Danh ngôn

Trong mọi cộng đồng, chúng ta cần một nhóm thiên thần gây rối.

We need, in every community, a group of angelic troublemakers.

(Bayard Rustin – trích bài phát biểu tại New York City 1963)

Trong mọi trường hợp, chắc chắn rằng sự thiếu hiểu biết, đi kèm với quyền lực, là kẻ thù tàn bạo nhất có thể có của công lý.

It is certain, in any case, that ignorance, allied with power, is the most ferocious enemy justice can have.

(James Baldwin - No Name in the Street 1972)

Các cuộc cách mạng và các cá nhân có thể bị giết hại, nhưng bạn không thể giết chết các ý tưởng.

While revolutionaries and individuals can be murdered, you cannot kill ideas.

(Thomas Sankara, một tuần trước khi bị ám sát, 1987)

Không có cảm giác nào cô đơn hơn việc bị chính đất nước mình trục xuất.

There's not a more lonely feeling than to be banished by my own country.

(Kiyo Sato – Kiyo’s Story 2009)

Ban Biên tập

Địa chỉ liên lạc:

1. Thơ

tho.vanviet.vd@gmail.com

2. Văn

vanviet.van14@gmail.com

3. Nghiên cứu Phê Bình

vanviet.ncpb@gmail.com

4. Vấn đề hôm nay

vanviet.vdhn1@gmail.com

5. Thư bạn đọc

vanviet.tbd14@gmail.com

6. Tư liệu

vanviet.tulieu@gmail.com

7. Văn học Miền Nam 54-75

vanhocmiennam5475@gmail.com

Tra cứu theo tên tác giả

Thứ Sáu, 2 tháng 2, 2024

Gian nan con đường tìm về với bài thơ chữ Hán của Phan Khôi tặng sư Viên Thành

 Phan Nam Sinh

 

Sáng ngày 16 tháng 11 năm 2023, tôi nhận được tin nhắn từ Phó Giáo sư Tiến sĩ ngôn ngữ học Hoàng Dũng. Tin cho biết, trong bài Pháp thoại của năm đại tăng Huế, đăng trên Trang Nhà Quảng Đức, ngày 18 tháng 12 năm 2015, Giáo sư Ngô Trọng Anh có viết: hồi ở Huế, sau một đêm trọ trong chùa mà sư Viên Thành là trụ trì, nhớ lúc chia tay, cảm phục tư cách của vị cao tăng nên Phan Khôi đã viết tặng sư Viên Thành một bài thơ chữ Hán, như sau:

Phiên âm Hán Việt

Duyệt tận phồn hoa, nhãn nhục hôn,

Tọa gian nhân ngã, hoa vô tướng,

Bích thượng thi từ, ngọc hữu hồn.

Thảo thụ kỳ viên, tân Phật Quốc,

San hô bảo kiếm, cự vương tôn,

Không tang nhất túc tri vô phận,

Trân trọng ca sa tống xuất môn.

Được dịch thành thơ

Trải tận phồn hoa, mắt rối bời.

May cùng thiện hữu đến chùa chơi.

Người, ta trên ghế: Hoa vô tướng,

Thơ phú trên tường: Ngọc chiếu ngời.

Cây cỏ xinh tươi ra cảnh Phật,

San hô kiếm quý tự bao đời.

Vô duyên tá túc đành từ biệt,

Sư khoác ca sa tiễn cuối trời.

Bài thơ không có đầu đề, cũng không có nguyên văn chữ Hán mà chỉ có phần phiên âm và bản dịch thơ. Có điều lạ là ở phần phiên âm lại thiếu mất câu thứ hai mà bản dịch thơ dịch là May cùng thiện hữu đến chùa chơi. Cũng không biết tác giả làm bài thơ vào năm nào, trong hoàn cảnh nào. Lạ nhất là ba chữ cuối câu thứ năm được phiên âm Hán Việt là “cự vương tôn”. Có nhiều chữ “cự” nhưng là chữ ”cự” nào, trong khi mọi chữ “cự” đưa vào đều không chữ nào hợp với ý tình của bài thơ cả? Vả lại, nếu là “cự vương tôn” thì làm sao đối với “tân bảo kiếm” và người dịch, theo Giáo sư Ngô Trọng Anh là Vũ Hoàng Chương đã dịch thơ là “tự bao đời” được? Có khi nào nó là “cựu vương tôn” mà khi số hóa đưa lên mạng nhầm thành “cự vương tôn” không?

