Danh ngôn

Trong mọi cộng đồng, chúng ta cần một nhóm thiên thần gây rối.

We need, in every community, a group of angelic troublemakers.

(Bayard Rustin – trích bài phát biểu tại New York City 1963)

Trong mọi trường hợp, chắc chắn rằng sự thiếu hiểu biết, đi kèm với quyền lực, là kẻ thù tàn bạo nhất có thể có của công lý.

It is certain, in any case, that ignorance, allied with power, is the most ferocious enemy justice can have.

(James Baldwin - No Name in the Street 1972)

Các cuộc cách mạng và các cá nhân có thể bị giết hại, nhưng bạn không thể giết chết các ý tưởng.

While revolutionaries and individuals can be murdered, you cannot kill ideas.

(Thomas Sankara, một tuần trước khi bị ám sát, 1987)

Không có cảm giác nào cô đơn hơn việc bị chính đất nước mình trục xuất.

There's not a more lonely feeling than to be banished by my own country.

(Kiyo Sato – Kiyo’s Story 2009)

Ban Biên tập

Địa chỉ liên lạc:

1. Thơ

tho.vanviet.vd@gmail.com

2. Văn

vanviet.van14@gmail.com

3. Nghiên cứu Phê Bình

vanviet.ncpb@gmail.com

4. Vấn đề hôm nay

vanviet.vdhn1@gmail.com

5. Thư bạn đọc

vanviet.tbd14@gmail.com

6. Tư liệu

vanviet.tulieu@gmail.com

7. Văn học Miền Nam 54-75

vanhocmiennam5475@gmail.com

Tra cứu theo tên tác giả

Thứ Sáu, 8 tháng 12, 2023

Diễn từ Nobel: Một ngôn ngữ im lặng

Jon Fosse, https://www.nobelprize.org/prizes/literature/2023/fosse/lecture/

Bản dịch của Văn Việt

Jon Fosse trình bày diễn từ Nobel của mình ngày 7 tháng 12 năm 2023 tại Viện Hàn lâm Thụy Điển ở Stockholm. © Nobel Prize Outreach. Ảnh: Anna Svanberg.

 

Khi tôi học cấp hai, chuyện đó xảy ra không hề báo trước. Giáo viên yêu cầu tôi đọc to lên. Và không biết từ đâu, một nỗi sợ bất ngờ xâm chiếm đánh gục tôi. Giống như tôi đã biến tan vào trong nỗi sợ và tôi chỉ là nỗi sợ. Tôi đứng dậy chạy ra khỏi lớp.

Tôi thấy những cặp mắt mở to của bạn học và giáo viên nhìn theo mình.

Sau đó tôi cố gắng giải thích hành vi kỳ lạ của mình bằng lí do là tôi phải đi vệ sinh. Tôi có thể thấy trên khuôn mặt của những người nghe rằng họ không tin tôi. Và có lẽ họ nghĩ tôi đã phát điên, vâng, tôi đang dần trở nên điên loạn.

Nỗi sợ đọc to này bám riết tôi. Thời gian trôi qua, tôi mới có can đảm xin phép thầy cô cho phép đọc to, vì tôi rất sợ; có người tin và không hỏi nữa, có người cho rằng bằng cách này hay cách khác, tôi đang lừa họ.

Tôi đã học được điều gì đó quan trọng về con người từ trải nghiệm này.

Tôi đã học được nhiều điều khác.

Vâng, rất có thể có điều gì đó đã giúp tôi đứng đây và đọc to cho khán giả ngày hôm nay. Và bây giờ hầu như không có bất kỳ nỗi sợ nào nữa.

Tôi đã học được gì?

Theo một cách nào đó, như thể nỗi sợ đã tước đi ngôn ngữ của tôi và tôi phải lấy lại nó, có thể nói như vậy. Và nếu tôi làm điều đó, thì đó không phải do điều kiện của người nào khác ngoài chính tôi.

Tôi bắt đầu viết văn, những bài thơ ngắn, truyện ngắn của riêng mình.

Và tôi phát hiện ra rằng làm vậy mang lại cho tôi cảm giác an toàn, mang lại cho tôi cảm giác đối lập với nỗi sợ.

