Danh ngôn

Trong mọi cộng đồng, chúng ta cần một nhóm thiên thần gây rối.

We need, in every community, a group of angelic troublemakers.

(Bayard Rustin – trích bài phát biểu tại New York City 1963)

Trong mọi trường hợp, chắc chắn rằng sự thiếu hiểu biết, đi kèm với quyền lực, là kẻ thù tàn bạo nhất có thể có của công lý.

It is certain, in any case, that ignorance, allied with power, is the most ferocious enemy justice can have.

(James Baldwin - No Name in the Street 1972)

Các cuộc cách mạng và các cá nhân có thể bị giết hại, nhưng bạn không thể giết chết các ý tưởng.

While revolutionaries and individuals can be murdered, you cannot kill ideas.

(Thomas Sankara, một tuần trước khi bị ám sát, 1987)

Không có cảm giác nào cô đơn hơn việc bị chính đất nước mình trục xuất.

There's not a more lonely feeling than to be banished by my own country.

(Kiyo Sato – Kiyo’s Story 2009)

Ban Biên tập

Địa chỉ liên lạc:

1. Thơ

tho.vanviet.vd@gmail.com

2. Văn

vanviet.van14@gmail.com

3. Nghiên cứu Phê Bình

vanviet.ncpb@gmail.com

4. Vấn đề hôm nay

vanviet.vdhn1@gmail.com

5. Thư bạn đọc

vanviet.tbd14@gmail.com

6. Tư liệu

vanviet.tulieu@gmail.com

7. Văn học Miền Nam 54-75

vanhocmiennam5475@gmail.com

Tra cứu theo tên tác giả

Thứ Hai, 18 tháng 3, 2024

Đọc sách François Joyaux về hoàng hậu Nam Phương

Nguyễn Ngọc Giao

François JOYAUX: NAM PHUONG, La dernière impératrice du Vietnam. Ed. Perrin, 2019, 366 tr.

clip_image001

 

François Joyaux, giáo sư INALCO (Học viện Quốc gia Ngôn ngữ và Văn minh Đông Phương, trường “Langues O” cũ), là một nhà sử học có uy tín. Tác phẩm “La Chine et le règlement du premier conflit d’Indochine / Genève 1954” / Trung Quốc và Giải quyết cuộc giao tranh Đông Dương lần thứ nhất, Genève 1954 (Nhà xuất bản Les Publications de la Sorbonne 1979) cung cấp nhiều thông tin về vai trò của Trung Quốc ở Hội nghị Genève 1954 cũng như ý đồ của Bắc Kinh chia cắt lâu dài nước ta. F. Joyaux là người đầu tiên tiết lộ: tối 22.7.1954, trong một buổi tiệc, Chu Ân Lai đã đề nghị với Ngô Đình Luyện (đại biểu phái đoàn Quốc gia Việt Nam, em út của thủ tướng Ngô Đình Diệm) mở một cơ quan đại diện miền Nam ở Bắc Kinh (!).

Nam Phương, hoàng hậu cuối cùng của Việt Nam” tập trung nói về một cá nhân mà ai cũng biết tên, nguồn gốc gia đình (họ ngoại Lê Phát là một gia tộc Công giáo lâu đời, điền chủ lớn nhất Nam Kỳ), sự ngoan đạo (học sinh Couvent des Oiseaux Paris, bà cũng là người tài trợ việc xây dựng Couvent des Oiseaux Đà Lạt), khuôn mặt xinh đẹp và thầm lặng như con tem mang hình của bà, bên cạnh ông vua bù nhìn, “hoàng đế” (An Nam), “cố vấn tối cao” (của Chủ tịch Hồ Chí Minh), rồi “Quốc trưởng”, rồi lằng nhằng những “ông vua hộp đêm”, “ông vua sòng bạc”... trong suốt ba mươi năm trời, cái chết thầm lặng của bà năm 1963 ở một làng nhỏ trung tâm nước Pháp, thì nhiều người cũng nghe loáng thoáng. Nhưng con người thực sự Mariette Nguyễn Hữu Thị Lan đã ra đời, lớn lên và được đào tạo trong môi trường như thế nào, bà đã ứng xử và (tìm cách) hành động như thế nào trong những năm chấn động 1945-1947, rồi những năm lưu vong ở Pháp, cuối cùng ẩn dật ở làng Chabrignac, bà sống ra sao, niềm tin Công giáo biến chuyển thế nào, cuộc sống tình cảm có gì khác lạ? Một vài cuốn sách cũng đã đề cập vài điều, thậm chí một tác giả Việt Nam đã sáng tác tiểu thuyết về Nam Phương, xa lạ với sự thật lịch sử.

