Danh ngôn

Trong mọi cộng đồng, chúng ta cần một nhóm thiên thần gây rối.

We need, in every community, a group of angelic troublemakers.

(Bayard Rustin – trích bài phát biểu tại New York City 1963)

Trong mọi trường hợp, chắc chắn rằng sự thiếu hiểu biết, đi kèm với quyền lực, là kẻ thù tàn bạo nhất có thể có của công lý.

It is certain, in any case, that ignorance, allied with power, is the most ferocious enemy justice can have.

(James Baldwin - No Name in the Street 1972)

Các cuộc cách mạng và các cá nhân có thể bị giết hại, nhưng bạn không thể giết chết các ý tưởng.

While revolutionaries and individuals can be murdered, you cannot kill ideas.

(Thomas Sankara, một tuần trước khi bị ám sát, 1987)

Không có cảm giác nào cô đơn hơn việc bị chính đất nước mình trục xuất.

There's not a more lonely feeling than to be banished by my own country.

(Kiyo Sato – Kiyo’s Story 2009)

Ban Biên tập

Địa chỉ liên lạc:

1. Thơ

tho.vanviet.vd@gmail.com

2. Văn

vanviet.van14@gmail.com

3. Nghiên cứu Phê Bình

vanviet.ncpb@gmail.com

4. Vấn đề hôm nay

vanviet.vdhn1@gmail.com

5. Thư bạn đọc

vanviet.tbd14@gmail.com

6. Tư liệu

vanviet.tulieu@gmail.com

7. Văn học Miền Nam 54-75

vanhocmiennam5475@gmail.com

Tra cứu theo tên tác giả

Thứ Tư, 24 tháng 1, 2024

Trần Dần ở giữa ngã tư (2)

 Thái Kế Toại

 

Cuộc chiến Nhất định thắng

Thơ Trần Dần giàu tính đa nghĩa. Chỉ riêng một bài Nhất định thắng, đã có thể vừa quy kết ông là một tên phản động cực kỳ nguy hiểm, vừa có thể ca ngợi ông như một người yêu nước nồng nàn. Bắt đầu từ câu chuyện khổ cực của một đôi vợ chồng trẻ giữa lòng Hà Nội lúc đó, nguyên mẫu chính là nhà thơ, Nhất định thắng dẫn dòng mạch tâm sự vào chuyện đời sống Hà Nội, lòng yêu nước bàng bạc quyện vào nỗi khổ nghèo túng, thảm cảnh di cư, nỗi đau chia cắt đất nước. Có nỗi buồn nhưng có ý chí vươn lên từ chính màu cờ đỏ, như hết mưa lại bừng lên dưới nắng.

Một giai đoạn lịch sử buồn đau của đất nước hiện ra mồn một trong mỗi câu thơ của ông. Khi Trần Dần viết bài thơ ấy, đất nước đang bị phân đôi, ở miền Bắc chiến tranh kết thúc. Nhưng, cuộc sống của người dân thì không có ấm no hạnh phúc.

Trần Dần viết:

Tôi đi giữa trời mưa đất Bắc

Đất hôm nay tầm tã mưa phùn

Bỗng nhói ngang lưng, máu rỏ xuống bùn

Lưng tôi có tên nào chém trộm?

Hình tượng “vết chém ngang lưng” ông viết ở đây là để nói về nỗi đau chia cắt tổ quốc có thể hiểu về cái không khí ngột ngạt của xã hội mới ở miền Bắc, cái không khí mà đến 30 năm sau, Hữu Loan vẫn nhớ: “Thành viên nào (trong cộng đồng) cũng chứa toàn âm mưu đen tối để chủ hại người bên cạnh”.

Theo Hiệp định Genève, người dân có một thời gian dài để chọn cho mình miền Nam hay miền Bắc. Trong khi, hàng triệu người dân đã gồng gánh vào Nam để lại mồ mả ông bà trên đất Bắc. Thoạt đầu, có vẻ như Trần Dần trách móc, thậm chí ông đã buộc tội “những bạn đi Nam” là thiếu quả tim bộ óc! Nhưng rồi quan sát kỹ hơn, ông buột hỏi:

Họ vẫn ra đi

Nhưng sao bước rã rời?

