Danh ngôn

Trong mọi cộng đồng, chúng ta cần một nhóm thiên thần gây rối.

We need, in every community, a group of angelic troublemakers.

(Bayard Rustin – trích bài phát biểu tại New York City 1963)

Trong mọi trường hợp, chắc chắn rằng sự thiếu hiểu biết, đi kèm với quyền lực, là kẻ thù tàn bạo nhất có thể có của công lý.

It is certain, in any case, that ignorance, allied with power, is the most ferocious enemy justice can have.

(James Baldwin - No Name in the Street 1972)

Các cuộc cách mạng và các cá nhân có thể bị giết hại, nhưng bạn không thể giết chết các ý tưởng.

While revolutionaries and individuals can be murdered, you cannot kill ideas.

(Thomas Sankara, một tuần trước khi bị ám sát, 1987)

Không có cảm giác nào cô đơn hơn việc bị chính đất nước mình trục xuất.

There's not a more lonely feeling than to be banished by my own country.

(Kiyo Sato – Kiyo’s Story 2009)

Ban Biên tập

Địa chỉ liên lạc:

1. Thơ

tho.vanviet.vd@gmail.com

2. Văn

vanviet.van14@gmail.com

3. Nghiên cứu Phê Bình

vanviet.ncpb@gmail.com

4. Vấn đề hôm nay

vanviet.vdhn1@gmail.com

5. Thư bạn đọc

vanviet.tbd14@gmail.com

6. Tư liệu

vanviet.tulieu@gmail.com

7. Văn học Miền Nam 54-75

vanhocmiennam5475@gmail.com

Tra cứu theo tên tác giả

Chủ Nhật, 22 tháng 10, 2023

Năm bài thơ Louise Glück cho người mới làm quen

Dịp nhà thơ Louise Glück qua đời, người giữ mục bình Thơ trên báo The New York Times, Gregory Cowles, đã giới thiệu 5 bài thơ từ tập đầu đến tập cuối của tác giả để thể hiện phạm vi và sự tiến triển của thơ bà.

“Những người chưa quen đọc có thể cảm thấy Louise Glück như một nhà thơ làm ta e ngại hoặc lạnh lùng, phạm vi tham chiếu của bà cao cả và dường như riêng tư đến mức tác phẩm của bà có thể trở nên nghiêm khắc, khắc khổ… mà không nhận rõ sự sáng sủa bình thản và sự hóm hỉnh đùa cợt trong văn phong của bà”.

Louise Glück “dựa trên huyền thoại và thiên nhiên để khám phá các chủ đề về tình yêu và sự mất mát cũng như sự gắn kết có kỷ luật với thế giới, chỉ lạnh lùng theo phong cách của một ly martini ngon…

Thật không dễ dàng để lấy ra từng bài thơ từ các tập thơ của bà, vì Glück đặc biệt thành thạo trong việc hoài thai những chuỗi thơ có độ dài cả một cuốn sách – tốt nhất nên đọc từng tuyển tập của bà như một tổng thể, giống như một album Pink Floyd không dễ dàng tạo ra một đĩa đơn ăn khách”.

HOÀNG HƯNG chuyển tiếng Việt

013

Top of Form

Bottom of Form

Dịp nhà thơ Louise Glück qua đời, người giữ mục bình Thơ trên báo The New York Times, Gregory Cowles, đã giới thiệu 5 bài thơ từ tập đầu đến tập cuối của tác giả để thể hiện phạm vi và sự tiến triển của thơ bà.

“Những người chưa quen đọc có thể cảm thấy Louise Glück như một nhà thơ làm ta e ngại hoặc lạnh lùng, phạm vi tham chiếu của bà cao cả và dường như riêng tư đến mức tác phẩm của bà có thể trở nên nghiêm khắc, khắc khổ… mà không nhận rõ sự sáng sủa bình thản và sự hóm hỉnh đùa cợt trong văn phong của bà”.

