Danh ngôn

Trong mọi cộng đồng, chúng ta cần một nhóm thiên thần gây rối.

We need, in every community, a group of angelic troublemakers.

(Bayard Rustin – trích bài phát biểu tại New York City 1963)

Trong mọi trường hợp, chắc chắn rằng sự thiếu hiểu biết, đi kèm với quyền lực, là kẻ thù tàn bạo nhất có thể có của công lý.

It is certain, in any case, that ignorance, allied with power, is the most ferocious enemy justice can have.

(James Baldwin - No Name in the Street 1972)

Các cuộc cách mạng và các cá nhân có thể bị giết hại, nhưng bạn không thể giết chết các ý tưởng.

While revolutionaries and individuals can be murdered, you cannot kill ideas.

(Thomas Sankara, một tuần trước khi bị ám sát, 1987)

Không có cảm giác nào cô đơn hơn việc bị chính đất nước mình trục xuất.

There's not a more lonely feeling than to be banished by my own country.

(Kiyo Sato – Kiyo’s Story 2009)

Ban Biên tập

Địa chỉ liên lạc:

1. Thơ

tho.vanviet.vd@gmail.com

2. Văn

vanviet.van14@gmail.com

3. Nghiên cứu Phê Bình

vanviet.ncpb@gmail.com

4. Vấn đề hôm nay

vanviet.vdhn1@gmail.com

5. Thư bạn đọc

vanviet.tbd14@gmail.com

6. Tư liệu

vanviet.tulieu@gmail.com

7. Văn học Miền Nam 54-75

vanhocmiennam5475@gmail.com

Tra cứu theo tên tác giả

Thứ Bảy, 11 tháng 5, 2024

Nguyễn Xuân Thiệp. Nắng đã phai vàng trên mái rạ

Phạm Hiền Mây

nxt. bàii PHM  

1.

Nhà thơ Nguyễn Xuân Thiệp sinh tại Huế, học tại Huế và Sài Gòn. Ông từng dạy học tại Mỹ Tho. Sau khi nhập ngũ năm một ngàn chín trăm sáu mươi ba, ông làm cho đài phát thanh quân đội, lần lượt từ Pleiku, Đà Lạt rồi Sài Gòn.

Ông đã có thơ đăng báo từ trước năm một ngàn chín trăm năm mươi tư. Sang Mỹ, ông xuất bản hai tập thơ: Tôi cùng gió mùaThơ Nguyễn Xuân Thiệp.

Ông cũng viết Tản mạn và ra sách về thể loại này, từng là chủ biên của tạp chí Phố Văn và cộng tác với nhiều tờ báo cũng như tạp chí khác ở hải ngoại.

**

Tôi biết đến Nguyễn Xuân Thiệp là nhờ nhà văn T.N. Anh là người đã giúp tôi khá nhiều trong việc “nhận diện” những nhà thơ, nhà văn, mà do hoàn cảnh địa lý, do sinh sau đẻ muộn, nên không thể biết hết.

Biết cũng như quyết định viết về Nguyễn Xuân Thiệp và một vài bài thơ của ông, còn là nhờ tôi tình cờ đọc được bài phỏng vấn ông, do nhà thơ Triều Hoa Đại thực hiện, tôi đã cảm thấy xúc động trước những bộc bạch đơn giản, và hữu lý của ông.

Khi Triều Hoa Đại hỏi: “Những gì anh viết đã vượt lên trên những đau thương và thù hận, điều đó có đúng không?”, Nguyễn Xuân Thiệp trả lời: “Thù hận? Hồi mới ra khỏi trại, khốn khổ và ô nhục đến cùng cực, tôi định viết một lúc bốn bài oán gọi là Tứ Đại Oán. Nhưng mới được hai bài, Trà Oán và Oán Thi Đêm Phương Nam, thì ngưng. Ngưng không phải vì cạn ý, hết hứng, mà vì tôi nghĩ, viết như vậy để làm gì? Oán oán chập chùng. Chỉ làm tăng thêm gánh nặng cho đời ta mà thôi, chẳng khác nào gánh đá đi trong bùn vậy”.

Nguyễn Xuân Thiệp kết luận: “Tôi không phải là nhà tranh đấu, mà chỉ là nhà thơ!”.

******

2.