Sao họ khóc?

Họ có gì thất vọng?

“Cơm áo” không phải là những gì ngột ngạt nhất mà những người như ông đã từng nếm trải.

Tôi ở phố Sinh Từ:

Hai người

Một gian nhà chật.

Rất yêu nhau, sao cuộc sống không vui?

Tổ Quốc hôm nay

tuy gọi sống Hoà Bình

Nhưng mới chỉ là năm thứ nhất

Chúng ta còn muôn việc rối tinh...

Chúng ta

Ngày làm việc, đêm thì lo đẫy giấc

Vợ con đau thì rối ruột thuốc men

Khi mảng vui - khi chợt nhớ - chợt quên

Trăm cái bận hàng ngày nhay nhắt

Chúng ta vẫn làm ăn chiu chắt

Ta biết đâu bên Mỹ Miếc tít mù

Chúng còn đương bày kế hại đời ta?

Nhà thơ đau về nỗi đau chia cắt đất nước, nhưng rõ nhất là nỗi đau về cuộc di cư, một trong những nỗi đau đau đớn nhất mà cho đến nay lịch sử ít nói đến. Trong văn học miền Nam người ta có thể đọc thấy giai đoạn 1954 của Hà Nội trong văn Mai Thảo, Mặc Đỗ, Nguyễn Đình Toàn, Vũ Khắc Khoan… Sớm nhất Trần Dần đã dám viết về cái bi kịch này của dân tộc. Những đoạn văn day dứt như thế này cho đến nay hầu như không có trong văn học miền Bắc:

NHẤT ĐỊNH THẮNG

1

Tôi ở phố Sinh Từ:

Hai người

Một gian nhà chật.

Rất yêu nhau, sao cuộc sống không vui?

Tổ Quốc hôm nay

tuy gọi sống Hoà Bình

Nhưng mới chỉ là năm thứ nhất

Chúng ta còn muôn việc rối tinh...

Chúng ta

Ngày làm việc, đêm thì lo đẫy giấc

Vợ con đau thì rối ruột thuốc men

Khi mảng vui - khi chợt nhớ - chợt quên

Trăm cái bận hàng ngày nhay nhắt

Chúng ta vẫn làm ăn chiu chắt

Ta biết đâu bên Mỹ Miếc tít mù

Chúng còn đương bày kế hại đời ta?

Người ta nói thằng ngô con đĩ

Ở miền Nam có tên giặc họ Ngô

Tài của hắn là: Khuyển Ưng của Mỹ

Bửu bối gớm ghê là: một lưỡi đao cùn

Hắn nhay mãi cố xẻ đôi Tổ Quốc

Tôi đi giữa trời mưa đất Bắc

Đất hôm nay tầm tã mưa phùn

Bỗng nhói ngang lưng

máu rỏ xuống bùn

Lưng tôi có tên nào chém trộm?

A! Cái lưỡi đao cùn!

Không đứt được – mà đau!

Chúng định chém tôi làm hai mảnh

Ơi cả nước! Nếu mà lưng tê lạnh

Hãy nhìn xem: Có phải vết đao?

Không đứt được mà đau!

Lưng Tổ Quốc hôm ngày hôm nay rớm máu.

2.

Tôi đã sống rã rời cân não

Quãng thời gian nhưng nhức chuyện đi Nam

Những cơn mưa rơi mãi tối sầm

Họ lếch thếch ôm nhau đi từng mảng

Tôi đã trở nên người ôm giận

Tôi đem thân làm ụ cản đường đi

- Đứng lại!

- Đi đâu?

- Làm gì?

Họ kêu những thiếu tiền thiếu gạo

Thiếu Cha, thiếu Chúa, thiếu vân vân

Có cả anh nam chị nữ kêu buồn

- Ở đây

khát gió, thèm mây...

Ô hay!

Trời của chúng ta gặp ngày mây rủ

Nhưng trời ta sao bỏ nó mà đi?

Sau đám mây kia

là cả miền Nam

Sao nỡ tưởng là non bồng của Mỹ!