Vì vậy mà khi cài chữ Hán cho bài thơ, tôi chỉ cài được bốn câu đầu, tới câu thứ năm thì... tắc! Tắc vì không tìm ra chữ “cự” nào cho hợp lý, lại không dám cài chữ “cựu” (舊) như mình nghĩ vì không chắc đúng! Tất nhiên, chữ thứ sáu trong câu đầu của bản phiên âm “nhục” tôi vẫn cài bằng chữ “nhục” (肉) mặc cho vẫn còn thắc mắc, không hiểu vì sao lại là “nhục” mà không phải là một chữ nào khác dễ nghe hơn.

Không biết cách nào để giải tỏa những thắc mắc của mình, tôi đành mạo muội viết thư ngỏ gửi Giáo sư Ngô Trọng Anh, tác giả Pháp thoại của năm đại tăng Huế, mong được Giáo sư chỉ dẫn cho những điều tôi đang rất muốn biết, để từ đó viết một bài về mối quan hệ giữa Phan Khôi với sư Viên Thành, có thể đã gần trăm năm trước và nhân tiện giới thiệu bài thơ với độc giả yêu mến và quan tâm tới Phan Khôi.

Thư rằng:

Kính thưa Giáo sư,

Xin phép được tự giới thiệu với Giáo sư: Tôi là Phan Nam Sinh, 83 tuổi, là con trai thứ tám của nhà báo - nhà văn Phan Khôi, người được Giáo sư nhắc tới trong bài Pháp thoại của năm đại tăng Huế, trên Trang Nhà Quảng Đức hôm 18 tháng 12 năm 2015.

Trước tiên, xin cho phép tôi được gửi lời cám ơn tới Giáo sư vì nhờ bài viết của Giáo sư do một người bạn hiện ở Sài Gòn gửi cho, tôi mới lần đầu được biết bài thơ chữ Hán của ông thân sinh tôi tặng nhà sư Viên Thành, hồi ở Huế.

Tiếc là bài thơ Giáo sư chép ra đó không có đầu đề, cũng không thấy nguyên văn chữ Hán mà chỉ có phần phiên âm Hán Việt. Thêm tiếc là phần phiên âm Hán Việt chỉ có bảy câu, thiếu mất câu thứ hai mà theo Giáo sư là nhà thơ Vũ Hoàng Chương đã dịch ra thơ tiếng Việt là May cùng thiện hữu đến chùa chơi.

Không biết cách nào để liên lạc với Giáo sư, tôi đành phải thất lễ viết thư ngỏ này kính gửi Giáo sư, kính nhờ Giáo sư, nếu có thể, cho tôi biết vài điều sau:

1. Bài thơ Phan Khôi viết tặng sư Viên Thành chính xác là vào năm nào, trong hoàn cảnh cụ thể nào, đăng ở đâu chưa, và đầu đề bài thơ là gì?

2. Nguyên văn chữ Hán bài thơ đó như thế nào, kể cả câu thứ hai còn thiếu trong phần phiên âm Hán Việt của Giáo sư?

3. Ba chữ cuối câu thứ năm của bài thơ là “cự vương tôn” hay là “cựu vương tôn” mà khi số hóa đưa lên mạng bị nhầm?

Một lần nữa, xin chân thành cám ơn Giáo sư và mong Giáo sư thứ lỗi cho sự thất lễ này!

Nay kính,

Biên Hòa, Đồng Nai, Việt Nam 16-11-2023

Phan Nam Sinh.

