Danh ngôn

Trong mọi cộng đồng, chúng ta cần một nhóm thiên thần gây rối.

We need, in every community, a group of angelic troublemakers.

(Bayard Rustin – trích bài phát biểu tại New York City 1963)

Trong mọi trường hợp, chắc chắn rằng sự thiếu hiểu biết, đi kèm với quyền lực, là kẻ thù tàn bạo nhất có thể có của công lý.

It is certain, in any case, that ignorance, allied with power, is the most ferocious enemy justice can have.

(James Baldwin - No Name in the Street 1972)

Các cuộc cách mạng và các cá nhân có thể bị giết hại, nhưng bạn không thể giết chết các ý tưởng.

While revolutionaries and individuals can be murdered, you cannot kill ideas.

(Thomas Sankara, một tuần trước khi bị ám sát, 1987)

Không có cảm giác nào cô đơn hơn việc bị chính đất nước mình trục xuất.

There's not a more lonely feeling than to be banished by my own country.

(Kiyo Sato – Kiyo’s Story 2009)

Ban Biên tập

Địa chỉ liên lạc:

1. Thơ

tho.vanviet.vd@gmail.com

2. Văn

vanviet.van14@gmail.com

3. Nghiên cứu Phê Bình

vanviet.ncpb@gmail.com

4. Vấn đề hôm nay

vanviet.vdhn1@gmail.com

5. Thư bạn đọc

vanviet.tbd14@gmail.com

6. Tư liệu

vanviet.tulieu@gmail.com

7. Văn học Miền Nam 54-75

vanhocmiennam5475@gmail.com

Tra cứu theo tên tác giả

Thứ Bảy, 6 tháng 5, 2023

Vấn đề trung tâm và ngoại vi, một cái nhìn sòng phẳng (Thử xét qua ba giọng thơ nữ thuộc ba vùng miền khác nhau)

Inrasara

1. Sự chia ranh vô hình giữa trung tâm và ngoại vi tồn tại ở nhiều phương diện, lĩnh vực trong đó có văn học: Giữa trung tâm văn hóa lớn và tỉnh lẻ, nam/ nữ, dân tộc thiểu số/ dân tộc đa số. Đó là sự phân ranh giả tạo và phản tiến bộ. Thực tế vài chục năm qua, không ít tác giả vô danh từ tỉnh lẻ xuất hiện lừng lững trên văn đàn, và đã tạo được tiếng nói đầy sức nặng, ở đó không ít tác giả xuất phát điểm là nông dân, bộ đội, cây bút từ miền sâu vùng xa. Cả nhà văn nhà thơ dân tộc thiểu số Việt Nam, họ vẫn có những đóng góp tiếng nói độc đáo trên văn đàn cả nước.

Dẫu sao chưa nhiều tác giả dân tộc thiểu số Việt Nam thật sáng giá. Vài nguyên nhân chính: Nhà văn dân tộc thiểu số ít tiếp cận với cái mới, đa phần vẫn viết theo lối cũ, thiếu sự dũng cảm cần thiết động toàn diện cập đến các vấn đề trọng yếu đụng đến thân phận cộng đồng. Chúng ta chưa thật sự dấn thân vào cộng đồng để có thể hiểu cuộc sống thực của dân tộc, đôi khi còn khá quan cách. Nhà văn dân tộc thiểu số chưa biết/ dám tư duy độc lập, mà cứ tư duy theo mô thức định sẵn, thì hiếm khi bật ra sự khai phá mang tính sáng tạo lớn. Và cuối cùng, nguyên nhân thứ năm, vấn đề tài năng và sự đam mê nghề nghiệp.

2. Nhìn toàn cảnh, văn học dân tộc thiểu số Việt Nam 20 năm qua đã có những bước chuyển rõ rệt, cả ở tự thân lẫn nhìn nhận từ phía công chúng.

Về thơ, các tác giả thế hệ trước vẫn viết đều đặn, vẫn cho ra đời tác phẩm ngày càng chín hơn. Lò Ngân Sủn, Y Phương, Mai Liễu, Dương Thuấn… Hữu Tiến từ văn xuôi chuyển sang thơ, năm 2008 cũng kịp cho ra đời một tập thơ đặc sắc. Thế hệ chuyển tiếp có Lò Cao Nhum, Dương Khâu Luông, Ngọc Minh… Thế hệ mới, bên cạnh Bùi Tuyết Mai ở miền Bắc, Hoàng Thanh Hương ở Tây Nguyên là hàng loạt tác giả Chăm xuất hiện qua Tuyển tập Tagalau, đã hình thành giọng điệu riêng, độc đáo. Đây là các khuôn mặt hoàn toàn mới, mang cảm thức mới, có lối viết rất khác và khác cả cách xuất hiện: họ không chọn cách in truyền thống mà đăng các sáng tác lên mang toàn cầu hay blog cá nhân. Trà Vigia, Jalau Anưk, hai tập thơ của Tuệ Nguyên (Những giấc mơ đa chiều) lẫn của Đồng Chuông Tử (Mùi thơm của im lặng) đều lọt vào chung khảo Giải thưởng thơ Bách Việt năm 2009, là tín hiệu sáng sủa.