Tiệm nhảy, rượu nồng, gái tơ

Tha hồ những tự do tự diếc

Tưởng như ở đấy cứ chìa tay

là có đô-la

Có trâu ruộng, - Có ngày đêm hoan hỷ!

Mặc dầu sao nỡ đổi trời ta?

Tôi muốn khóc giữ từng em bé

- Bỏ tôi ư? – Từng vạt áo – Gót chân

Tôi muốn kêu lên – những tiếng cộc cằn...

- Không! Hãy ở lại

Mảnh đất ta hôm nay dù tối

Cũng còn hơn

non bồng Mỹ

triệu lần...

Mảnh đất dễ mà quên?

Hỡi bạn đi Nam

Thiếu gì ư? Sao chẳng nói thực thà?

Chỉ là:

- thiếu quả tim, bộ óc!

Những lời nói sắp thành nói cục

Nhưng bỗng dưng tôi chỉ khóc mà thôi

Tôi nức nở giữa trời mưa bão.

Họ vẫn ra đi

- Nhưng sao bước rã rời?

Sao họ khóc?

Họ có gì thất vọng?

Đất níu chân đi,

gió cản áo bay về.

Xa đất Bắc tưởng như rời cõi sống

Tưởng như đây là phút cuối cùng

Giăng giối lại: - Mỗi lùm cây – hốc đá

- Mỗi căn vườn – gốc vả - cây sung

Không nói được, chỉ còn nức nở

Trắng con ngươi nhìn lại đất trời

Nhìn cơn nắng lụi, nhìn hạt mưa sa

Nhìn con đường cũ, nhìn ngôi sao mờ

Ôi đất ấy – quên làm sao được?

Quên sao nơi ấm lạnh ngọt bùi

Hôm nay đây mưa gió giập vùi

- Mưa đổ mãi lên người xa đất Bắc...

Ai dẫn họ đi?

Ai?

Dẫn đi đâu? – mà họ khóc mãi thôi

Trời vẫn quật muôn vàn tảng gió

Bắc Nam ơi, đứt ruột chia đôi

Tôi cúi xuống – Quỳ xin mưa bão

Chớ đổ thêm lên đầu họ -

Khổ nhiều rồi!

Họ xấu số - Chớ hành thêm họ nữa

Vườn ruộng hoang sơ – Cửa nhà vắng chủ

Miền Nam muôn dặm, non nước buồn thương

Họ đã đi nhưng trút lại tâm hồn

Ơi đất Bắc! Hãy giữ gìn cho họ

3.

Tôi ở phố Sinh Từ

Những ngày ấy bao nhiêu thương xót

Tôi bước đi

Không thấy phố

không thấy nhà

Chỉ thấy mưa sa

trên màu cờ đỏ.

Gặp em trong mưa

Em đi tìm việc

Mỗi ngày đi lại cúi đầu về

- Anh ạ.

Họ vẫn bảo chờ...

Tôi không gặng hỏi, nói gì ư?

Trời mưa, trời mưa

Ba tháng rồi

Em đợi

Sống bằng tương lai

Ngày và đêm như lũ trẻ mồ côi

Lũ lượt dắt nhau đi buồn bã...

Em đi

trong mưa

cúi đầu

nghiêng vai

Người con gái mới mười chín tuổi

Em ơi!

Em có biết đâu

Ta khổ thế này

Vì sao?

Em biết đâu

Mỹ Miếc, Ngô Nghê gì?

Khổ thân em mưa nắng đi về

lủi thủi

Bóng chúng

đè lên

số phận

từng người

Em cúi đầu đi, mưa rơi

Những ngày ấy bao nhiêu thương xót

Tôi bước đi

không thấy phố

không thấy nhà

Chỉ thấy mưa sa

trên màu cờ đỏ

4.

Đất nước khó khăn này

sao không thấm được vào Thơ?