Theo một cách nào đó, tôi đã tìm thấy một nơi chốn trong tôi chỉ là của riêng tôi, và từ nơi đó tôi có thể viết ra những gì chỉ của riêng mình.

Bây giờ, khoảng năm mươi năm sau, tôi vẫn ngồi viết – và tôi vẫn viết từ chốn bí mật bên trong này, nơi mà thực lòng tôi không biết nhiều về điều gì khác ngoài sự tồn tại của nó.

Nhà thơ Na Uy Olav H. Hauge có viết một bài thơ trong đó ông so sánh hành động viết với việc trở thành một đứa trẻ, dựng những túp lều lá trong rừng, bò vào đó, thắp nến, ngồi và cảm thấy an toàn trong những tối mùa thu thăm thẳm.

Tôi nghĩ đây là một hình ảnh đẹp về cách tôi trải nghiệm hành động viết. Bây giờ – cũng như năm mươi năm trước.

Và tôi đã học được nhiều hơn, tôi học được rằng, ít nhất đối với tôi, có sự khác biệt lớn giữa ngôn ngữ nói và ngôn ngữ viết, hay giữa ngôn ngữ nói và ngôn ngữ văn chương.

Ngôn ngữ nói thường là một giao tiếp độc thoại mang thông điệp rằng điều gì đó phải như thế này hoặc như thế kia, hoặc đó là một giao tiếp tu từ mang thông điệp thuyết phục hay xác tín.

Ngôn ngữ văn chương không bao giờ như vậy – nó không mang tính thông tin, nó mang ý nghĩa khác hơn là giao tiếp, nó tồn tại riêng mình.

Và theo nghĩa đó, sáng tác văn chương hay và tất cả các loại thuyết giảng rõ ràng là tương phản nhau, cho dù thuyết giảng về tôn giáo hay chính trị hay bất cứ điều gì.

Vì sợ phải đọc to, tôi bước vào nỗi cô đơn mà ít hay nhiều là cuộc sống của một người sáng tác – và tôi đã ở lại đó kể từ bấy đến nay.

Tôi đã viết rất nhiều cả văn xuôi và kịch.

Và tất nhiên, đặc điểm của kịch là lời nói ở dạng viết, ở đó đối thoại, trò chuyện, hoặc thường nỗ lực để phát ngôn, và những gì có thể có của độc thoại, bao giờ cũng là một vũ trụ tưởng tượng, là một phần của cái gì đó không thông báo, nhưng nó tồn tại theo cách riêng.

Và khi nói đến văn xuôi, Mikhail Bakhtin đã đúng khi cho rằng phương thức biểu đạt, chính hành động kể chuyện, đều có hai giọng trong đó.

Nói một cách đơn giản: giọng của người nói, người viết và giọng của người được nói đến. Những giọng này thường trượt vào nhau đến mức không thể phân biệt đó là giọng của ai.

Chỉ đơn giản là trở thành một giọng kép – và tất nhiên đó cũng là một phần của vũ trụ sáng tác và logic bên trong nó.

Có thể nói, mỗi tác phẩm tôi viết đều có vũ trụ hư cấu riêng, thế giới riêng của nó. Một thế giới mới mẻ cho mỗi vở kịch, mỗi cuốn tiểu thuyết.

Nhưng một bài thơ hay, vì tôi cũng viết rất nhiều thơ, cũng là một vũ trụ riêng của nó – nó chủ yếu liên quan đến chính nó. Và rồi ai đó đọc nó có thể bước vào vũ trụ của bài thơ – vâng, nó giống một kiểu hiệp thông hơn là đối thoại.

Trên thực tế, điều này có lẽ đúng với mọi thứ tôi đã viết.

Có một điều chắc chắn là tôi chưa bao giờ viết để thể hiện bản thân, như người ta nói, mà chỉ để thoát khỏi chính mình.

Rằng cuối cùng tôi đã trở thành một nhà viết kịch – vâng, tôi có thể nói gì về điều đó?

Tôi viết tiểu thuyết, làm thơ và không hề có mong muốn viết cho sân khấu, nhưng qua thời gian, tôi đã viết bởi vì – như một phần của sáng kiến được nhà nước tài trợ để viết thêm nhiều vở kịch Na Uy mới – tôi đã được đề nghị, đối với tôi, một tác giả nghèo, một số tiền lớn để viết cảnh mở màn một vở kịch, và cuối cùng viết cả vở kịch, vở kịch đầu tiên và vẫn được trình diễn nhiều nhất của tôi, Someone Is Going to Come (Ai đó sẽ đến).