Louise Glück “dựa trên huyền thoại và thiên nhiên để khám phá các chủ đề về tình yêu và sự mất mát cũng như sự gắn kết có kỷ luật với thế giới, chỉ lạnh lùng theo phong cách của một ly martini ngon…

Thật không dễ dàng để lấy ra từng bài thơ từ các tập thơ của bà, vì Glück đặc biệt thành thạo trong việc hoài thai những chuỗi thơ có độ dài cả một cuốn sách - tốt nhất nên đọc từng tuyển tập của bà như một tổng thể, giống như một album Pink Floyd không dễ dàng tạo ra một đĩa đơn ăn khách”.

HOÀNG HƯNG chuyển tiếng Việt

Early December in Croton-on-Hudson

Spiked sun. The Hudson’s

Whittled down by ice.

I hear the bone dice

Of blown gravel clicking. Bone-

pale, the recent snow

Fastens like fur to the river.

Standstill. We were leaving to deliver

Christmas presents when the tire blew

Last year. Above the dead valves pines pared

Down by a storm stood, limbs bared . . .

I want you.

 

Đầu tháng chạp ở làng Croton-trên-sông Hudson

 

Mặt trời nhọn hoắt. Dòng Hudson

Hẹp lại vì băng.

Tôi nghe tiếng xúc xắc xương

Lách cách sỏi chạy trong gió thổi. Tái nhợt

như xương, tuyết tươi

đóng trên sông như lông thú.

Đứng cứng. Chúng tôi ra khỏi nhà đi trao

Quà Giáng Sinh, thì vỏ xe nổ tung

Năm ngoái. Bên trên những cây thông chết bị lột

Trụi vì cơn bão, những chân thú phơi trần…

Em muốn anh.

 

Lời bình của G. Cowles: Bài thơ viết lúc tác giả đang ở giữa tuổi 20, “đung đưa giữa cái chết và ham muốn, cảm nhận như vẽ ra thế giới tự nhiên, chứng tỏ năng lực dựng cảnh của bà”… “mở đầu bằng cái chết và kết thúc với tính dục, đi con đường từ thiên nhiên đến tôn giáo và kết thúc bằng sự kết hợp của con người”.

 

 

 

Matins

I see it is with you as with the birches:

I am not to speak to you

in the personal way. Much

has passed between us. Or

was it always only

on the one side? I am

at fault, at fault, I asked you

to be human--I am no needier

than other people. But the absence

of all feeling, of the least

concern for me--I might as well go on

addressing the birches,

as in my former life: let them

do their worst, let them

bury me with the Romantics,

their pointed yellow leaves

falling and covering me.

 

 

Kinh nguyện sáng

 

 

Tôi thấy điều đó với ngài như với những cây bạch dương

Tôi không định nói với ngài

theo cách riêng tư. Giữa chúng ta

nhiều thứ đã qua rồi. Hoặc

chỉ luôn luôn

là một phía. Lỗi

tại tôi, lỗi tại tôi, tôi xin ngài

hãy là một con người – tôi không cầu gì hơn

người khác. Nhưng sao thiếu vắng

mọi cảm xúc, thiếu vắng

sự quan tâm nhỏ nhất cho tôi – Tôi cũng có thể tiếp tục

nói với những cây bạch dương,

như trong tiền kiếp mình: để chúng

làm những điều tệ nhất, để chúng

chôn tôi với các nhà Lãng mạn,

những chiếc lá nhọn vàng của chúng

rơi xuống phủ lên tôi.

 

Lời bình: Có 7 bài thơ mang tên “Kinh cầu nguyện buổi sáng” cũng như 10 bài mang tên “Kinh cầu nguyện buổi chiều” (Vespers) trong tập “Hoa diên vĩ dại” (The Wild Iris) đoạt giải Pulitzer năm 1992. Bài thơ này là nỗi khát mong một Thượng đế mà ta không chắc chắc. Lời thở than cầu nguyện như vọng lại câu đấm ngực “Lỗi tại tôi/lỗi tại tôi mọi đàng”. Bài thơ kết thúc bằng cái chết trong một hình ảnh nổi rõ, mang tính điện ảnh đặc trưng của nhà thơ thị giác.

