám rước một người đi qua đó

Những chai rỗng

Hình ảnh của niềm hy vọng

Đề tặng tên tôi

Một lần và một lần

Ở cùng thành phố tôi sinh ra

Hỏi tôi sẽ nói gì

Ông sẽ rơi vào miệng

Đàn ông nghĩ họ tươi hơn cỏ

Tôi quay lại với giọng nói của ông vang lên như một đống cỏ khô

Ông đã già, ông ấy không có thật, không có gì là thật

Cũng không có tiếng tử thần kéo nước

Chúng ta là tiếng vọng của tương lai

Trên cửa có ghi phải làm gì để sống sót

Nhưng chúng ta không sinh ra để tồn tại

Chỉ để sống

 

 

NHÂN KỶ NIỆM NGÀY MẤT CỦA TÔI

 

Mỗi năm không hề biết tôi đã trôi qua cái ngày này

Khi những ngọn lửa cuối cùng vẫy tay chào tôi

Và sự im lặng sẽ bắt đầu

Lữ khách không mệt mỏi

Như tia sáng của một vì sao tắt

Sau đó tôi sẽ không còn

Tìm lại mình trong đời như trong bộ áo quần xa lạ

Ngạc nhiên trước trái đất

Và tình yêu của một người phụ nữ

Cùng sự vô liêm sỉ của đàn ông

Như hôm nay viết sau ba ngày mưa

Nghe chim hồng tước hát và tiếng mưa ngất tạnh

Và cúi lạy như kẻ vô tri giác

 

 

BẤT CỨ KHI NÀO TÔI ĐẾN ĐÓ

 

Bất cứ khi nào tôi đến đó mọi thứ đều thay đổi

Những con tem trên băng danh hiệu

Của các giáo sư về nước

Chân dung Glare là lý do của

Tang tóc trắng

Giữa những tảng đá mới những con côn trùng lạ đang ngồi

Khi đèn tắt

Và một lần nữa tôi nhớ rằng sự khởi đầu

Bị phá vỡ

Thảo nào địa chỉ bị rách

Nơi mà tôi tìm đường ăn sự im lặng của động vật

Tặng tuyết cho bóng tối

Hôm nay thuộc về thiểu số và ngày mai không thuộc về ai

 

 

KHI EM RA ĐI

 

Khi em ra đi, gió cuồn cuộn về phương bắc

Các họa sĩ vẽ cả ngày nhưng đến hoàng hôn, màu sơn rơi xuống

Hiện ra những bức tường đen

Đồng hồ lại điểm đúng vào giờ đó

Điều chưa từng xảy ra qua bao năm tháng

Và ban đêm, quấn mình trên chiếc giường tro

Thở một hơi anh thức dậy

Đó là lúc râu của người chết mọc lên

Anh nhớ rằng anh đang sa ngã

Rằng anh là nguyên cớ

Và lời nói của anh là trang phục cho những gì anh sẽ không bao giờ trở thành

Như tay áo nhét của cậu bé cụt tay

 

 

BÁNH MÌ

 

Mỗi khuôn mặt trên phố là một miếng bánh mì

lang thang

đang tìm kiếm

đâu đó trong ánh sáng cơn đói thực sự

dường như đang đi ngang qua họ

họ nắm chặt

họ đã quên những hang động nhợt nhạt

họ mơ được trốn vào

hang động của riêng mình

đầy sự chờ đợi dấu chân của họ

treo lủng lẳng những dấu vết trống rỗng từ sự mò mẫm

đầy giấc ngủ và sự ẩn náu của họ

họ đã quên những đường hầm gồ ghề

họ mơ ước được đi ra ngoài ánh sáng

để nghe từng bước chân

trái tim của bánh mì

được gìn giữ bởi hơi thở đen tối

và trỗi dậy

để thấy mình cô đơn

trước cánh đồng lúa mì

vươn ánh sáng của nó lên mặt trăng

 

 

ÁNH SÁNG VANG VỌNG

 

Khi tôi bắt đầu đọc tôi đã tưởng tượng

những cây cầu đó có liên quan gì đến những chú chim

và với những thứ trông như những cái lồng nhưng tôi biết

rằng chúng không phải là những chiếc lồng, chắc hẳn đó là mùa thu

với ánh sáng bụi bặm nhấp nháy từ dây của xe điện

và những chỗ màu cam đang bốc cháy trong bức ảnh

và bây giờ thực sự là mùa thu trong trẻo

ngày không xa biển với cơn gió nhẹ thổi qua

bãi cỏ khô hôm qua còn xanh

cây ngô rỗng đứng run rẩy và gục xuống

những bông hoa ác che khuất cánh đồng bị bỏ quên

và khắp nơi những màu sắc tôi không thể nắm bắt được

mắt tôi đỏ hoe cả những dòng suối rộng

màu đỏ đó là mùa của người di trú

bay vào ban đêm cảm thấy trái đất đang quay

bên dưới chúng và tôi thức dậy trong thành phố và nghe thấy

các ghi chú cuộc gọi của chim choi choi một lần nữa và

một lần nữa trước khi tôi ngủ và ở đây, phía hạ lưu

tụ tập nhau vang vọng sát bờ

những cây cầu dài nhất đã mở đôi cánh mỏng

 

 

CÂY BẢN ĐỊA

 

Cả bố và mẹ tôi đều không biết

tên của các cây

nơi tôi sinh ra

đó là gì

tôi hỏi và

bố mẹ tôi không

nghe họ không nhìn vào nơi tôi chỉ

vẻ ngoài của đồ đạc trong nhà níu giữ

sự chú ý các ngón tay của họ

và bên kia căn phòng họ có thể xem

những bức tường đã quên

nơi không có câu hỏi

không có tiếng nói không có bóng râm

Đã từng có cây cối

nơi họ còn là những đứa trẻ

nơi tôi chưa từng đến

tôi hỏi

có cây cối ở những nơi đó không

nơi bố mẹ tôi sinh ra

và trong thời gian đó chắc hẳn

bố mẹ tôi đã nhìn thấy chúng

và khi họ nói đúng điều đó có nghĩa là

họ đã không nhớ

chúng là gì tôi hỏi chúng là gì

nhưng cả bố và mẹ tôi

nói rằng họ chưa bao giờ biết

 

image

Blues (1962) – Adolph Gottlieb