Lần đầu tiên tôi viết một vở kịch hóa ra lại là bất ngờ lớn nhất trong đời nhà văn của tôi. Bởi vì trong cả văn xuôi và thơ, tôi đã cố gắng viết những điều mà thông thường – bằng ngôn ngữ nói thông thường – không thể diễn tả bằng lời. Vâng đúng vậy. Tôi đã cố gắng bày tỏ điều không thể nói được, vốn được coi là lý do để trao giải Nobel cho tôi.

Trở lại câu nói nổi tiếng của Jacques Derrida, điều quan trọng nhất trong đời không thể nói, mà chỉ viết.

Vì vậy, tôi cố gắng đưa ngôn từ đến với lời nói im lặng.

Và khi tôi viết kịch, tôi có thể sử dụng lời nói lặng im, những con người lặng im, theo một cách hoàn toàn khác với văn xuôi và thơ. Tất cả những gì tôi phải làm là viết từ tạm dừng (pause), và lời nói im lặng sẽ ở đó. Và trong vở kịch của tôi, từ tạm dừng chắc chắn là từ quan trọng nhất và được sử dụng nhiều nhất – tạm dừng dài, tạm dừng ngắn hoặc chỉ tạm dừng.

Trong những khoảng dừng này có thể có rất nhiều hoặc rất ít. Điều gì đó không thể nói được, điều gì đó không muốn nói ra, hoặc tốt nhất là không nói gì cả.

Tuy nhiên, tôi khá chắc chắn rằng điều nói lên nhiều nhất qua những khoảng dừng là sự im lặng.

Trong văn xuôi của tôi, có lẽ tất cả những lần lặp lại đều có chức năng tương tự như những khoảng dừng trong kịch của tôi. Hoặc có lẽ đây là cách tôi nghĩ, rằng trong khi có lời nói im lặng trong các vở kịch, thì có một ngôn ngữ im lặng đằng sau ngôn ngữ viết trong tiểu thuyết, và nếu tôi muốn viết văn hay thì lời nói im lặng này cũng phải được biểu đạt, chẳng hạn trong Septology, đơn cử vài ví dụ đơn giản, cụ thể, chính ngôn ngữ im lặng này nói rằng Asle thứ nhất và Asle khác có thể là cùng một người, và toàn bộ cuốn tiểu thuyết dài, khoảng 1200 trang, có lẽ chỉ là một biểu đạt bằng văn viết của một người được trích ra bây giờ.

Nhưng một cách nói im lặng, hay một ngôn ngữ im lặng, chủ yếu nói lên tổng thể của một tác phẩm. Cho dù đó là một cuốn tiểu thuyết hay một vở kịch hay một sản phẩm sân khấu, bản thân các bộ phận không quan trọng bằng tổng thể, vốn cũng phải có trong từng chi tiết nhỏ nhất – hoặc có lẽ tôi dám nói về tinh thần tổng thể, một tinh thần nói theo một cách nào đó từ cả gần và xa.

Và bạn sẽ nghe thấy gì nếu bạn lắng nghe đủ kỹ?

Bạn nghe thấy sự im lặng ấy.

Và như người ta đã nói, chỉ trong im lặng bạn mới có thể nghe được giọng nói của Chúa.

Có thể.

Bây giờ quay trở lại mặt đất, tôi muốn đề cập đến một điều khác là việc viết kịch bản sân khấu đã mang lại gì cho tôi. Sáng tác là một nghề cô đơn, như tôi đã nói, và cô đơn là điều tốt – miễn là con đường quay trở lại với những người khác vẫn rộng mở, trích theo một bài thơ khác của Olav H. Hauge.

Và điều thu hút tôi khi lần đầu tiên tôi nhìn thấy tác phẩm mình viết được trình diễn trên sân khấu, vâng, điều đó hoàn toàn trái ngược với sự cô đơn, đó là sự đồng hành, vâng, để sáng tạo nghệ thuật thông qua việc chia sẻ nghệ thuật – nó mang lại cho tôi cảm giác hạnh phúc và an toàn lớn lao.