 

 

Siren

 

I became a criminal when I fell in love.
Before that I was a waitress.

I didn’t want to go to Chicago with you.
I wanted to marry you, I wanted 
your wife to suffer.

I wanted her life to be like a play
in which all the parts are sad parts.

Does a good person
think this way?  I deserve

credit for my courage-

I sat in the dark on your front porch.
Everything was clear to me:

If your wife wouldn’t let you go
that proved she didn’t love you.
if she loved you
wouldn’t she want you to be happy?

I think now
if I felt less I would be
a better person.  I was 
a good waitress.
I could carry eight drinks.

I used to tell you my dreams.
Last night I saw a woman sitting in a dark bus-
in the dream, she’s weeping, the bus she’s on
is moving away.  With one hand
she’s waving; the other strokes
an egg carton full of babies.

The dream doesn’t rescue the maiden.

 

Nàng tiên cá

 

Em trở thành tội đồ khi phải lòng anh đấy.

Trước đó em là cô bé chạy bàn.

 

Em đã không muốn đi Chicago với anh.

Em muốn cưới anh, em muốn

vợ anh đau khổ.

 

Em muốn đời chị ta giống như vở kịch

mà mọi màn đều phải buồn đau.

 

Có người tốt nào

nghĩ theo kiểu ấy? Em đáng

được ghi nhận vì dũng cảm

 

 

Em ngồi trong tối cổng trước nhà anh

Mọi thứ với em sáng rõ:

 

Nếu vợ anh không để anh đi

thì chứng tỏ chị không yêu anh đó.

Nếu chị yêu anh

sao chị không muốn anh hạnh phúc?

 

 

Giờ đây em nghĩ

nếu mình bớt đa cảm, mình sẽ

là con người tốt hơn. Em đã là

cô bé chạy bàn rất giỏi.

Em bưng được tám ly nước một lần.

 

Em thường kể anh nghe mình mơ thấy những gì.

Đêm qua em mơ thấy một người đàn bà ngồi trên chiếc xe bus tối tăm

trong mơ, cô ta khóc, chiếc xe chạy đi. Một tay

cô vẫy vẫy; tay kia chọc chọc

một thùng giấy đầy bé bi.

 

Giấc mơ không cứu được cô gái chưa chồng.

 

Lời bình: Bài thơ này trong tập “Bãi chăn thả” (“Meadowlands”) 1996,  mượn từ thế giới phim “đen” để vẽ chân dung một người nữ trong tam giác ái tình. Tác giả luôn có tài của một nhà tiểu thuyết khi đưa các nhân vật vào thơ. Bài thơ cũng giúp ta hiểu cả tập thơ như những đoạn nhạc nền của sử thi “Odyssey” mà tập thơ lấy trong đó các nhân vật cổ mẫu. Theo nghĩa ấy, “Nàng tiên cá” đúng là Nàng Tiên Cá hát trên mỏm đá dụ dỗ các chàng trai. Và ta trở lại thế giới của huyền thoại và ham muốn mà tác giả viết nên như bậc thầy. Lần này, nó có giọng thật vui nhộn.  

 

Theory of Memory

 

Long, long ago, before I was a tormented artist, afflicted with longing yet
incapable of forming durable attachments, long before this, I was a glorious
ruler uniting all of a divided country—so I was told by the fortune-teller
who examined my palm. Great things, she said, are ahead of you, or perhaps
behind you; it is difficult to be sure. And yet, she added, what is the difference?
Right now you are a child holding hands with a fortune-teller. All the
rest is hypothesis and dream.

 

 

Lý thuyết về ký ức

 

Lâu, lâu rồi, trước khi là một nghệ sĩ bị giày vò, buồn vì thèm muốn mà không có khả năng tạo những gắn bó lâu bền, lâu rồi trước đó, tôi đã là một nhà cai trị vinh quang hợp nhất được cả một xứ sở rẽ chia – tôi được người xem tướng tay nói thế. Bà ta bảo những điều lớn lao ở trước mặt cậu, hay có thể sau lưng; khó mà nói chắc. Vả lại, bà nói thêm, có gì khác chứ? Ngay lúc này cậu là một đứa trẻ đang cầm tay người xem tướng. Còn lại chỉ là giả thuyết và mộng mơ.

