Danh ngôn

Trong mọi cộng đồng, chúng ta cần một nhóm thiên thần gây rối.

We need, in every community, a group of angelic troublemakers.

(Bayard Rustin – trích bài phát biểu tại New York City 1963)

Trong mọi trường hợp, chắc chắn rằng sự thiếu hiểu biết, đi kèm với quyền lực, là kẻ thù tàn bạo nhất có thể có của công lý.

It is certain, in any case, that ignorance, allied with power, is the most ferocious enemy justice can have.

(James Baldwin - No Name in the Street 1972)

Các cuộc cách mạng và các cá nhân có thể bị giết hại, nhưng bạn không thể giết chết các ý tưởng.

While revolutionaries and individuals can be murdered, you cannot kill ideas.

(Thomas Sankara, một tuần trước khi bị ám sát, 1987)

Không có cảm giác nào cô đơn hơn việc bị chính đất nước mình trục xuất.

There's not a more lonely feeling than to be banished by my own country.

(Kiyo Sato – Kiyo’s Story 2009)

Ban Biên tập

Địa chỉ liên lạc:

1. Thơ

tho.vanviet.vd@gmail.com

2. Văn

vanviet.van14@gmail.com

3. Nghiên cứu Phê Bình

vanviet.ncpb@gmail.com

4. Vấn đề hôm nay

vanviet.vdhn1@gmail.com

5. Thư bạn đọc

vanviet.tbd14@gmail.com

6. Tư liệu

vanviet.tulieu@gmail.com

7. Văn học Miền Nam 54-75

vanhocmiennam5475@gmail.com

Tra cứu theo tên tác giả

Thứ Bảy, 4 tháng 5, 2024

Giới thiệu sách mới xuất bản của André Menras: “Vietnam, entre le meilleur et le pire” (Việt Nam, giữa tốt đẹp và tồi tệ)

André Menras, Vietnam, entre le meilleur et le pire. Les Indes savantes, 2004

 

438087548_3700756203495472_6997092184477069964_n

 

LỜI TỰA

ANDRÉ MENRAS


Cuốn sách này ra đời rất lâu sau tác phẩm đầu tiên (*) mà tôi viết vào năm 1973 cùng với một giáo viên trẻ người Pháp khác, Jean Pierre Debris. Viết trong mười một ngày đêm, đó là lời chứng văn chương sống động về hai năm rưỡi tù đày ở Sài Gòn mà chúng tôi vừa trải qua như những tù nhân chính trị vì đã đem vào trung tâm Sài Gòn lá cờ Mặt trận Dân tộc Giải phóng miền Nam Việt Nam. Được xuất bản bằng bảy thứ tiếng, nó rất hữu ích trong cuộc đấu tranh của chúng ta nhằm kích hoạt việc thả hàng chục nghìn tù nhân chính trị mà chế độ độc tài thân Mỹ đang giam giữ và thủ tiêu trong các nhà tù ở miền Nam.

50 năm sau, thế giới đã thay đổi rất nhiều, Việt Nam cũng vậy, nhưng sự gắn bó của tôi với đất nước này vẫn không hề giảm bớt. Thậm chí còn trở nên mạnh mẽ hơn. Nó chính thức được đánh dấu bằng việc nhận quốc tịch Việt Nam vào ngày 2 tháng 12 năm 2009 từ chính tay Chủ tịch nước Cộng hòa Nguyễn Minh Triết tại Sài Gòn, trước sự chứng kiến ​​của Thứ trưởng Bộ Tư pháp và Phó Chủ tịch UBND TP Hồ Chí Minh. Đây là lần đầu tiên một người nước ngoài “trăm phần trăm” được người đại diện cao nhất của Nhà nước trao quyền công dân Việt Nam như thế.

Tôi coi sự kiện này là một vinh dự lớn lao, là sự ghi nhận những đóng góp của tôi cho hòa bình nhưng cũng là một thách thức mới, một lời kêu gọi giúp Việt Nam tiến tới hiện đại đồng thời tôn trọng những trận chiến và sự hy sinh trong quá khứ. Vì vậy, tôi chính thức hôn phối với Việt Nam dù tốt hay xấu. Bảo tồn những gì tốt đẹp nhất và chống lại những điều tồi tệ nhất.