Cái nhìn sâu sắc này đã theo tôi kể từ đó, và tôi tin rằng nó đã đóng một vai trò quan trọng khiến tôi không chỉ kiên trì, với một tâm hồn bình yên, mà còn cảm thấy một loại hạnh phúc ngay cả từ những vở kịch tồi tệ của mình.

Sân khấu thực sự là một hoạt động lắng nghe rộng lớn – đạo diễn phải, hoặc ít nhất nên, lắng nghe văn bản, cách các diễn viên lắng nghe nó, nghe lẫn nhau và nghe đạo diễn cũng như cách khán giả lắng nghe toàn bộ buổi biểu diễn.

Và đối với tôi, hành động viết là để lắng nghe: khi tôi viết, tôi không bao giờ chuẩn bị, tôi không lên kế hoạch cho bất cứ điều gì, tôi tiến hành bằng cách lắng nghe.

Vì vậy, nếu tôi nên dùng một phép ẩn dụ cho hành động viết thì đó phải là sự lắng nghe.

Vậy nên, có lẽ không cần phải nói rằng việc viết gợi nhớ đến âm nhạc. Vào một thời điểm trong quá khứ, ở tuổi thiếu niên, tôi ít nhiều đã trực tiếp chuyển từ việc chỉ gắn bó với âm nhạc sang viết lách. Tôi thực sự đã ngừng hoàn toàn việc tự chơi nhạc và nghe nhạc, và bắt đầu viết, và trong sáng tác của mình, tôi đã cố gắng tạo ra điều gì đó giống với những gì tôi đã trải nghiệm khi chơi nhạc. Đó là những gì tôi đã làm lúc đó – và những gì tôi vẫn làm bây giờ.

Một điều nữa, có lẽ hơi lạ, là khi tôi viết, đến một lúc nào đó tôi luôn có cảm giác rằng văn bản đó đã được viết rồi, ở đâu đó ngoài kia chứ không phải bên trong tôi, và rằng tôi chỉ cần viết nó ra trước khi văn bản biến mất.

Thỉnh thoảng tôi có thể làm điều đó mà không cần thực hiện bất kỳ thay đổi nào, đôi khi tôi phải tìm kiếm văn bản bằng cách viết lại, cắt và chỉnh sửa, và cẩn thận cố gắng đưa ra văn bản đã được viết sẵn rồi.

Và tôi, người không muốn viết cho sân khấu, cuối cùng chỉ làm việc đó trong khoảng mười lăm năm. Và những vở kịch tôi viết thậm chí còn được trình diễn, vâng, qua thời gian, đã có rất nhiều vở kịch được trình diễn ở nhiều quốc gia.

Tôi vẫn không thể tin được điều đó.

Cuộc sống thật khó tin.

Cũng như tôi không thể tin được rằng giờ đây tôi đang đứng đây cố gắng nói vài lời ít nhiều hợp lý về việc viết là gì, kết nối với việc được trao giải Nobel Văn học.

Và việc tôi được trao giải, theo như tôi hiểu, có liên quan đến cả kịch và văn xuôi của tôi.

Sau nhiều năm hầu như chỉ viết kịch, tôi đột nhiên cảm thấy như thế là đủ, vâng, quá đủ, và tôi quyết định ngừng viết kịch.

Nhưng viết đã trở thành một thói quen và tôi không thể sống thiếu – có thể giống như Marguerite Duras, bạn có thể gọi nó là một căn bệnh – nên tôi quyết định quay trở lại nơi mọi chuyện bắt đầu, viết văn xuôi và các thể loại khác, mà tôi đã làm trong ít nhất một thập kỷ trước khi ra mắt với tư cách là một nhà viết kịch.

Đó là điều tôi đã làm trong mười lăm năm qua. Khi tôi bắt đầu nghiêm túc viết văn trở lại, tôi không chắc mình còn có thể làm được hay không. Tôi viết Trilogy trước tiên – và khi tôi được trao Giải thưởng Văn học của Hội đồng Bắc Âu cho cuốn tiểu thuyết đó, tôi coi đó như một sự xác nhận tuyệt vời rằng tôi cũng có điều gì đó để cống hiến với tư cách là một nhà văn văn xuôi.

Sau đó tôi viết Septology.