Những tủ kính tôi dừng chân dán mũi

Các thứ hàng ế ẩm đợi người mua

Nhưng mà sách – hình như khá chạy

À quyển kia của bạn này – bạn ấy

Quyển của tôi tư lự, nét đăm đăm

Nó đang mơ: - nếu thêm cả miền Nam

Số độc giả sẽ tăng dăm bảy triệu

Tôi đã biến thành người định kiến

Tôi ước ao tất cả mọi người ta

Đòi Thống Nhất phải đòi từ việc nhỏ

- từ cái ăn

cái ngủ

chuyện riêng tư

- từ suy nghĩ

nựng con

và tán vợ

Trời mưa mãi lây rây đường phố

Về Bắc Nam tôi chưa viết chút nào

Tôi vẫn quyết Thơ phải khua bão gió

Nhưng hôm nay

tôi bỗng cúi đầu

Thơ nó đi đâu?

Sao những vần thơ

Chúng không chuyển, không xoay trời đất

Sao chúng không chắp được cả cõi bờ?

Non nước sụt sùi mưa

Tôi muốn bỏ thơ

Làm việc khác

Nhưng hôm nay tôi mê mải giữa trời mưa

Chút tài mọn

tôi làm thơ chính trị

Những ngày ấy bao nhiêu thương xót

Tôi bước đi

không thấy phố

không thấy nhà

Chỉ thấy mưa sa

trên màu cờ đỏ

5.

Em ơi! – ta ở phố Sinh Từ

Em đương có chuyện gì vui hử

À cái tin trên báo - Ừ em ạ

Hôm nay bọn Mỹ Miếc, lũ Ngô Nghê

Chúng đang phải giậm chân đấm ngực!

Vượt qua đầu chúng nó,

mọi thứ hàng

Những tấn gạo vẫn vượt đi

Những tấn thư, tài liệu

Vẫn xéo qua đầu chúng, giới ranh gì?

Ý muốn dân ta

là lực sĩ khổng lồ

Đè cổ chúng mà xoá nhoà giới tuyến

Dân ta muốn trời kia cũng chuyển

Nhưng

Trời mưa to lụt cả gian nhà

Em tất tả che mưa cản gió

Con chó Mực nghe mưa là rú

Tiếng nó lâu nay như khản em à

Thương nó nhỉ - nó gầy – lông xấu quá

Nó thiếu ăn – Hay là giết đi ư?

Nó đỡ khổ - Cả em đỡ khổ.

Em thương nó - Ừ thôi chuyện đó

Nhưng hôm nay anh mới nghĩ ra

Anh đã biến thành người định kiến

Mực ơi!

đừng oán chủ, Mực à!

Mày không hiểu những gần xa Mỹ Diệm

Chúng ở đâu – mà lại núp bên ta

Chính chúng cướp cả cơm của khuyển

Những ngày ấy bao nhiêu thương xót

Tôi bước đi

không thấy phố

không thấy nhà

Chỉ thấy mưa sa.

trên màu cờ đỏ

6.

Hôm nay đài tiếng nói Việt Nam

Lại có chuyện tên Ngô Đình Diệm

Hắn sai con em là lũ du côn

Đi ném đá nhà Uỷ ban Quốc tế.

Hắn bảo hắn Giơ-ne không ký

Hắn bịt tai, không biết chuyện hiệp thương!

Ô hay! Cái lưỡi uốn càn

Cả thế giới vả vào mõm hắn

Hắn giậm chân khoa lưỡi đao cùn:

- Mặc kệ! Giết ta chết hẳn

thì thôi

Ta chẳng giả miền Nam!

Chứ

giả miền Nam cho nước Việt Nam

Thì ta chết

- thầy ta cũng chết

Hắn thét lên ộc máu mũi máu mồm

Hắn lồng lộn, ôm miền Nam mà cắn!

Thịt dân ta từng mảng nát bươm

Nhưng không!

Hôm nay

Cả thành phố Sài Gòn

Đóng cửa!

Không họp chợ!

Không ra đường!

Những mảng thịt

Những đọi máu đào

đang rầm rập kéo nhau

đi ngoài phố

Hôm nay

hàng triệu mối thù sâu

tới đập cửa lão già Ngô đòi mạng

Vung đao cùn chém phải quãng trời không!

Hắn đi ngủ,

muôn tiếng kêu xúm lại quanh giường

Hắn ngồi ăn

tiếng khóc nổi trong cơm

Hắn nhắm mắt

tiếng kêu vào giấc ngủ

Hắn rong chơi

tiếng rủa bước theo chân

Hắn hội họp

tiếng kêu ngồi cạnh

giơ bàn tay đòi mạng nghều ngào

Tên tội nhân kia!