Thơ ông, trước hết là những lời tự sự của những năm tháng đời vui, trường lớp, tình yêu và những mộng mơ thời mới lớn:

Tôi lớn lên và đi vào đời những năm sáu mươi. khi chiến tranh việt nam rực cháy những cánh rừng xa. nghe âm nhạc của các anh. please, please me. i want to hold your hand. ôi những hoàng hôn sẫm tối. bình minh trong mưa. cơn sốt của tâm hồn. thành phố cười. phượng đỏ. mái ngói buổi yêu đầu. ơi em

(Âm Nhạc The Beatles Và Những Cánh Dã Quỳ)

Thơ ông, sau nữa, là lời tự sự của những tháng năm tiếp theo, khi mà cuộc chiến tương tàn kết thúc, với những bên thắng bên thua, thắng làm vua mà thua thì làm giặc, buồn đau, thấm thía nỗi đời, thấm thía cả tình đời, tưởng chỉ dừng ở éo le, ngang trái, dè đâu, nó khốc liệt và thê thảm hơn sự tưởng tượng của người ta nhiều lắm:

cháy. trong vườn lãng quên

chiều nghiêng. đốm lửa

người tù xa lâu năm. trở về

bên mái nhà. và bờ ao

mùa thu. tàn ố

khòm lưng. nấu bát cháo ngoài hiên

nấm mộ đá ong

dế khóc

(Saigon mùa thu, 1982)

******

3.

Thơ Nguyễn Xuân Thiệp hay và lạ. Tôi thích những cái hay và lạ đó ở các tác giả. Nó gần như là một sự sáng tạo. Tất nhiên, trừ những trường hợp bắt chước người khác. Điều ấy, tinh ý một chút là phát hiện ngay.

Cái lạ thứ nhứt, đó là ông không viết hoa bất kỳ một từ nào ở trong bài, kể cả tên riêng, kể cả sau những dấu chấm. Trường hợp này, ở Sài Gòn, tôi biết có ở một người, đó là nhà thơ Đỗ Trung Quân.

Tôi nói tôi thích là bởi vì, tôi cũng y như vậy. Tôi rất sợ phải đọc những bài thơ mà chữ viết hoa lổm ngổm trong bài. Lắm trường hợp, chữ viết hoa còn nhiều hơn chữ viết thường, nhìn hoa cả mắt, và cứ có cái gì đó, rất khựng lại, rất khó trôi, và cả rất mệt nữa, khi phải đọc chúng.

Tôi nhớ một câu chuyện. Hôm ấy, tôi viết một bài thơ, có một người lạ, cứ nằng nặc còm vào bài tôi, thắc mắc, sao xuống hàng, đầu câu không viết hoa, sao chữ đó là địa danh, không viết hoa, sao chữ đó là thế này, thế kia, không viết hoa, bla, bla, đủ kiểu.

Trả lời các hạch hỏi, như tra vấn, như khảo thí, như bắt lỗi đó, thì không phải là nghĩa vụ của tác giả. Mà không trả lời, thì nhìn cái câu hỏi trên trang, thiệt là khó chịu. Mà block người ta, thì càng cảm thấy khó chịu hơn. Nên từ đó, tôi chỉ để chế độ bạn bè còm. Vì, đã là bạn bè, thì tất nhiên, và trước hết, phải hiểu được nhau.

Ngay cả khi, không hiểu nhau, thì đối với những người viết văn, làm thơ, soạn nhạc, vân vân và mây mây, nghĩa là, với tất cả những người làm nghệ thuật, họ thường, nhiều ít gì, cũng có những thói quen riêng, những quy tắc riêng, và, chỉ riêng họ thôi. Họ cũng chẳng ép buộc ai phải gượng gạo đọc, thế nên, bạn đọc cũng nên để cho các tác giả, họ có những tự do tuyệt đối trong sáng tác của mình.

Trở lại Nguyễn Xuân Thiệp, bài thơ sau đây, ông viết cho người bạn đã mất, là Phạm Ngọc Lư, một nhà thơ tài hoa, đặc biệt với bài Biên Cương Hành mà tôi từng đã viết bài cảm nhận. Lư cũng là một trong người bạn vong niên rất thân thiết của tôi:

chiều nay

ngồi đọc lại thơ lư

nghe sông hàn. bạt gió

hải vân quan. đá dựng

biên cương

cố lý

gió lào vẫn thổi

sao cay mắt

thơ ai

như chông xuyên thấu trời

người về lều cỏ

nghe tiếng sáo u u

vầng trăng treo trên ngọn sầu đông

cơm. với rau rừng. nước mắt

cô lái đò trên bến xưa. còn đợi

lư đã về lại phá tam giang

gởi lại vợ con, bạn bè, tấm áo, và những bài thơ

lư ơi

nằm trong cỏ rối

có nghe. thu vàng hát.