Và trong quá trình viết cuốn tiểu thuyết đó, tôi đã trải qua một đôi khoảnh khắc hạnh phúc nhất của mình với tư cách là một nhà văn, chẳng hạn như khi một Asle này tìm thấy một Asle khác đang nằm trên tuyết và nhờ đó đã cứu sống anh ta. Hoặc cái kết, khi Asle thứ nhất, nhân vật chính, bắt đầu cuộc hành trình cuối cùng của mình, trên một chiếc thuyền, một chiếc thuyền đánh cá cũ, cùng với Åsleik, người bạn thân nhất và duy nhất của anh, để đón Giáng sinh cùng em gái của Åsleik.

Tôi không có ý định viết một cuốn tiểu thuyết dài, nhưng cuốn tiểu thuyết ít nhiều tự nó viết ra, và nó trở thành một cuốn tiểu thuyết dài, và tôi viết nhiều phần trôi chảy đến mức mọi thứ đều ổn ngay lập tức.

Và tôi nghĩ đó là lúc tôi ở gần nhất với những gì mà bạn có thể gọi là hạnh phúc.

Toàn bộ Septology chứa đựng những ký ức về phần lớn các tác phẩm khác mà tôi đã viết, nhưng được nhìn dưới một góc độ khác. Việc không có một dấu chấm nào trong toàn bộ cuốn tiểu thuyết không phải là một phát minh. Tôi chỉ viết cuốn tiểu thuyết như vậy, một mạch, một mạch không cần dừng lại.

Tôi đã từng nói trong một cuộc phỏng vấn rằng viết là một kiểu cầu nguyện. Và tôi thấy xấu hổ khi nhìn thấy nó được in ra. Nhưng sau này tôi được an ủi phần nào khi đọc thấy Franz Kafka cũng đã nói tương tự. Vậy có thể vậy chứ – sau tất cả?

Những cuốn sách đầu tiên của tôi bị chê, nhưng tôi quyết định không nghe lời phê bình, tôi chỉ nên tin tưởng vào bản thân mình, vâng, kiên trì với sáng tác của mình. Và nếu tôi không làm vậy, vâng, thì tôi đã ngừng viết sau khi cuốn tiểu thuyết đầu tay, Raudt, svart (“Đỏ, Đen”) ra mắt bốn mươi năm trước.

Sau đó, tôi nhận được hầu hết là những đánh giá tốt và thậm chí tôi còn bắt đầu nhận được giải thưởng – và rồi tôi nghĩ rằng điều quan trọng là phải tiếp tục với logic tương tự, nếu tôi không lắng nghe những đánh giá không tốt, tôi cũng sẽ không để thành công ảnh hưởng đến mình, tôi sẽ bám chặt vào sáng tác của mình, bám chặt, bám chặt vào những gì tôi đã tạo ra.

Và tôi nghĩ đó là điều tôi đã làm được và tôi thực sự tin rằng mình sẽ tiếp tục làm vậy ngay cả sau khi đã nhận được giải Nobel.

Khi được thông báo tôi được trao giải Nobel Văn học, tôi nhận được rất nhiều email và lời chúc mừng, và tất nhiên là tôi rất vui, hầu hết những lời chúc đều đơn giản và vui vẻ, nhưng có người viết rằng họ đang hét lên vì vui sướng, có người lại cảm động rơi nước mắt. Điều đó thực sự làm tôi cảm động.

Có rất nhiều vụ tự tử trong sáng tác của tôi. Nhiều hơn những gì tôi muốn nghĩ tới. Tôi sợ rằng bằng cách này, tôi có thể đã góp phần hợp pháp hóa việc tự tử. Vì vậy, điều khiến tôi cảm động hơn hết là những người đã thẳng thắn viết rằng sáng tác của tôi đã đơn giản cứu mạng họ.

Ở một khía cạnh nào đó, tôi luôn biết rằng việc viết có thể cứu được mạng sống, có lẽ nó thậm chí còn cứu được cuộc đời của chính tôi. Và nếu sáng tác của tôi cũng có thể giúp cứu sống người khác thì không gì có thể khiến tôi hạnh phúc hơn.

Cảm ơn Viện Hàn lâm Thụy Điển đã trao cho tôi giải Nobel Văn học.

Và cảm ơn Chúa.

May-Brit Akerholt dịch ra tiếng Anh.