Lịch sử vạch tên mày!

Tên đứa tay sai!

Chẳng có lâu đâu!

Hắn sẽ sống như tên mắc tội tử tù

Óc điên dại

- chân lê vòng xích

Trốn đi đâu?

Đất trời sâu

đương vẩy máu

đuổi theo chân hắn.

Hắn run sợ - Quỳ xin đã muộn!

Dù đêm khuya, bóng tối đặc ngầu ngầu

Máu vẫn đỏ

trúng đầu trúng mặt

Tên tội nhân kia!

Lịch sử vang tên mày!

7.

Tôi đi giữa trời mưa đất Bắc

Tai bỗng nghe những tiếng thì thầm

Tiếng người nói xen tiếng đời ầm ã.

- Chúng phá hiệp thương

- Liệu có hiệp thương?

- Liệu có tổng hay chẳng tổng?

- Liệu đúng kỳ? Hay chậm vài năm?

Những câu hỏi đi giữa đời lỏng chỏng

Ôi! Xưa nay Người vẫn thiếu tin Người

Người vẫn thường kinh hoảng trước Tương Lai

Người quên mất Mỹ là sư tử giấy

Người vẫn vội – Người chưa kiên nhẫn mấy

Gan người ta chưa phải đúng công nông

Người chửa có dạ lim trí sắt

Người mở to đôi mắt mà trông!

A tiếng kèn vang

quân đội anh hùng

Biển súng

rừng lê

bạt ngàn con mắt

Quân ta đi tập trận về qua

Bóng cờ bay đỏ phố đỏ nhà...

Lá cờ ấy là cờ bách thắng

Đoàn quân kia muôn trận chẳng sờn gan

Bao tháng năm đói rét nhọc nhằn

Từ đất dấy lên

là quân vô sản

Mỗi bước đi lại một bước trưởng thành

Thắng được Chiến Tranh

Giữ được Hoà Bình

Giặc cũ chết – lại lo giặc mới

Đoàn quân ấy – kẻ thù sợ hãi

Chưa bao giờ làm mất bụng dân yêu

Dân ta ơi! Chiêm nghiệm đã nhiều

Ai có LÝ? và ai có LỰC?

Tôi biết rõ đoàn quân sung sức ấy

Biết nhân dân

Biết Tổ Quốc Việt Nam này

Những con người từ ức triệu năm nay

Không biết nhục

Không biết thua

Không biết sợ!

Hôm nay

Cả nước chỉ có một lời hô:

THỐNG NHẤT

Chúng ta tin khẩu hiệu ta đòi

- Giả miền Nam!

Tôi ngửa mặt lên trời

Kêu một tiếng – bỗng máu trời rơi xuống

Vài ba tia máu đỏ rơi vào tôi

Dân ta ơi!

Những tiếng ta hô

có sức đâm trời chảy máu.

Không địch nào cưỡng nổi ý ta

Chúng ta đi – như quả đất khổng lồ

Hiền hậu lắm – nhưng mà quả quyết...

8.

Hôm nay

Những vần thơ tôi viết

Đã giống lưỡi lê: đâm

Giống viên đạn: xé

Giống bão mưa: gào

Giống tình yêu: thắm

Tôi thường tin ở cuộc đấu tranh đây

Cả nước đã bầu tôi toàn phiếu

Tôi là người vô địch của lòng tin.

Sao bỗng đêm nay,

tôi cúi mặt trước đèn?

Gian nhà vắng – chuột đêm nó rúc.

Biết bao nhiêu lo lắng hiện hình ra.

Hừ! Chúng đã biến thành tảng đá

chặn đường ta!

Em ơi thế ra

Người tin tưởng nhất như anh

vẫn có những phút giây ngờ vực

Ai có LÝ? Và ai có LỰC?

Ai người tin? Ai kẻ ngã lòng tin?

Em ơi

Cuộc đấu tranh đây

cả nước

cả hoàn cầu

Cả mỗi người đêm ngủ vẫn lo âu

Có lẫn máu, có xót thương, lao lực.