Trước khi quyết định, tôi đã chần chừ rất nhiều. Trong khi hàng vạn công dân sinh ra ở đó đã rời bỏ nó mỗi năm, thì tôi, người Tây* từ nơi tận cùng thế giới, lại xin được vào. Tôi hồi tưởng lại sự bình yên thoải mái của mình như một “người hùng” có ảnh được trưng bày nhiều năm tại Bảo tàng Chiến tranh Thành phố Hồ Chí Minh, là “người bạn vĩ đại của nhân dân Việt Nam” danh hiệu nhiều lần tôi được mang. Tôi có thể vẫn là vị khách quý cắm trại trên chiếc ghế anh hùng của mình, mãi mãi bị mê hoặc trong một khoảnh khắc hùng tráng trong Lịch sử. Nhưng khi, trong thế giới con buôn này, nghèo đói, bất công và áp bức vẫn còn đó, khi những hy sinh của quá khứ dần dần bị tịch thu, khi nền độc lập, không gì khác hơn là sự tôn trọng một dân tộc mà các bạn đã chiến đấu vì nó, đang bị xói mòn, và hòa bình một lần nữa bị đe dọa, làm sao bạn có thể ở trong bụi bặm của viện bảo tàng mà không hắt hơi? Quá khứ chỉ có giá trị nếu nó phục vụ hiện tại và nuôi dưỡng nó bằng những giá trị của sự tiến bộ. Hơn nữa, tôi luôn cảnh giác với các anh hùng. Xu hướng của họ cho phép các huy chương của mình bị điều ứng vào bất kỳ tình huống chính trị nào khiến tôi nghi ngờ họ.

Trong trường hợp của tôi, chẳng vinh dự gì khi đưa những đồ trang trí này trở lại cuộc chơi, không có rủi ro khi tiếp tục trò chơi: Tôi không thể thua được nữa vì tôi đã chết. Tôi biết được chuyện này vào ngày 21 tháng 1 năm 2022 qua điện thoại. Nhưng đúng vậy, một số người bạn đau buồn thậm chí còn gửi tin nhắn chia buồn cho tôi qua SMS! Tờ báo l'Humanité vừa đăng cáo phó của tôi. Nhưng đó là một cái tên trùng từ Aveyron. Thật sự cảm động trước lời chia buồn của tờ báo, tôi đọc được ở đó bản tóm tắt trung thực về mối tình chống thực dân của tôi với Việt Nam. Nhưng ở đó không phải là xong, đó chỉ là sự khởi đầu. Bình thường thôi, câu hỏi về không gian! Thế là tôi quyết định đặt bút viết để hoàn thành câu chuyện.

Tôi cũng đã làm điều đó với danh tính song tịch mới của mình. Để xem xét làm thế nào cho nó hữu ích. Để nó không chỉ là một khoảnh khắc của cảnh tượng truyền thông. Để hỏi những câu hỏi hiện tại mà tôi quan tâm và buộc tôi, “từ bên kia nấm mồ”, phải trả lời nhiều câu hỏi khác. Để luôn trung thành với lá cờ hai mươi năm của tôi và những trận chiến mới sẽ kéo dài nó và mang trở lại màu sắc cho nó. Đỏ mà cũng xanh.

Không phải là một cuốn tiểu thuyết, cũng không phải tiểu sử, cũng không phải những phân tích chính trị hay xã hội lạnh lùng, tôi muốn cuốn sách này không có sự ra vẻ hay giáo điều. Như giọng nói giản dị của một cuộc sống nguyên gốc giao thoa với hàng ngàn cuộc sống khác, dù bị ngăn cản hay không. Một tiếng nói tự vấn và muốn đóng góp một cách lành mạnh cho sự phát triển hòa bình và độc lập của đất nước không hề nhỏ bé này, vốn rất xứng đáng được như vậy. Tôi muốn những trang này không có ngôn ngữ lưỡi gỗ, chân thực và phức tạp như những mảnh đời mà chúng kể, không bị bày bán rẻ nhưng không đạo đức giả.