Nhìn qua mảng văn xuôi, dễ nhận thấy có vài biến chuyển tích cực với tác phẩm dài hơi như Đàn trời của Cao Duy Sơn, tập truyện ngắn của Niê Thanh Mai hay Bùi Như Lan. Chăm có Trà Vigia với tập truyện Chăm H’ri độc đáo. Năm 2008, tập truyện ngắn Ngôi nhà xưa bên suối của Cao Duy Sơn đoạt Giải thưởng Hội Nhà văn Việt Nam, sau đó – Đông Nam Á, tạo một dấu ấn đáng kể. Sự kiện này còn ghi nhận sự đánh giá tích cực của độc giả cả nước về sáng tác của các tác giả dân tộc thiểu số.

Riêng lí luận - phê bình, Inrasara sau Chưa đủ cô đơn cho sáng tạo (2006) là Song thoại với cái mới (2008), rồi năm 2014 cho ra đời liên tiếp ba cuốn lí luận, phê bình: Thơ Việt, hành trình chuyển hướng say, Nhập cuộc về hướng mở, và Thơ nữ trong hành trình cắt đuôi hậu tố ‘nữ’. Tất cả góp phần vào thể loại vốn cần đầu tư nhiều công sức này. Inrasara còn là cây viết phê bình dấn mình vào trào lưu thơ hậu hiện đại đang là điểm nóng của văn đàn cả nước mươi năm qua.

Như vậy, từ thơ đến văn xuôi, từ sáng tác cho đến phê bình, văn học dân tộc thiểu số Việt Nam đã tiến một bước mạnh về phía trước. Sự kiện được ghi nhận từ phía công chúng độc giả cũng như các tổ chức chuyên ngành.

3. Thơ, thể loại được xem là thế mạnh của văn học dân tộc thiểu số Việt Nam sau 1975. Thử nhìn lướt qua ba giọng thơ nữ thuộc ba dân tộc ở ba vùng miền khác nhau.

Hoàng Thanh Hương, nhà thơ nữ dân tộc Mường vào sống đất Tây Nguyên. Các đoạn thơ tình như: “Thả vào đêm nỗi buồn/ … Nhưng càng quên nỗi nhớ lại càng đầy. Hay: “Tháng bảy trời ngâu/ chẳng còn mong bầy chim bắc cầu Ô Thước/ … Tím rợp chiều cỏ đắng đồng xa”… vẫn chưa rời bỏ sến! Mấy bài như thế lẽ ra chỉ cần vài câu đã đủ, nhưng tác giả cứ kéo dài ra. Trong khi chịu ngắn, thơ tình Hoàng Thanh Hương vẫn rất đáng đọc:

Thì cứ mặc mùa mưa

Lê thê kéo qua ngày chẵn lẻ

Mình có hẹn ai đâu mà sợ trễ

Thèm một bàn tay kéo cánh cửa gầy.

Hay khi nhà thơ chịu rời bỏ sự quen tay dễ dãi, để ngẫu hứng ghi nhanh cảm nghĩ thật của mình, không cần kì khu câu chữ, cho dẫu không “hay” nhưng thơ có một điều gì đó dễ cảm với người đọc:

Hằng ngày ta chăm chút cuộc sống của mình

bằng những nụ cười

bằng sự bằng lòng với những gì đang có

bằng những sẻ chia có thể

bằng tình yêu dành trọn vẹn cho người

và thôi nghĩ về những thứ xa vời.

(“Bão đêm”)

Đơn giản vậy thôi. Đó mới đích thực là giọng thơ Hoàng Thanh Hương. Thanh Hương với Tượng mồ ngồi lặng câm/ Bóng chiều lay lắt. Và tượng mồ ngồi nhớ/ nhớ một người hoá gió/ bay về đỉnh Chư Hdrung… Cuối cùng là Hoàng Thanh Hương trọn vẹn hơn với “Buôn xa”:

Buôn xa

em gùi gió mưa về

hoang dại chiều ơi tóc nâu mắt nâu

gót trần cỏ cứa

dã quỳ tàn trong gió

thảng thốt tiếng chim kêu bầy

thảng thốt tiếng gió lạc

bên tai vấn vít lời ướm hỏi

em chưa muốn bắt anh về

gầm sàn nhà em chưa đầy củi

áo chăn em dệt chưa nhiều

em chưa thuộc hết lời amí dạy

người có thương em thì đợi.