Anh gạch xoá trang thơ hằn nét mực

Bỗng mắt anh nhìn thấy! Lạ lùng thay!

Tảng đá chặn đường này!

Muôn triệu con người

Muôn triệu bàn tay

Bật cả máu ẩy đá lăn xuống vực!

Anh đã nghĩ: không có đường nào khác

Đem ngã lòng ra

mà thống nhất Bắc Nam ư?

Không không!

Đem sức gân ra!

Em ơi em!

Cái này đỏ lắm, gọi là TIM

Anh cho cuộc đấu tranh giành THỐNG NHẤT

9.

Hôm nay

Trời đã thôi mưa

Thôi gió

Nắng lên

đỏ phố

đỏ nhà

đỏ mọi buồng tim lá phổi

Em ơi đếm thử bao nhiêu ngày mưa!

Bây giờ

Em khuân đồ đạc ra phơi

Em nhé đừng quên

Em khuân tất cả tim gan chúng mình

phơi nắng hết.

Em nhìn

cao tít

trời xanh

Dưới phố bao nhiêu cờ đỏ!

Hôm nay em đã có việc làm

Lương ít – Sống còn khó khăn!

Cũng là may...

Chính phủ muôn lo nghìn lắng

Thực có tài đuổi bão xua mưa

Không thì còn khổ

Em treo cờ đỏ đầu nhà

Lá cờ trừ ma

Xua được bóng đen chúng nó!

Tiếng gì ầm phố em à?

A! Những người đi Nam trở ra

Phải rồi! Quên sao đất Bắc!

- Khổ! Trong ấy loạn

Phải đi đồn điền cao su

Chúng tôi bị lừa

Bà con muốn ra không được.

Đồng bào vui muốn khóc

Ô này lạ chưa?

- Mây ngoài này không đen

Mây đen vào trong ấy cả

Đúng rồi! Đó là công sức của nhân dân ta

lùa mây đuổi gió

Những vết thương kháng chiến đỏ lòm

Đã mím miệng, lên da lên thịt.

Tôi bỗng nhói ở nơi lồng ngực

Em ơi

Chúng đốt phố Ga-li-ê-ni

và nhiều phố khác.

Anh đã sống ở Sài gòn thuở trước

Cảnh miền Nam thành một góc tim anh

Chúng đốt tận đâu

mà lửa xém tim mình

Tim nó bị thui đen một nửa

Từ giạo ấy

mà em chẳng rõ.

- Em hãy đỡ cho anh khỏi ngã

Đứng đây

Một lúc!

Cờ bay

đỏ phố

đỏ nhà

Màu cờ kia là thang thuốc chữa cho anh.

Em có thấy bay trên trời xanh

Hàng triệu tâm hồn?

Họ đã bỏ miền Nam

ra Bắc!

Chúng đem súng mà ngăn

Đem dây mà trói!

Giữ thân người

không giữ được nhân tâm

Người Nam gửi tâm hồn ra Bắc cả.

Bọn Mỹ Diệm ôm đầu sợ hãi

Đổ lên chúng nó

Mây đen

lửa loạn

bão thù

Ai thắng ai thua?

Ai có LÝ và ai có LỰC?

Em ơi

Hôm nay

trời xanh

xanh đúc

Nắng lên

đỏ phố

đỏ cờ

Cuồn cuộn mít tinh

Những ngày thương xót đã lùi xa

Hoà bình

thêm vững

Anh bước đi

đã thấy phố thấy nhà

Không thấy mưa sa

Chỉ thấy nắng lên

trên màu cờ đỏ

Ta ở phố Sinh Từ

Em này

Hôm nay

đóng cửa

Cả nhà ra phố

mít tinh

Chúng ta đi

nổi bão

biểu tình

Vung cờ đỏ

hát hò

vỡ phổi...

Hỡi những người

thành phố

thôn quê

Đói no lành rách

Người đang vui

Người sống đang buồn

Tất cả!

Ra đường!