Cuốn sách chứa đựng nhiều tài liệu, bài báo, bài viết được viết ở những giai đoạn khác nhau trong cuộc đời tôi và phản ánh những cảm nhận, quan điểm của tôi tại những thời điểm đó trong cuộc hành trình. Hôm nay đọc lại dưới ánh sáng của những sự kiện liên tục tiến triển, trong một hoàn cảnh xã hội và chính trị đang thay đổi, tôi có thể gia giảm sắc thái hoặc thay đổi một số điều mà mình tin chắc hồi ấy, nhưng tôi cấm mình chạm vào chúng, cũng như người ta không thay đổi lời ca của La Marseillaise lấy cớ rằng chúng ta là người châu Âu hoặc rằng hòa bình đã loại bỏ hình ảnh máu tưới trên các luống cày.

Thực tế đời sống chính trị và xã hội của Việt Nam có thể gây bối rối. Tôi thường phải chịu đựng những điều trái ngược, nghịch lý và mâu thuẫn của nó, như những trang tiếp theo sẽ tiết lộ. Sự lạc quan có thể sống sót ở đó, bằng cách kiên trì.

Điều cốt yếu là ở đó: những sự thật được báo cáo ở đây là đúng sự thật, những câu hỏi nêu ra rất thực tế và tiếp tục thách thức chúng ta.

Cuốn sách này sẽ gây khó chịu cho một số cơ quan thẩm quyền ở Việt Nam ngày nay. Tôi biết điều đó và như thế càng tốt. Có lẽ nó sẽ thu hút sấm sét của họ. Có lẽ họ sẽ đuổi con tàu tôn kính của tôi ra khỏi viện bảo tàng… Chắc chắn nó sẽ gây sốc cho một số người bạn Việt Nam, có thể làm phiền lòng một số người Pháp, những người bạn thật hay giả của Việt Nam. Dù sao đi nữa, tôi viết không phải để làm hài lòng hay để bán. Tôi làm điều này với tất cả sự khiêm tốn, đặc biệt là vì lợi ích của độc giả Việt Nam. Thứ nhất là vì tôi không thích người khác nhân danh mình nói về những điều liên quan đến mình mà họ chưa từng trải qua. Rồi vì tôi cần nói và kể lại những điều đơn giản mà sự kiểm duyệt tàn nhẫn và ngu xuẩn không cho phép tôi chia sẻ.

Đối với những ai cho rằng những lời chỉ trích của tôi đối với Đảng Cộng sản Việt Nam, người tự xưng là ông chủ không chia sẻ quyền lực của đời sống dân tộc, và những ai ủng hộ nó, là cường điệu, tôi sẽ chỉ trả lời rằng, đối với tôi, những lời chỉ trích và buộc tội này không phải là một niềm vui nhưng là nỗi đau, rằng mỗi sự bạo lực, sự tha hóa của nó, mỗi sự từ bỏ nhân phẩm và tự do của nó đều chạm đến niềm tin sâu sắc của tôi. Tôi nói với những người gièm pha này: không, tôi không chống Cộng, chính các người là những kẻ chống Cộng khi chấp nhận để những gì mang tính khai phóng mà lý tưởng này chứa đựng bị làm bẩn. Tôi sẽ không nói điều gì sai sự thật nhưng đừng mong tôi che giấu sự thật.

Tôi muốn cuốn sách này như một lời cảnh tỉnh đối với những người tuyên dương một nước Việt Nam sẽ được giải phóng dứt khoát, đóng băng hình ảnh trên cổng một cung điện bị xe tăng đâm vỡ toang nửa thế kỷ trước. Tôi muốn nó như một sự sỉ nhục đối với những ai muốn khóa chặt, tẩy rửa hoặc nô dịch lời nói, biến nó thành một diễn ngôn chính thức nhằm tránh những điều cấp bách nhất, quên đi, làm khô kiệt và bóp méo toàn bộ các phần của Lịch sử. Tôi cũng muốn nó như một sự khẳng định sự phản kháng và quyết tâm đối mặt với những kẻ báo thù trong quá khứ mà tôi biết rõ, hay những kẻ chinh phục hiện tại chỉ nói đến cái nghèo để tận dụng nó tốt hơn, luôn luôn tìm kiếm sự yếu đuối của nền dân chủ để thiết lập lại một trật tự mới và phục vụ một ông chủ mới. Cuối cùng và trên hết, tôi muốn nó như một lời bày tỏ tình yêu chân thành tới người dân Việt Nam.