 

 

Lời bình: Tập thơ “Đêm chung thuỷ và đức hạnh” (“Faithful and Virtuous Night”) 2014,  đoạt giải Sách Quốc gia, nói rõ về các đề tài cái chết và nghệ thuật, và tiếp tục rời xa những bài thơ mang tính tự thú đầu đời đến một thế giới mang tính tưởng tượng và tiểu thuyết hơn, trong tập này được tập trung vào một nhân vật là người hoạ sĩ lúc cuối đời. Hình thức thơ cũng đa dạng hơn, với những bài thơ dài, câu thơ dài và thơ văn xuôi mang tính thiền.

 

 

 

 

Song

Leo Cruz makes the most beautiful white bowls;
I think I must get some to you
but how is the question
in these times

He is teaching me
the names of the desert grasses;
I have a book
since to see the grasses is impossible

Leo thinks the things man makes
are more beautiful
than what exists in nature

and I say no.
And Leo says
wait and see.

We make plans
to walk the trails together.
When, I ask him,
when? Never again:
that is what we do not say.

He is teaching me
to live in imagination:

a cold wind
blows as I cross the desert;
I can see his house in the distance;
smoke is coming from the chimney

That is the kiln, I think;
only Leo makes porcelain in the desert

Ah, he says, you are dreaming again

And I say then I’m glad I dream
the fire is still alive

Published in the print edition of the October 19, 2020,

 

 

 

Bài hát

 

Leo Cruz làm ra những chiếc bát màu trắng đẹp nhất;

Tôi nghĩ mình phải lấy một chiếc cho anh

nhưng hỏi thế nào đây nhỉ

trong những lần này

 

Ông dạy tôi

tên các loài cỏ hoang mạc;

Tôi có một cuốn sách

vì không thể nào nhìn thấy cỏ hoang

 

Leo nghĩ rằng những thứ con người làm ra

thì đẹp hơn

những gì trong tự nhiên tồn tại

 

và tôi nói không đúng.

Và Leo nói

hãy đợi mà coi.

 

Chúng tôi lên kế hoạch

cùng nhau đi bộ những nẻo đường mòn

Bao giờ, tôi hỏi

bao giờ? Lại chẳng bao giờ:

đó là điều chúng tôi chẳng nói.

 

Ông dạy tôi

sống trong tưởng tượng:

 

một cơn gió lạnh

thổi khi tôi băng qua hoang mạc;

Tôi có thể thấy ngôi nhà ông ở đằng xa;

khói lên từ ống khói

 

Đó là lò gốm, tôi nghĩ thế;

làm gốm trong hoang mạc chỉ có Leo

 

Ồ, ông nói, bà lại mơ mộng rồi

 

Và tôi bèn nói tôi vui vì mơ thấy

ngọn lửa vẫn sống đấy thôi

 

Lời bình: Đây là bài thơ cuối trong tập thơ cuối “Các bí quyết mùa đông từ cái của tập thể”(“Winter Recipes From the Collective”), một tập thơ tiết giản và bị ám ảnh bởi cái chết, chỉ có 15 bài, ra mắt năm 2021, một năm sau Giải Nobel. Lại những bận tâm tập trung về nghệ thuật và cái chết, và bài thơ này là cuộc trò chuyện giữa tác giả ốm yếu với người bạn Leo làm gốm. Có một vị khắc khổ và giọng khóc thương; nhưng cũng có gì như hy vọng trong đó ta thấy nỗi khát khao Thượng đế ban đầu trở thành lòng ham muốn sự lâu bền của nghệ thuật.    

 

IMG_81383

Lá thư tác giả gửi Hoàng Hưng cho phép in bản dịch thơ bà ở Việt Nam.