Tác phẩm của F. Joyaux là nghiên cứu sử học nghiêm túc mang lại những trả lời chính xác cho những câu hỏi nêu trên. Và phải nói ngay: đây là một kỳ công, vì những văn khố lưu trữ ở Aix-en-Provence (Trung tâm văn khố quốc gia hải ngoại) và La Courneuve (Trung tâm văn khố của Bộ ngoại giao Pháp), hầu như không có gì về hoàng hậu Nam Phương. Tác giả đã phải bỏ nhiều thời gian đi tìm những bộ tư liệu gia đình, hỏi chuyện và phỏng vấn nhiều người trong gia đình Nam Phương & Bảo Đại, gia đình Lê Phát (họ ngoại của Nam Phương), gia đình của rất đông những tình nhân của Bảo Đại, xã trưởng và người dân làng Chabrignac, và cuối cùng là con gái ông André Mourand, người bạn đời trong những năm cuối của Nam Phương.

Qua những chương đầu, người đọc hiểu rõ hơn môi trường gia đình và xã hội đầu thế kỷ 20 của Mariette Nguyễn Hữu Thị Lan: dòng họ Lê Phát (họ ngoại) bốn đời Công giáo, điền chủ lớn nhất của Nam Kỳ, đồng thời là một tập đoàn gia đình có nhiều bất động sản và cổ phần ở Châu Âu và Châu Phi. Chị em cô Lan đều học Couvent des Oiseaux ở Paris, cùng thời gian đó, Vĩnh Thụy học trung học ở Paris, dưới sự đỡ đầu của công sứ Charles. Cuộc hôn nhân của họ hoàn toàn do chính quyền thuộc địa (ở cấp toàn quyền Đông Dương và bộ trưởng Bộ thuộc địa) chủ trương và xúc tiến, vượt qua mọi trở ngại và chống đối, đến từ hai phía: triều đình Huế (và bà Từ Cung, mẹ Bảo Đại – chắc chắn bà đẻ ra Bảo Đại, còn cha ông là ai, chỉ biết chắc không phải là Khải Định (°)) một bên, bên kia là Tòa thánh Vatican. Giáo hội Công giáo thập niên 1930 chỉ cho phép phụ nữ Công giáo lấy chồng ngoại đạo nếu hai người cam kết rằng con cái (sau này là Bảo Long, Phương Mai, Phương Liên, Phương Dung, Bảo Thắng) ra đời phải được rửa tội và suốt đời phải được giáo dục theo Công giáo. Cô Lan thành tâm thực hiện quyết định của Giáo hoàng vì cô là tín đồ ngoan đạo, được đào tạo xu hướng bảo thủ nhất của Công giáo, và đã từng ước nguyện trở thành nữ tu. Đối với chính quyền thực dân, cuộc hôn nhân giữa ông vua của “xứ bảo hộ” An Nam với một thiếu nữ “tinh hoa bản xứ” của thuộc địa Nam Kỳ vừa củng cố vị trí của thành phần quan lại Công giáo (Nguyễn Hữu Bài, Ngô Đình Diệm...) vừa tạo ra một hình ảnh “tân tiến” cho một triều đình cũ kỹ, lạc hậu. Hình ảnh thôi, khi chúng ta biết rằng lương lậu của các quan lớn quan bé đều do dinh Thống sứ Trung Kỳ quản lý: thậm chí nhà vua muốn đặt làm một cuốn an-bom đám cưới cũng phải có chữ ký của ba công chức thực dân.