Đi!

hàng đoàn

hàng đoàn

Đòi lấy tương lai:

HOÀ BÌNH

THỐNG NHẤT

ĐỘC LẬP

DÂN CHỦ

Đó là tim

là máu đời mình

Là cơm áo! Là ái tình

Nhất định thắng!

1955

Nhà giáo Lương Duy Cán, với bút danh Hà Nhật, vốn là sinh viên khóa 1 Sư phạm văn khoa Hà Nội có kỷ niệm với bài Nhất định thắng như sau:

“Sau tháng 7-1954, đang là học sinh lớp Đệ Tam trường Trung học Chuyên khoa Khải Định, cũng đang chuẩn bị vào Huế tựu trường (tôi đã được đề nghị cấp học bổng), tôi bỗng quyết định: ở lại Quảng Bình, nghĩa là ở lại phần đất sắp trở thành Miền Bắc.

Với tâm hồn của chàng trai 17 đầy lãng mạn, tôi thấy mình đã có một sự lựa chọn đẹp. Cuộc kháng chiến là một cái gì thật tuyệt vời, những con người trở về từ cuộc Kháng chiến như là tượng trưng cho cái đẹp.

Thế rồi, tôi phải đi dự những buổi đấu tố, những lần chứng kiến “những tên địa chủ gian ác” đổ gục ngay trước mắt mình. Một cái gì đó đang bắt đầu vỡ ra.

May mà ngay từ đầu năm 1955, tôi đã ra Hà Nội. Tôi tiếp tục việc học hành.

Rồi đến đầu năm 1956, tôi đang học lớp Đệ Nhất, chuẩn bị dự kỳ thi Tú tài cuối cùng của Miền Bắc. Tôi đã đỗ Tú tài Toán, nhưng sau đó lại vào Đại học ở một cái khoa trớ trêu, bắt đầu mọi khốn khổ cực nhọc cho đời mình: Khoa Văn!

Còn nhớ cái buổi học chiều đầu tiên sau Tết năm 1956 ấy. Thầy Trương Tửu bước vào lớp với dáng vẻ khá xúc động. Ngày ấy, thầy Tửu là thần tượng của tất cả chúng tôi. Riêng với tôi, ở gần nhà (nhà thầy số 53, tôi ở số 10 phố Hàng Gà) nên càng cảm thấy vinh dự.

Thầy kể cho cả lớp biết một sự việc quan trọng: hôm qua thầy vừa dự một cuộc họp để trao đổi về một hiện tượng văn học bất ngờ. Đó là một tập sách có tên là: Giai phẩm mùa xuân.

Đây là một tập hợp gồm truyện, tiểu luận, phê bình, thơ, tranh… được phát hành bởi một nhà xuất bản tư nhân có tên là Minh Đức, mà chủ nhân tên là Trần Thiếu Bảo. (Sau này thì các báo gọi ông này là Trần Thiếu… bảo đảm). Người viết toàn là những tên tuổi “ghê gớm” những ngày này: Phan Khôi, Nguyễn Mạnh Tường, Lê Đạt, Trần Đức Thảo, Nguyễn Hữu Đang, Trần Dần, Phùng Quán, Nguyễn Sáng, Sỹ Ngọc, Đặng Đình Hưng…

Hoá ra trong cái buổi gọi là phê bình văn học nghệ thuật hôm ấy, người ta đã đánh tới tấp cả tập sách, quyết liệt cứ như đánh một tập đoàn những quân phản động! Hầu như ai cũng phải lên tiếng, tìm cho ra chỗ để kết tội. Phải kết tội được kẻ xấu mới chứng tỏ được mình là người tốt chứ! Không thể đánh mất ý thức cách mạng, tinh thần cảnh giác cách mạng!

Tuy nhiên, cái đinh trong buổi kết tội này chính là một bài thơ của Trần Dần: bài Nhất định thắng!

Đến nay, ngồi đọc lại, tôi cũng không hiểu vì sao bài thơ này đã bị quăng quật đến như vậy. Bài thơ tuy có những ý buồn, những câu buồn, nhưng vẫn khẳng định niềm tin lạc quan vào tương lai kia mà! Tên của bài thơ còn là Nhất định thắng kia mà!