Những tưởng cũng chỉ viết hú họa vậy thôi, chẳng có mấy chút hy vọng, nhưng may nhờ có Phó Giáo sư Tiến sĩ Hoàng Dũng tiếp tay, chia sẻ trên mạng nên đúng mười hai ngày sau, đêm 28 tháng 11 năm 2023, tôi nhận được tin nhắn từ Phó Giáo sư Tiến sĩ Hoàng Dũng. Tin cho biết, ông Nguyễn Lam Điền, sau khi xem thư ngỏ của tôi gửi Giáo sư Ngô Trọng Anh mà Phó Giáo sư Tiến sĩ Hoàng Dũng chia sẻ lên mạng đã cất công đi tìm và đã tìm ra nguyên văn chữ Hán bài thơ và một số điều liên quan trong cuốn Tra Am và sư Viên Thành của Nguyễn Văn Thoa do Môn đồ Ba la và Tra Am ấn hành, lần thứ nhất vào năm 1972, lần thứ hai vào năm 2016. Theo đó, nguyên văn bài thơ chữ Hán, phiên âm và dịch thơ như sau:

Nguyên văn chữ Hán

閱 盡 繁 華 眼 欲 昏

忽 從 人 海 溯 禪 源

坐 間 人 我 花 無 相

壁 上 詩 詞 玉 有 魂

草 樹 祇 園 新 佛 國

珊 瑚 寶 劍 舊 王 孫

空 桑 一 宿 知 無 分

珍 重 袈 桬 送 出 門

Phiên âm Hán Việt

Duyệt tận phồn hoa nhãn dục hôn

Hốt tùng nhân hải tố thiền ngôn (1)

Tọa gian nhân ngã hoa vô tướng

Bích thượng thi từ ngọc hữu hồn

Thảo thụ kỳ viên tân phật quốc

San hô bảo kiếm cựu vương tôn

Không tang nhất túc tri vô phận

Trân trọng ca sa tống xuất môn

Dịch thơ tiếng Việt

Trải tận phồn hoa, mắt rối bời.

May cùng thiện hữu đến chùa chơi.

Người, ta trên ghế: hoa vô tướng,

Thơ phú trên tường: ngọc chiếu ngời.

Cây cỏ xinh tươi ra cảnh Phật,

San hô kiếm quý tự bao đời.

Vô duyên tá túc đành từ biệt,

Sư khoác ca sa tiễn cuối trời.

Đang chưa biết cách nào để tìm cuốn Tra Am và sư Viên Thành của Nguyễn Văn Thoa để có thêm tư liệu viết bài thì vừa may sáng 29 tháng 11 năm 2023 nhận được tin từ Phó Giáo sư Tiến sĩ Hoàng Dũng báo cho biết là đã mua được sách và sẽ gửi biếu một cuốn.

Chờ hơn bốn ngày, đến trưa ngày 4 tháng 12 năm 2023 thì tôi nhận được cuốn Tra Am và sư Viên Thành do Phó Giáo sư Tiến sĩ Hoàng Dũng từ Sài Gòn gửi tặng. Đọc xong cả cuốn sách hơn 350 trang khổ lớn, đem đối chiếu với bài viết của Giáo sư Ngô Trọng Anh trong Pháp thoại của năm đại tăng Huế thì thấy có một đôi chỗ khác nhau, xin lần lượt nêu ra như dưới đây:

1. Nguyên văn câu thứ hai mà bản của Giáo sư Ngô Trọng Anh bỏ sót được Nguyễn Văn Thoa đưa vào là 忽 從 人 海 溯 禪 源, phiên âm là “hốt tùng nhân hải tố thiền ngôn” và dịch thơ là May cùng thiện hữu đến chùa chơi.

Chữ thứ sáu câu đầu, bản của Giáo sư Ngô Trọng Anh phiên là “nhục”, bản của Nguyễn Văn Thoa viết là 欲, phiên là “dục”.

Chữ thứ năm câu thứ sáu, bản của Nguyễn Văn Thoa viết là 舊, phiên là “cựu” chứ không phải “cự” như bản của Giáo sư Ngô Trọng Anh.

Hai chữ “hoa” và “ngọc” ở câc câu ba, bốn của bản này không viết hoa như bản của Giáo sư Ngô Trọng Anh nhận từ Nguyễn Lam Điền, và như thế có lẽ là hợp lý hơn.

Nhưng điểm khác nhau đáng kể nhất là: bản của Nguyễn Văn Thoa có thêm một lá thư ngắn cũng bằng chữ Hán ở phần đầu bài thơ. Nguyên văn lá thư, phiên âm Hán Việt và dịch sang tiếng Việt như sau.