Đoạn thơ trên được trích từ trong bài Lư Đã Về Lại Phá Tam Giang. Tôi thích cái từ “về lại” của ông Thiệp đã dùng. Về lại, có nghĩa là, Phá Tam Giang, vùng sông nước ấy, chính là nơi mà Lư đã khởi đầu cuộc viễn du trong đời vừa qua của mình. Ở đoạn này, tác giả nhắc lại những từ ngữ đặc sắc, tiêu biểu nhứt mà Lư đã sử dụng để làm nên hai bài thơ tiếng tăm vang lừng của mình, đó là, Biên Cương HànhTrở Về Phá Tam Giang.

Viết ít mà tình nhiều, đó là một nét riêng của Nguyễn Xuân Thiệp. Viết dài, kiểu như viết trường thi, có cái khó của viết dài. Nhưng viết ngắn cũng vậy. Ít chữ, mà chữ nào cũng cần thiết, chữ nào cũng tinh túy, chắt lọc, ấy mới là hay, và khó nữa, chớ không dễ dàng đâu.

******

4.

Thơ thì thường buồn, đương nhiên rồi. Nhưng buồn cũng có nhiều cấp độ lắm, như bão ấy mà. Buồn ít. Buồn nhiều. Buồn lắm. Buồn dữ dội. Buồn chỉ muốn chết. Đại loại vậy.

Thơ Nguyễn Xuân Thiệp buồn, nhưng là cái buồn dễ chịu. Buồn mà dễ chịu là sao? Tức là buồn mà không đến độ cồn cào, không cấu xé, cũng không đau đớn tột cùng, khóc than hay gào thét.

Như bài này, chẳng hạn, Mùa Thu Và Bếp Lửa:

chiều mùa thu

và một bếp lửa

để về

tôi đọc thấy. trên trang văn, ngày nọ

nhưng chiều nay

thấy lạnh

hai tay. và mái tóc

tôi chợt ngộ ra

không. tôi không có một bếp lửa nào

một mái ấm nào, để trở về

mà chỉ là người hành giả

đi trên đường chiều

cô độc

một quán trọ

một ngôi chùa

bốn phương, nào thấy

thèm được vị thiền sư

tặng chiếc áo. và vầng trăng

thiền sư ơi

chiều rơi

chiều không lửa ấm.

Mùa thu là mùa của heo may, là mùa trở lạnh, là mùa bắt đầu thèm, đôi khi, hơi ấm. Hơi ấm từ chiếc bếp lửa. Hơi ấm từ một vòng tay. Hơi ấm từ một câu nói. Hơi ấm từ một tình yêu. Bất kỳ. Tất cả những điều mà tôi vừa liệt kê ấy, đều được gọi chung là hơi ấm. Bếp lửa là bếp lửa thôi, hay bếp lửa là bao hàm tất cả những điều tôi vừa nói, chính là sự khác biệt giữa ngôn ngữ đời thường và thơ ca.

Thơ ca, viết một, mà bạn đọc thấy ra được hai, được ba, được bốn ý, thì đấy chính là phước lớn của người sáng tác và cũng là phúc lớn cho nền văn hóa, văn học nước nhà.

Mùa thu còn là mùa để về. Về đâu ư. Thì về nhà chớ về đâu. Về nơi ta từng ở. Về nơi có người thương. Về nơi mà từ đó ta đã ra đi. Về nơi mà ta thấy nhớ, nhớ đến đau lòng, đến quặn thắt cả ruột gan, ngày đêm, không dứt.

Tác giả không có bếp lửa, cũng chẳng có nơi để về, thế nên, tác giả thấy mình giống như một hành giả. Hành giả là những người đang học tu, giữ giới và tập khổ hạnh. Tác giả thấy mình đang như vậy đó, một hành giả cô độc, đi trên đường chiều, cái gì cũng một, chơ vơ, một quán trọ, một ngôi chùa. Bốn phương, chẳng thấy gì thêm.

Ông thèm được gặp gỡ một vị thiền sư đầy lòng thương yêu và bác ái, biết đâu, ông sẽ được tặng một chiếc áo, mặc cho đỡ lạnh, và một vầng trăng, sưởi tạm. Bởi vì.

