Danh ngôn

Trong mọi cộng đồng, chúng ta cần một nhóm thiên thần gây rối.

We need, in every community, a group of angelic troublemakers.

(Bayard Rustin – trích bài phát biểu tại New York City 1963)

Trong mọi trường hợp, chắc chắn rằng sự thiếu hiểu biết, đi kèm với quyền lực, là kẻ thù tàn bạo nhất có thể có của công lý.

It is certain, in any case, that ignorance, allied with power, is the most ferocious enemy justice can have.

(James Baldwin - No Name in the Street 1972)

Các cuộc cách mạng và các cá nhân có thể bị giết hại, nhưng bạn không thể giết chết các ý tưởng.

While revolutionaries and individuals can be murdered, you cannot kill ideas.

(Thomas Sankara, một tuần trước khi bị ám sát, 1987)

Không có cảm giác nào cô đơn hơn việc bị chính đất nước mình trục xuất.

There's not a more lonely feeling than to be banished by my own country.

(Kiyo Sato – Kiyo’s Story 2009)

Ban Biên tập

Địa chỉ liên lạc:

1. Thơ

tho.vanviet.vd@gmail.com

2. Văn

vanviet.van14@gmail.com

3. Nghiên cứu Phê Bình

vanviet.ncpb@gmail.com

4. Vấn đề hôm nay

vanviet.vdhn1@gmail.com

5. Thư bạn đọc

vanviet.tbd14@gmail.com

6. Tư liệu

vanviet.tulieu@gmail.com

7. Văn học Miền Nam 54-75

vanhocmiennam5475@gmail.com

Tra cứu theo tên tác giả

Thứ Năm, 24 tháng 11, 2022

Người ráp Babel

Truyện Ngu Yên

(Trích trong truyện tranh luận Cuốn Hai: Hẻm Gián)

Bà đang biến một khao khát thành hiện thực. Xây dựng một công trình bằng vật liệu sương khói nhất với mục đích trở thành thứ gì vững chắc nhất.

Thứ gì mong manh nhất? Thứ gì vững chắc nhất? Ai có thể nói là thứ gì? Để nâng cao thiết kế lên, tuần trước bà đã ráp một mảnh lớn bằng bức tường vào bên dưới. Tuần này, bà ráp ba, bốn mảnh lớn khác bằng khoảng bề mặt của một bàn ăn bốn người vào bên trái, để đưa thiết kế dài ra sau vườn. Bây giờ, ngồi ráp từng mảnh nhỏ, có mảnh nhỏ đến độ phải nhìn qua kính lúp mới thấy rõ. Đục, đẽo, cắt, dán, đóng đinh, cưa, mài, xây xi măng, cột dây kẽm, căng dây cáp… bà làm việc như một nửa đàn ông. Dự án này chưa hoàn tất. Chính bà cũng cảm nhận minh bạch, sẽ không bao giờ chấm dứt, nhưng vẫn hy vọng sẽ làm xong một phần nào ước nguyện trước khi chết.

Chồng qua đời sớm. Con làm kinh doanh phương xa. Mỗi ngày sống góa phụ độc thân nghĩa là phải đối phó với tâm tư trống vắng và thân xác đòi hỏi. Nếu muốn cho thời gian ngắn lại, phải làm thời gian đó có ý nghĩa, dù có thể biết ý nghĩa đó vốn vô nghĩa.

Sự đòi hỏi càng mạnh mẽ khi nó biết được thân xác đang trên đường héo hon. Chính sức đòi hỏi làm cho sự cô đơn mờ dần khả năng cao kỳ và sử dụng thời giờ vào việc thỏa mãn vật chất. Tuy nhiên, những ai biết sử dụng phần sức mạnh cao kỳ của cô đơn vào thời giờ có mục đích, sẽ tạo ra những thứ gì có giá trị.

Có nhiều loại buồn khác nhau. Mỗi người có một số nỗi buồn, nhưng bà có một loại buồn bao gồm hết các loại buồn. Một thứ buồn không còn phân biệt nguồn gốc, lý do, đối tượng, giống như nước trong đại dương, dù sông, suối, mưa trời đổ nước ngọt vào, biển vẫn mặn. Loại buồn không có tên gọi, đó là sự thiếu sót của ngôn ngữ. Hôm đó, bà ngã xuống, nằm lăn trên đất, đau đớn, may mà không gãy xương. Lúc bấy giờ, vừa làm xong một dàn dựng nghệ thuật khá công phu, có triển vọng sẽ lớn lên theo thời gian. Mất gần năm năm để kế hoạch và thực hiện. Khi làm xong, bà đã để nó nằm im một chỗ trong vài tháng để nhìn ngắm, theo dõi, cố tìm những gì khiến cho bà không hài lòng. Bà sẵn sàng phá hủy hết nếu nhận ra nó chưa đủ tiêu chuẩn, để bắt đầu trở lại. Đêm khuya hay rạng sáng, suy nghĩ về nó như tìm tòi về một con bệnh đã hồi phục đang chờ đi vào đời sống bình thường hoặc như con bệnh cần phải điều trị thêm. Mỗi chứng bệnh đòi hỏi sự chữa chạy khác nhau. Cuối cùng, một tác phẩm nghệ thuật tắt thở là điều đáng buồn và tổn thương sáng tạo.