Nguyên văn chữ Hán:

昨 晚 獲 謁 上 人 夜 歸 敝 寓 不 能 成 寐 憶 及 臨 別 時 上 人 口 誦 一 句 爰 成 一 律 僭 用 此 句 殿 之 以 誌 不 忘 謹 托 雲 屏 先 生 代 上 希 惟 鍳 政.

Phiên âm Hán Việt:

Tạc vãn, hoạch yết thượng nhân, dạ quy tệ ngụ, bất năng thành mị. Ức cập lâm biệt thì, thượng nhân khẩu tụng nhất cú viên thành nhất luật, tiếm dụng thử cú điện chi dĩ chí bất vong. Cẩn thác Vân Bình tiên sinh đại thượng. Hy duy giám chính.

Dịch sang tiếng Việt:

Chiều hôm qua, được tiếp kiến thượng nhân, đêm về nhà trọ, không sao ngủ được. Nhớ lúc chia tay, thượng nhân có đọc một câu thơ và tôi đã làm được một bài thơ luật, mượn nguyên câu ấy của thượng nhân đặt ở cuối bài để nhớ không quên. Kính nhờ Vân Bình tiên sinh thay tôi mang về chùa. Rất mong được thượng nhân xem và phủ chính cho.

Dựa vào lá thư trên và một vài tư liệu khác trong Tra Am và sư Viên Thành, tuy chưa biết đầu đề bài thơ là gì, đã đăng ở đâu chưa; cũng chưa thể xác định chính xác Phan Khôi làm bài thơ vào thời điểm nào, nhưng có thể ước chừng là ông đã làm trong quãng thời gian từ năm 1911 tới năm 1914, sau ba năm ở tù ra vì bị tình nghi có liên quan đến vụ “xin xâu” ở Quảng Nam và các tỉnh lân cận năm 1908. Lúc này Phan Khôi đang ở Huế và sư Viên Thành cũng đang trụ trì tại chùa Ba La Mật, làng Nam Phổ, cách kinh thành Huế chừng bốn tới năm cây số. Hoàn cảnh cụ thể để bài thơ ra đời là sau một ngày viếng thăm, đàm đạo cùng sư, trong một đêm trở lại nhà trọ không ngủ được vì cảm phục đức độ và tài năng thiên phú cộng với công phu khổ luyện của sư Viên Thành.

Cũng nhờ Tra Am và sư Viên Thành mà biết thêm, sau lần này còn một lần nữa Phan Khôi đến với sư Viên Thành. Đó có lẽ là lần vào đầu năm 1918, Phan Khôi với tư cách là phái viên báo Nam phong đã cùng chủ bút Phạm Quỳnh có chuyến đi vào Huế quan sát lễ tế Nam Giao của triều đình, nhân đó ông đã đưa Phạm tiên sinh tới vãn cảnh chùa và đàm đạo với sư Viên Thành một buổi sáng về nhiều vấn đề văn chương và triết lý Thiền tông. Về lần thăm này, Phạm Quỳnh đã có bài đăng trên tạp chí Nam Phong, số 10 năm 1918, hết lời ca ngợi sư Viên Thành, trong có câu: Thượng nhân vốn là người hoàng tộc, nên tuy ở chốn thuyền môn mà viết ra một cái phong độ riêng, không giống các nhà tu hành khác. Hay: Cái tài tình của Viên Thành thượng nhân thì không phải tìm đâu xa, cứ nghe ngay câu chuyện người nói cũng đủ biết: mỗi lời như nhả ngọc phun châu, mà tưởng cứ tự nhiên thành bài thơ ứng khẩu vậy. Người thơ chữ đã tuyệt bút mà thơ nôm cũng rất hay.

2. Người dịch bài thơ chữ Hán của Phan Khôi ra tiếng Việt không phải là nhà thơ Vũ Hoàng Chương mà là Nguyễn Văn Thoa, tác giả Tra Am và sư Viên Thành. Vũ Hoàng Chương chỉ là một trong số những người như Thượng tọa Trí Quang, Giáo sư Bửu Cầm... được tác giả mời soát lại và nhuận sắc. Có sự nhầm lẫn này và một số nhầm lẫn khác như đã kể trên cũng là điều dễ hiểu vì chính Giáo sư Ngô Trọng Anh cũng đã tự thừa nhận tôi nay đã trên tám mươi, lại mắc nhiều bệnh nan y, tài hèn sức mọn, nhớ trước quên sau trong phần Dẫn nhập đầu bài viết.