Bởi vì, thiền sư ơi, chiều thì rơi rồi và người thì không lửa ấm.

Tôi khoái cái câu gọi của ổng, “thiền sư ơi”, kiểu như là thân thiết từ lâu, kiểu như, đúng là nơi xưa, lối xưa, ngôi chùa có vị thiền sư ấy mà, để ông về, và nay, đã gặp lại.

******

5.

Nắng Đã Phai Vàng Trên Mái Rạ – câu tựa đề này, tôi lấy ra từ một bài thơ khá dài của Nguyễn Xuân Thiệp mang tên Chiều Bên Sông Giăng.

Bài này đã được Từ Công Phụng phổ thành ca khúc mang tựa đề cùng tên và do chính nhạc sĩ thể hiện với chất giọng ấm, trầm, đầy vẻ hoài niệm xưa.

Ở trên, tôi có nhận xét, thơ Nguyễn Xuân Thiệp hay và lạ, rồi thì thơ Nguyễn Xuân Thiệp buồn mà buồn dễ chịu.

Đọc đến bài Chiều Bên Sông Giăng này, tôi thấy thêm, thơ Nguyễn Xuân Thiệp, ngoài những ưu điểm nêu trên, thơ ông còn đẹp nữa.

Ví dụ, đoạn này:

buổi chiều. kéo gỗ. bên bờ sông giăng

ta đọc bài cổ thi

câu nhớ. câu quên. lời tan trong gió

lòng ta ơi. mãi không yên

nghìn năm. cơn đau. sóng vỗ.

chiều bên sông giăng. và ta

chiều động giấc mơ ngàn

hồn ta theo trăm cây gỗ lớn

gập ghềnh lối voi đi. trâu kéo. mưa nguồn

giăng giăng bến cát

trắng trời lau thưa

mắt gỗ vàng. và mắt ta. qua thế kỷ

đã thấy vết chàm in sậm mặt người

buổi chiều bên sông giăng

chờ một vầng trăng mọc

chưa kịp nhìn trăng. trở gót ta về

hẹn với khoang thuyền khuya nay

hẹn cùng dòng sông. và bè gỗ

đón cho ta vầng trăng

một thời ngủ mê trong cơn sốt đỏ

giấc mơ ta ơi còn lại chiều nay

Đẹp ở chỗ, con người giờ đây, với biết bao là vần xoay thế cuộc, với biết bao là dâu biển đổi thay, vậy mà vẫn cảm ra được nỗi xót xa, khi thấy mình nhớ nhớ quên quên câu thơ cổ.

Thơ cổ, có phải đâu chỉ là thơ cổ. Nếu ý thơ có thế thôi, thì phải bận lòng chi. Thơ cổ còn có nghĩa là chuyện xưa, người xưa, cảnh vật xưa, thời thế xưa, tình cảm xưa, là tất cả và tất cả, từng có, từng hiện diện, mà nay, đã lùi vào dĩ vãng.

Đẹp còn ở chỗ, con người nhìn ra được, buổi chiều đang tàn dần. Sự tàn dần, sự rã tan ấy, đã động vào giấc mơ ngàn, là giấc mơ đưa hồn về xuôi, nơi những mặt người vẫn đương còn sậm in màu thế kỷ.

Đẹp còn ở chỗ, con người biết mình đương ở đỉnh tàn rồi, như buổi chiều vậy đó, nhưng vẫn níu, vẫn nuối. Kịp không, chờ một vầng trăng mọc, vì lỡ hẹn rồi với khoang thuyền khuya nay, hẹn cả với dòng sông và bè gỗ nữa. Cho ta đón lần cuối này thôi, bởi vì, ta chỉ còn lại, mỗi một buổi chiều nay.

Ngôn ngữ đẹp, tất nhiên rồi, sẽ tạo nên những hình ảnh đẹp. Đẹp như thế nào ư? Đẹp rất đỗi tự nhiên, hoang sơ mà ngập tràn mỹ lệ, như chuyến bè, như vầng trăng, như khoang thuyền, như quán dốc, như hồn xưa, như voi thiêng, như quan san rùng rùng vó ngựa, như cuộc diễu hành qua cõi đá vàng, như dặm trường sa mạc, như trời đại nạn, như mảnh xác xơ, như nguyễn du, như đỗ phủ, như lòng ta trái khô rơi mấy mùa.