Có lẽ phát hiện “lớn” của F. Joyaux nằm trong câu kết của tác phẩm: “Cũng như xứ Đông Dương thuộc Pháp tươi đẹp đã kết thúc trong chế độ cộng sản, người đẹp Nam Phương cuối đời đã rơi vào đôi cánh tay của một đảng viên cộng sản”. Đoạn đầu phản ánh lập trường “hoài cổ” không mấy tiến bộ, đoạn sau là một khẳng định chính xác. Tác giả đã thu thập đầy đủ chứng từ để xác định trong năm năm cuối đời (1958-1963) bà Nam Phương đã chung sống lứa đôi với ông André Mourand, một chuyên gia vật lý trị liệu (kinésithérapeute) từng xoa bóp cho hoàng tử Aga Khan và các ông hoàng bà chúa dọc theo Côte d’Azur, kiêm quản gia lâu đài La Perche ở làng Chabrignac của cựu hoàng hậu. A. Mourand là đảng viên đảng cộng sản, đã từng ra ứng cử hội đồng thành phố Cannes, chi ủy viên chi bộ ĐCS. Năm năm sống ẩn dật, xa lánh không khí xa hoa của sòng bạc Monte-Carlo, lâu đài Thorenc hay những khách sạn siêu sao của thành phố Cannes, chuỗi dài những thứ phi, gái nhảy, người tình của Bảo Đại, bà Nguyễn Hữu Thị Lan dường như sống mối tình đầu ngang trái. Ngang trái, ít nhất trong con mắt của thành phần bảo thủ của Giáo hội Công giáo. Khi bà đột tử (tháng 9-1963), Hội thừa sai Paris (Missions Etrangères de Paris / MEP) và trường đạo Couvent des Oiseaux, hai cơ sở được hoàng hậu Nam Phương suốt đời giúp đỡ rất nhiều về tài chính, không hề cử đại diện về dự lễ tang. Phải đợi 40 năm sau, MEP mới làm lễ lần thứ 100 năm ngày sinh của bà. Về phía Đảng cộng sản Pháp, André Mourand không bị khai trừ nhưng bị loại ra khỏi mọi vị trí trách nhiệm. Diễn biến tâm tư của “hoàng hậu cuối cùng” không chỉ thể hiện trong lĩnh vực tình cảm: theo những chứng từ đáng tin cậy (trong đó có Pascal Lê Phát Tân, cháu gọi bà bằng cô và Sophie Mourand, con gái ông André, từng chung sống với bà ở Chabrignac), cuối đời, bà xích lại gần thần học giải phóng, xu hướng tiến bộ trong Giáo hội Công giáo – hai thập niên sau khi Nam Phương từ trần, thần học giải phóng đã bị giáo hoàng Gioan Phaolồ II lên án và đàn áp thẳng tay.

Ông Mourand từ trần vài năm sau Nam Phương. Mộ của ông nằm gần “Nam Phương hoàng hậu chi lăng” (*) tại nghĩa trang của làng Chabrignac. Theo những thông tin từ dòng họ Lê Phát, di hài của hai hoàng tử Bảo Long (con trai lớn) và Bảo Thắng (con trai út) cũng được an táng trong mồ mẹ.

Nói tới Bảo Long, mọi người đều biết sau khi tốt nghiệp trường sĩ quan St-Cyr, Bảo Long đã gia nhập binh đoàn Lê Dương đàn áp kháng chiến Algérie. Theo Daniel Grandclément (Les derniers jours de l’empire d’Annam, J-C Lattès, 1997), những năm tham chiến này đã để lại trong tâm trí Bảo Long những kỷ niệm chua chát, kinh tởm. Điều này có lẽ giải thích vào cuối đời, ông chung sống với một phụ nữ Pháp, Isabelle Ebey, cũng là đảng viên Đảng cộng sản (**). Còn em ông, công chúa Phương Dung, từng là nhân viên làm phòng ở khách sạn Ritz (Paris), đã gia nhập Hội công nhân Việt Nam tại Pháp (thuộc Hội người Việt Nam tại Pháp) (***).

Hai thông tin về Bảo Long và Phương Dung, dường như François Joyaux không biết. Cũng may, vì nếu biết, chắc ông còn tiếc thương “xứ Đông Dương thuộc Pháp tươi đẹp” của ông da diết hơn nhiều. Mong rằng, không sớm thì muộn, sẽ có một sử gia, chuyên nghiệp như F. Joyaux, có một cái nhìn khách quan hơn, và thông hiểu tâm lý Việt Nam, mang lại cho chúng ta những hiểu biết sâu sắc về gia đình Bảo Đại - Nam Phương, một thời vang bóng.

 

Nguồn: https://www.diendan.org/phe-binh-nghien-cuu/doc-sach-francois-joyaux-ve-hoang-hau-nam-phuong

(°)    Xem, chẳng hạn, Daniel Grandclément, Les derniers jours de l’empire d’Annam, J-C Lattès, 1997, chương IV.

(*)    Trên mộ bà Nam Phương, có khắc một dòng chữ Hán “Đại Nam Nam Phương hoàng hậu chi lăng”, người khắc không phân biệt “lăng” và “mộ”, tương phản một cách mỉa mai với ngôi mộ đơn giản ở nghĩa trang làng quê.

(**)   Chứng từ của nhà văn Madeleine Riffaud, ở cùng tòa nhà với Bảo Long và I. Ebey, phố Villehardouin, Paris 4. (***) Chứng từ của Pascal Lê Phát Tân