Buôn xa

khói nhà sàn xòe hoa

khói thơm mùi ngô non

khói thơm mùi mía già

khói giục bước chân em thoăn thoắt

tiếng chiêng ngân nga

tiếng chiêng gọi người đi xa

nhớ kịp về mùa cơm mới.

Buôn xa

gót trần cỏ cứa

mưa mù giăng giăng

em gùi cả gió mưa về

chiều ơi chiều hoang dại

ướt cả vào giấc ngủ

tóc nâu

mắt nâu...

buôn xa.

Lưu Thị Bạch Liễu dân tộc Việt sống vùng đồng bào dân tộc thiểu số với tập thơ Sông Cầu đang chảy đâu đây, giẫm phải thứ sến khác. Hơn mươi bài thuộc môtip hoài cảm, cảm tác đã bị khai thác cạn kiệt suốt thời quá khứ, xa và gần... dễ tạo nhàm chán. Những “Mưa tháng Giêng”, “Tháng ba”, “Tháng tư trời hửng” rồi thì “Ban mai mùa hạ”, “Du xuân” hay “Xoan đào”… đã quá cũ. Cũ từ tứ thơ cho đến ngôn từ hay cảm thức; cũ và đầy mòn sáo gây loãng cho cả tập thơ. Mà đâu riêng nhà thơ nữ đất Thái Nguyên này! Rất nhiều nhà thơ Việt Nam đã làm thế: Gom vài chục bài thơ lại thành tập non trăm trang, rồi kêu đó là tập thơ. Hiếm người chủ ý làm một tập thơ như là một tập thơ, với một ý niệm xuyên suốt.

Như ý niệm về hình ảnh sông Cầu đang chảy xuyên suốt một phần ba tập thơ, ta bắt gặp một Bạch Liễu đích thực. Sông Cầu là tên con sông quê hương mang tính địa lí:

Phải rầm rì sông Cầu đang chảy

Hay Then đang cùng Tính về trời

Chợ Tam Quang hai người đến muộn

Lạc dọc đường vơ vất mảnh hồn trôi.

Sông Cầu vẫn biến thể và biến thiên qua vô vàn sắc thái. Ở đó nó mang chứa cả đời sống và tâm cảm của con người, con người với tình yêu lứa đôi, tình bằng hữu, tình mẹ con, tình họ hàng lối xóm… Sông Cầu chảy trôi cùng với tên người, tên đất: Bắc Cạn, Cư Lễ, Lam Vỹ, Na Hang, Hà Giang, Tam Quang… Sông Cầu có:

Con gái Tày khi yêu

Được trai Tày tặng phẻn dao làm từ cây vỏ đỏ

Lúc ra suối, lúc lên nương

Đều như có người yêu ở sát bên mình.

Với đời sống mấy chục tộc người thiểu số cùng bao nhiêu phong tục tập quán đầy bản sắc độc đáo: rượu ngô thơm lừng, câu hát sli, lượn xuống chợ, cầu thang chín bậc cùng thác xối, trăng rơi… Sông Cầu hiện hữu nơi sâu thẳm tâm khảm Bạch Liễu, nên dẫu lang bạt đâu bất kì, nhà thơ vẫn nghe sông Cầu chảy. Có khi sông Cầu cùng nhà thơ “trôi cùng đêm”, đêm cô độc tha hương:

Thèm một người ngồi bên

Ngắm cà phê với em

Cùng nhấp dòng sông Cầu đang chảy

Thèm người ấy ngồi bên

Hát cho em nghe

Bài ca của riêng đàn ông xứ núi…

Nhưng khi “sông nhìn tôi nhìn sông”, thì tất cả mọi ưu sầu vong bặt. Những lúc tôi bị cắt đứt khỏi cuống rốn quê hương, khi tôi bị bỏ rơi hay khi con sông cạn kiệt hoặc cả lúc con sông chết, tôi vẫn có sông Cầu làm bạn, tâm sự rì rầm cùng tôi. Sông Cầu cứ chảy, chảy mải miết:

Không còn nỗi đớn đau

… Không còn nỗi trống rỗng

của hàng bằng lăng trút cánh tím như ngàn cơn mưa đổ

rung cành không.

Tôi nhìn những xoáy nước sâu dưới hiền hoà mặt sông

Không biết sông làm thế nào mà vẫn chảy?