Như Nắng Đã Phai Vàng Trên Mái Rạ.

Như Chiều Bên Sông Giăng!

******

6.

Tôi cảm ra, tôi giống nhà thơ Nguyễn Xuân Thiệp ở khá nhiều nét. Không chỉ là chuyện rất hạn chế các dấu câu và không thích viết hoa trong thơ thì tôi còn thấy, tôi giống ông ở chỗ, ít tự giới thiệu về mình.

Trên mạng, dù ông là một người làm thơ từ trước năm một ngàn chín trăm bảy mươi lăm, nhưng rất ít các thông tin về ông. Tôi cũng vậy, phỏng vấn nào về nhân thân, tôi cũng cười trừ và xin cho qua, hoặc nếu có, tôi cũng chỉ cung cấp gọi là đôi ba dòng cho có lệ.

Tại sao ư? Dạ, vì thấy đó không phải là điều cần thiết cho cuộc đời và cho người khác. Người ta, còn biết bao việc phải lo, phải quan tâm. Ai hơi đâu đi nhớ nơi sanh chốn đẻ của mình; hơi đâu nhớ thấp cao, mập ốm của mình; hơi đâu nhớ những vui buồn, được mất của mình, mà phải dài dòng kể lể.

**

Tiểu luận gia Đặng Tiến từng viết rất rõ trong bài nhận định và đánh giá nhà thơ Nguyễn Xuân Thiệp, có tựa đề Đọc Thơ Nguyễn Xuân Thiệp[*], như sau: “Nhà thơ Nguyễn Xuân Thiệp là một tâm linh trong sáng gởi đến trần giới trầm luân những dòng thơ thanh thoát [...]. Tôi bị mê hoặc ngay bởi dòng thác hình ảnh, âm vang hư hư thực thực, cuồn cuộn băng băng vì thơ Thiệp như nước Hoàng Hà [...]. Nay được biết Thiệp là cựu sĩ quan miền Nam Việt Nam, tôi phục quá, bởi những lời lẽ cao khoát, tình nghĩa thâm sâu, tự tại, độ lượng”.

Nhà phê bình văn học Đặng Tiến tiếp tục khẳng định: “Thơ Nguyễn Xuân Thiệp có nhiều câu, thường song đôi, xuất sắc, kết hợp chất uyên bác (nghĩa là không mới) với sức sáng tạo tân kỳ; lưng vốn cá nhân dồi dào được đầu tư đắc thế vào nguồn sống dân tộc đông phương và tây học, tạo ra vòm ánh sáng vừa kỳ diệu vừa duy lý. Tri thức và trí thức không khuất lấp mầu nhiệm của ngôn ngữ; giác quan và ảo mộng nương nhau, nuôi nhau [...]”.

Sau cùng, Đặng Tiến kết luận: uyên bác, đủ sức mạnh tinh thần, kiến thức rộng rãi, xúc cảm sâu xa, Nguyễn Xuân Thiệp là một bậc tài hoa nhưng lại không sử dụng thơ để biểu diễn tài hoa. Ngược lại, Nguyễn Xuân Thiệp lại có ý thức dùng tài hoa như một phương tiện để phục vụ lý tưởng nghệ thuật và nhân đạo.

******

Tôi sẽ còn quay trở lại với Nguyễn Xuân Thiệp và thơ của ông, vì thú thật với các bạn, khi tôi mở mục lục thơ Nguyễn Xuân Thiệp trên trang văn học nghệ thuật của nhà thơ Phạm Cao Hoàng, tôi đã không chọn những bài hay nhứt của Nguyễn Xuân Thiệp để viết về, mà tôi lấy thơ, theo kiểu, theo số thứ tự, từ trên xuống.

Và khi nhìn lại dòng mục lục, tôi thấy nó còn dài dằng dặc, nghĩa là tôi biết, sẽ có một ngày, tôi lại một lần nữa, viết về Nguyễn Xuân Thiệp và thơ của ông.

Phần kết thúc này, tôi muốn ví von tiếng thơ của Nguyễn Xuân Thiệp, là tiếng của một loài chim quý, và:

bay suốt nghìn năm hót một lần!

(Ánh Trăng - 1980)

Sài Gòn 15.04.2024


[*] Đặng Tiến, Vũ trụ thơ II, Thư Ấn Quán 2008, tr. 246-259.