Chỉ có hai điều hối tiếc: đã làm cha mẹ tôi đau khổ và chưa cảm ơn đủ hàng ngàn người đã giúp đỡ tôi trong suốt cuộc hành trình kỳ lạ này mà tôi thường phải chịu đựng hơn là lựa chọn, nhưng tôi tự hào về điều đó.

 

(Bản tiếng Việt của Google Translation, Hoàng Hưng sửa lại)

 

(*) ‎Rescapés des bagnes de Saigon. Nous accusons. Éditeurs Français Réunis. Bản dịch tiếng Đức: In den Bagnos von Saigon - ein Erlebnisbericht. Verlag Volk und Welt Berlin, 1973. Bản dịch tiếng Hungary: Mi, akik Saigon börtöneiből szabadultunk, vádolunk! Kossuth Könyvkiadó, 1973. Bản dịch tiếng Anh: We Accuse: Back from Saigon's Prisons. Indochina Mobile Education Project, 1973. Bản dịch tiếng Việt: Thoát khỏi ngục tù Sài Gòn, chúng tôi tố cáo. Nhà xuất bản Văn nghệ Giải phóng, 1974. Trẻ, 2004.

 

 

 

ĐÔI LỜI VỀ CUỐN SÁCH “VIETNAM, ENTRE LE MEILLEUR ET LE PIRE” CỦA ANDRE MENRAS

(bài viết được André Menras dịch ra tiếng Pháp và in ở đầu sách)

HOÀNG HƯNG

 

Là một người Việt Nam đã trải nghiệm lịch sử đương đại của đất nước mình qua 80 năm dài, một nhà báo chính thống của nhà nước rồi trở thành một “free-lance writer” phản biện, tôi không khỏi chấn động tim óc khi đọc những trang viết của André Menras, một người Pháp cùng lứa tuổi.

Những sự kiện sống động, pris à vif, mà ông là nhân chứng hoặc là tác nhân-nạn nhân qua cả hai thời kỳ trước và sau khi nước Việt Nam thống nhất, nóng hổi trong các trang viết, đầy sức thuyết phục, tôi tin là thuyết phục ngay cả những người có cách nhìn, cách lý giải lịch sử khác ông, hay đối lập với ông.

Lịch sử đương đại Việt Nam hết sức oái oăm, đầy nghịch lý.

Hôm nay nhìn lại, những người duy lý (rationalist), ưa logic, có lập trường “khách quan” không thể không đặt câu hỏi: Vậy thì rút cuộc người Việt Nam đánh Pháp giành độc lập từ hơn 100 năm trước để làm gì? Để được gì? Thoát khỏi một ách thực dân phương Tây dẫu sao cũng có tác động khai hoá xứ sở, đưa nó vào con đường văn minh hiện đại, để rồi hôm nay nước Việt Nam “độc lập” vẫn là một đất nước lạc hậu, bị đế quốc phương Bắc khống chế và đe doạ chủ quyền, bám theo mô hình độc tài toàn trị phản dân chủ của nó? Một người ngoại quốc có dịp gặp và hỏi chuyện những người dân Việt Nam hôm nay, sẽ được nghe những lời luyến tiếc về sự chọn đường mà họ coi là “sai lầm” của giới tinh hoa thuở trước.

Nhưng những trải nghiệm máu thịt của người Việt Nam trong thực tế đời sống hàng ngày dưới chủ nghĩa thực dân Pháp và sự can thiệp Mỹ đã đưa họ đến chỗ lựa chọn con đường chiến đấu cho độc lập thống nhất bằng bất cứ giá nào. André Menras cũng thế, chính những trải nghiệm cá nhân rất cụ thể của bản thân đã đưa ông đến quyết định lịch sử của đời mình: cắm lá cờ của Mặt trận Dân tộc Giải phóng Miền Nam Việt Nam lên giữa bầu trời thủ đô của chế độ Việt Nam Cộng Hoà. Đó là sự chọn lựa của cuộc sống, của trái tim. Không phải của cái đầu lạnh tanh, tính toán đúng/sai, được/mất.