Nhà thơ và con sông quê hương, nhà thơ gắn chặt cùng con sông quê hương với bao nỗi niềm, sự thể đã xảy ra trong thơ Việt Nam từ lâu lắm. Trần Tế Xương, Tản Đà hay mới đây: Nguyễn Quang Thiều với sông Đáy. Nếu ở Tú Xương là sự hoài cảm hướng vọng qua khứ vời xa buồn man mác, ở Nguyễn Quang Thiều là sự dữ dội, quyết liệt nuôi nấng hình ảnh một hoài vọng ở thì tương lai thì ở đây, sông Cầu với Lưu Thị Bạch Liễu là sự giao cảm hòa chan cùng đời sống hiện tại. Vuốt ve và xoa dịu nỗi buồn thân phân, nhẹ nhàng.

Buôn, làng hay palei, tiếng thơ người dân tộc thiểu số và miền núi luôn gắn kết với quê hương. Mỗi người mỗi vẻ. Làm tha hương tới đâu, họ vẫn nặng lòng với quê nhà. Ai mà chẳng thế! Nhưng sự nặng lòng ấy ở người thơ dân tộc thiểu số phía Bắc khác xa vực thẳm với các thi sĩ Cham.

Kiều Maily ở đất nắng Phan Rang khá tiêu biểu. Nếu ở người kia, vẫn còn đó sự hoài cổ, từ tâm trạng cho đến giọng thơ. Nó man mác buồn mà vẫn chắc nịch cái biết về nỗi hoài nhớ kia của mình. Thì trong này, tình tự quê hương mơ hồ và lửng lơ khó nắm bắt, nó da diết như thể xảy đến đột ngột nên rất dễ vỡ. Nỗi nhớ mang ở tự thân nguy cơ làm vong thân, bật gốc.

Khúc dân ca đầu hôm ai bỏ dở nửa chừng

âm vang lửng lơ trong gió

làm thức giấc mơ hoang

… Gác trọ Sài Gòn ai hát khúc Thei mai

hồn người như mộng vỡ.

(“Khúc Thei mai giữa Sài Gòn”)

Rồi khi trở về trong vòng tay quê hương, vẫn tâm cảm đó có mặt. Về quê mà như chưa về, như thể đó không phải quê hương thực của ta như ta từng biết. Quê hương làm hoang mang và xa lạ, qua đó người thơ cảm nhận những biến động vi tế nhất của đất trời từng nuôi nấng tuổi thơ mình:

Con chó nhà láng diềng không buồn sủa

dòng mương như chậm hơn

đựng lũ trâu nằm lì dầm nước

bên bờ loài hoa nở muộn mới ra ràng chợt úa

rũ mình trong trưa

… Tiếng reo mừng người về từ nhà xa vang lại

xé một vệt không gian im

rồi vắng lặng

(“Palei ngày về’)

Điều làm nên khác biệt lớn, chính là lối tư duy từ truyền thống của mỗi dân tộc. Thống nhất mà đa dạng, là vậy. Kiều Maily phức hợp và đa tầng, đòi hỏi ở người đọc nhiều liên tưởng hơn.

Mương Cái xuôi về palei em

Mương Đực đổ qua làng anh

cả hai chảy tan vào biển

Tìm nhau

dòng nước phải ngược lên nguồn suối

Anh dám mang phần số loài cá hồi không?

cùng em, ngược về nguồn cội

tìm nhau

Vượt ngàn dòng dữ hay lách trăm vách đá ngầm

ta cùng ngược

cho ngày mai con cháu ta băng băng biển lớn

vẫn còn nhớ về nguồi suối

tìm nhau…

(“Mương Đực - Mương Cái”)

Ở đây, vẫn có “suối”, “mương”, “biển”… nhưng chúng đã khác. Anh dám mang phần số loài cá hồi không? là câu hỏi mang ở tự thân tinh thần nữ quyền trong thời đại toàn cầu hóa. Đó chính là sự khác biệt. Mà giá trị nghệ thuật là gì, nếu không phải tạo nên mấy khác biệt? Giữa các nền văn hóa, giữa thế hệ, và gần hơn – giữa mỗi nghệ sĩ.

Thơ dân tộc thiểu số thế hệ này tiếp nối thế hệ khác bật lên những tên tuổi sáng giá: Lò Ngân Sủn, Y Phương, Pờ Sào Mìn, Dương Thuấn, Mai Liễu… nay có thêm khuôn mặt mới: Hoàng Chiến Thắng, Tuệ Nguyên, Hoàng Thanh Hương, Kiều Maily… để làm nên một nền thơ đầy bản sắc trong vườn thơ Việt Nam hôm nay.

Chakleng, 12-2022

____________

Tham khảo

Hoàng Thanh Hương, Lời cầu hôn của rừng (NXB Hội Nhà văn, 2008.

Lưu Thị Bạch Liễu, Sông Cầu đang chảy đâu đây, NXB Quân đội Nhân dân, 2009. Kiều Maily, Giữa hai khoảng trống, NXB Thanh niên, 2013.