Bài thơ có những đoạn tâm sự tuy buồn nhưng rất đáng yêu:

[…]

Có những câu, những đoạn, những ý thơ cũng đầy lạc quan, nếu không nói là rất hào hứng.

Tuy nhiên, phần lớn những câu thơ, những ý thơ trong bài này lại dành cho những điều buồn, những chuyện buồn. Cũng phải thôi. Cuộc sống đang trải qua, vừa trải qua, những chuyện buồn, mà là buồn ghê gớm. Cuộc Cải cách Ruộng đất vừa nhận ra cả một đống sai lầm, mà là sai lầm ở tầm cỡ ghê gớm! Rồi một trận vỡ đê Mai Lâm! Rồi cả thiếu đói! Chỉ kẻ vô tâm, cứng lòng, mới không nhận ra, mới có thể vui, dù là vui gượng!

Trong cái buồn chung, lại còn cả cái buồn riêng. Làm sao mà không buồn! Làm sao mà bắt mình “lạc quan cách mạng” được?!

[…]

Cái hình ảnh cô gái trẻ Hà Nội đi trong cơn mưa “cúi đầu nghiêng vai” đúng là buồn, buồn đến nao lòng! Lại cũng là một hình ảnh mang sức mạnh nghệ thuật rất cao, cứ đọc là phải nhớ.

Phải nói rằng nếu gọi Nhất định thắng là một bài thơ thì quả là một bài thơ lạ lùng xưa nay chưa từng có. Bài thơ gồm đến 9 đoạn, được đánh số rõ ràng, mà đoạn nào cũng tương đương với một bài thơ dài.

Đúng hơn, đây là một bài xã luận, một bài chính luận bằng thơ.

Thì chính Trần Dần đã nói trắng ra rồi mà:

Chút tài mọn tôi làm thơ chính trị

Nói thật ra, tôi khá bị bất ngờ khi thấy tên tác giả bài thơ. Trần Dần là tác giả văn xuôi chuyên nghiệp cơ mà. Ông là tác giả ba cuốn Người người lớp lớp đang chiếm vị trí trang trọng trên các quầy sách kia mà!

Ai ngờ Trần Dần làm thơ, mà thơ ông điêu luyện đến thế, cao tay đến thế! Thì chính cái điêu luyện ấy, cái cao tay ấy đang làm khổ ông đấy.

[…]

Chết ai thì chưa biết, nhưng tác giả của nó thì chắc là phải chết.

Sau này, có những người, dù chưa hề đọc bài thơ của Trần Dần, nhưng thuộc cả đoạn thơ đó để rồi viện dẫn nó ra theo ý đồ này hay ý đồ khác.”

(Hà Nhật, Mọi chuyện bắt đầu từ một bài thơ của Trần Dần, https://vandoanviet.blogspot.com/2022/07/moi-chuyen-bat-au-tu-mot-bai-tho-cua.html)

Xung quanh những sai lầm của việc đánh giá Nhất định thắng người viết bài này thấy có mấy diểm như sau:

Những người phê phán bài thơ luôn xuất phát từ thành kiến quá khứ coi tư tưởng tự do là phản động. Phê bình duy danh định nghĩa cắt bỏ toàn bộ văn bản bài thơ, chỉ lấy hai câu để bình luận. Quy chụp theo suy đoán của phía kẻ thù. Định kiến kéo dài nhiều thế hệ, trong đó có sự a dua a tòng, sự mù quáng, rập khuôn. Từ một câu thơ duy cảm trở thành một bản án chính trị, vu vơ mà sắt đá, mà vùi dập chết người. Màu cờ đỏ trong Nhất định thắng là một biểu tượng hiện thực vì nó còn có cả hệ thống bài, còn có biểu tượng Nắng lên đỏ phố, đỏ cờ… Nếu khắt khe hơn đó là biểu tượng nghiêm nhặt đối với hiện thực Hà Nội lúc đó nhưng quyết không phải là biểu tượng bôi đen, phản động. Bởi vì với những năm của thế kỷ 21 khi Hà Nội bị lạm dụng cờ biểu ngữ màu đỏ ngoài đường phố, nhiều hôm người tôi cũng có cảm giác giống Trần Dần.