Để hiểu được và đồng cảm với sự chọn lựa ấy, bạn phải đặt mình vào hoàn cảnh của xứ sở có vị trí địa-chính trị đặc biệt này, bạn phải là một người Việt Nam, dù là một nông dân nghèo khổ đối tượng của những câu quát tháo “xà lù, cu soong” (salaud, cochon) từ những tên thực dân mũi lõ hay một trí thức được Pháp đào tạo tại Paris và “nhà nước bảo hộ” biệt đãi.

Tiếng nói của cuộc sống, của trái tim cũng quyết định sự chọn lựa mới của André Menras khi ông trở lại Việt Nam trong sự vinh danh của Đảng Cộng sản cầm quyền và nhận trực tiếp từ ông Chủ tịch nước quốc tịch của nước này.

Một lần nữa, ông đã chọn sát cánh với những nạn nhân của kẻ xâm lược mới: những ngư dân biển Đông của Việt Nam trước họng súng, vòi phun nước của bọn cướp biển Chinois. Điều này dễ hình dung. Lựa chọn thứ hai mới đáng quan tâm: ông chọn đứng cùng những đối tượng đàn áp của một chế độ mà ông đã tình cờ góp công vào sự thắng lợi của nó đối với chế độ mà ông từng bác bỏ. Đó là những nhân sĩ trí thức vốn là người Cộng sản chống Pháp, chống Mỹ, chống Việt Nam Cộng Hoà, nay quay sang lên án Đảng của mình, một Đảng Cộng sản toàn trị đang tự chuyển hoá thành “tư bản đỏ”, và đòi tự do, dân chủ, nhân quyền.

Thực ra, chẳng có nghịch lý gì ở đây. Với tư cách là một công dân Việt Nam của hôm nay, ông vẫn đang cùng với các đồng chí của mình tiếp tục cuộc đấu tranh cho tự do hạnh phúc của nhân dân Việt Nam trước các thế lực thống trị đen tối, lần này không phải thế lực ngoại bang mà là thế lực nội tại.

Hai bộ phim tài liệu mà ông dày công tạo dựng, La meurtrissure (Hoàng Sa, nỗi đau mất mát) và Un cri de dedans (Tiếng thét từ bên trong), là tiếng nói của người Việt Nam chân chính hôm nay trước kẻ thù bên ngoài và bên trong, mà tất cả các nhà báo, nhà làm phim Việt Nam đều phải khâm phục và hổ thẹn vì đã không thể làm như ông.

André Menras! Ông là một trái tim sôi sục yêu ghét, trung thực và chính trực không biết thoả hiệp hay nhân nhượng! Ông là người yêu đất nước và người dân Việt Nam hơn rất nhiều người Việt Nam! Như trong câu thơ được viết bởi người bạn tôi vừa qua đời (nhà thơ Dương Tường), để ghi trên mộ chí của mình, André luôn “đứng về phe nước mắt”! Đó là “phe” của người dân Việt Nam, suốt 100 năm nay vẫn là nạn nhân của Cái Ác dưới những bộ mặt khác nhau.

Với niềm tin cổ truyền của người Việt Nam về sự luân hồi, tôi sẵn sàng tin rằng André Menras là kiếp sau của một trong các “sĩ phu” người Việt, kiểu như nhà thơ-chính khách Nguyễn Trãi đã tố cáo tội ác của quân nhà Minh thế kỷ 15 “nướng dân đen trên ngọn lửa hung tàn”, như nhà thơ mù Nguyễn Đình Chiểu đã cảm thương cảnh chạy loạn của dân trước quân Pháp thế kỷ 19 “bỏ nhà lũ trẻ lơ xơ chạy”… Kiếp này, người “sĩ phu” Việt Nam tái sinh ở trời Tây, với màu da trắng.

 

HOÀNG HƯNG

Nhà thơ, dịch giả, cựu biên tập viên các báo in và báo mạng Lao Động (Hà Nội), talawas.org (Berlin), boxitvn.online (Hà Nội), vanviet.info (TP HCM)… Đồng sáng lập Ban Vận động Văn đoàn Độc lập Việt Nam. Tù nhân lương tâm (1982-1985).