Trong thời gian chờ đợi để nhận cuốn Tra Am và sư Viên Thành do Phó Giáo sư Tiến sĩ Hoàng Dũng mua gửi tặng, tôi đã dịch xong bài thơ, tuy vẫn chưa thật ưng ý:

Chơi chốn phồn hoa mắt muốn mờ

Vườn thiền tới viếng chẳng ai ngờ

Người, ta ngồi chỗ hoa không ảnh

Thơ, phú trên tường vẳng tiếng tơ

Cây cỏ vườn thiền tươi nước Phật

San hô (2) kiếm báu luyện xưa giờ

Thiền môn (3) nghỉ lại lo không tiện

Trân trọng sư đành tiễn khách thơ

Tôi không có ý đưa bản dịch thơ này vào đây để sánh với bản dịch thơ của ông Nguyễn Văn Thoa từng được các cao tăng, các nhà thơ trong đó có Vũ Hoàng Chương, các Giáo sư đọc và nhuận sắc mà chỉ muốn có thêm một bản dịch cho bài thơ của cụ thân sinh mà thôi. Rất mong được tác giả Tra Am và sư Viên Thành cùng các bậc cao tăng, các nhà thơ, các vị Giáo sư từng tham gia dịch bài thơ và bạn đọc thông cảm, lượng thứ, nếu thấy có điều chi sai sót!

Như vậy là, tuy tôi chưa nhận được thư trả lời của Giáo sư Ngô Trọng Anh, cũng chưa biết đầu đề bài thơ là gì nhưng nhờ sự giúp đỡ của các bạn, nhất là của ông Nguyễn Lam Điền và Phó Giáo sư Tiến sĩ Hoàng Dũng, tôi không những đã có trong tay nguyên văn bài thơ chữ Hán của Phan Khôi mà còn biết thêm thời điểm cũng như hoàn cảnh cụ thể ông làm bài thơ để hoàn thành bài viết ngắn này, chỉ sau mười chín ngày kể từ khi biết tin có bài thơ của ông thân sinh. So với trên 50 năm đi tìm bài thơ chữ Hán Tụng Lỗ Tấn của thân phụ tôi hồi sang Trung Quốc dự Đại hội Kỷ niệm 20 năm ngày Lỗ Tấn qua đời, đó là một thời gian cực kỳ ngắn.

Nhân dịp này, tôi xin chân thành gửi lời cám ơn tới các bạn, đặc biệt là với ông Nguyễn Lam Điền và Phó Giáo sư Tiến sĩ Hoàng Dũng.

Như vậy, điều có thể thấy là: trong đời sống thường nhật, hình như Phan Khôi không có nhiều mối quan hệ với các tăng sư. Với những gì ông để lại mà tôi đọc được, sư Viên Thành có lẽ là nhà sư thứ nhất mà ông có mối quan hệ thân tình, nể trọng. Người thứ hai là nhà sư Thiện Chiếu hồi ở Sài Gòn, sau đó hơn mười năm. Với sư Thiện Chiếu, Phan Khôi đã có bài phê bình sách Phật học tổng yếu mà sư là dịch giả với lời lẽ hết sức trân trọng, khiêm nhường, đăng liền bốn kỳ trên tờ Thần chung, Sài Gòn, các số 279, 280, 281, 283 ngày 24, 26, 27, 29 và 30 tháng 12 năm 1929.

__________________________________________________________________

Chú thích:

(1) Chữ đọc là “nguyên”. Bản của Nguyễn Văn Thoa phiên là “ngôn” cốt để cho hiệp vận.

(2) San hô kiếm ( ): kiếm làm bằng san hô có tác dụng sát thương quái vật dưới nước.

(3) Hai chữ “thiền môn” là dịch từ hai chữ (không tang) xưa dùng để chỉ cho nhà chùa.

4-12-2023