Ai biết nghệ thuật là gì? Có lẽ, đừng nói từ ngữ nghệ thuật vì hầu hết mọi người không mấy quan tâm về nó. Chỉ là một khẩu hiệu, bảng hiệu, bình phong, cái cớ… khi người ta cần sử dụng. Nghệ thuật là một thứ gì có thì dùng, không có thì thôi, đối với đa số người, kể cả những người nghĩ rằng họ biết về nghệ thuật.

Hãy nói về cái hay, cái đẹp, cái thông minh, cái thích thú, cái hài lòng, mà chúng ta hít thở, khen ngợi hàng ngày, cái đó là thứ gì? Nghệ thuật, chớ còn gì nữa. Đa số chúng ta sống ăn nằm với nghệ thuật suốt kiếp mà tưởng là thứ gì khác. Thành thử, không xem trọng nghệ thuật.

Sau một thời gian chiêm nghiệm, bà xác định, cái dàn dựng này có giá trị. Bà bắc thang, leo lên khá cao, quá khỏi mái nhà, để đóng đinh phần dàn dựng vào công trình chính.

Khi Thượng Đế ráp cánh tay vào cơ thể con người, không phải là chuyện đơn giản và ngẫu nhiên. Đây là sự cân nhắc, tính toán chính xác cho tương lai với mọi hành động, tác dụng của nó. Tại sao không ráp tay ở eo hay trước bụng? Nếu hai cánh tay gắn hai bên tai thì sao? Không. Phức tạp lắm. Có lẽ dù thần thánh, Thượng Đế cũng mất thời gian suy nghĩ và thí nghiệm nơi những con thú vật.

Cứ tưởng tượng, những bộ phận trên cơ thể con người nằm khác những chỗ đang sử dụng, đời sống sẽ ra sao? Có phải sẽ rất khôi hài khi hai cái vú mọc ở đầu gối? Ráp cái này vào cái kia, đòi hỏi ý nghĩa và nghệ thuật. Ý nghĩa dở, đồ ráp ngu xuẩn. Nghệ thuật kém, đồ ráp rẻ tiền. Ráp vợ chồng vào nhau cũng vậy. Ráp bạn bè vào nhau cũng vậy. Ráp bản thân vào xã hội cũng vậy. Có nhiều chuyện trong đời không vừa ý, vì ráp trật. Có những thảm họa xảy ra vì ráp sai. Có những thứ luôn luôn trục trặc, vì ráp lỗi. Vì ráp bừa bãi, ráp lơ là, hoặc không biết ráp… cuộc đời trở thành bất đắc chí, bi quan.

Đóng đinh thì dễ, đóng đinh nghệ thuật rất khó. Tính toán, cân nhắc, thận trọng, từ tốn, lâu lâu mới đóng được một cây đinh. Đến cây đinh thứ chín, bà túa mồ hôi như vừa trồi khỏi mặt nước. Từng đợt nhức đầu búa xuống, mắt mờ, rồi đột nhiên, thấy mình nằm lăn trên đất. Đau không muốn nhúc nhích.

Bắt đầu từ lúc còn nhỏ, ba má bà đã tạo ra những gốc rễ và ảnh hưởng toàn bộ khi cây mọc lên, nở hoa sinh trái. Má dạy bà ráp hình. Những tấm hình thú vật, quang cảnh, người ta, được cắt ra từng mảnh nhỏ, trộn lẫn, cho vào hộp. Mua về, đêm đêm hoặc cuối tuần hai mẹ con chăm chú ráp từng mảnh vụn vào đúng chỗ để trở thành nguyên một hình lớn. Một trò chơi lý thú, bao gồm nhận xét, chọn lựa, suy nghĩ, nhạy cảm, và kế hoạch; ghê gớm nhất là kiên nhẫn. Không đủ kiên nhẫn, khó làm nên việc gì có giá trị. Lúc nhỏ, ráp mảnh lớn. Càng lớn, ráp mảnh càng nhỏ. Có hộp chứa 10.000 mảnh. Ráp cả tháng trường, ráp ngày ráp đêm chưa chắc đã xong. Ông Napoleon đánh giá khả năng kiên nhẫn rất cao, nó tạo ra thiên tài.

Ba dạy bà ráp vần thành chữ. Những ô ngang ô dọc quấn quít đan vào nhau, trong những ô đã có sẵn một số vần, những ô trống để người chơi ráp vần vào thành từ vựng có ý nghĩa. Trò chơi này có nhiều cấp bậc khác nhau. Lên đến bàn ăn trưa của các nhà bác học để họ đố nhau những từ vựng dài và quái ác, có khi đọc không được, có khi chưa thấy bao giờ. Hai cha con ham chơi ráp vần, nhiều lúc bỏ cả cơm chiều. Ráp ô chữ đòi hỏi khả năng thông minh phát hiện, cảm nhận nhạy bén, lý luận tỉ mỉ, và dày kiến văn về ngôn ngữ. Trình độ thông thái của một người, phần lớn, tùy vào số từ vựng họ biết.

Lúc vào đại học xá, bất kỳ thứ gì vỡ, nứt, gãy của bất kỳ ai, từ sinh viên đến giáo sư, đều được bà ráp trở lại. Khi trở thành người ráp chuyên nghiệp, bà được nhật báo trên toàn quốc đưa tin ca ngợi về “Chuyện Người Ráp Cứu Bình Cổ”.

Một giáo sư khảo cổ danh tiếng vừa tìm ra một chiếc bình cao và hơn hai trăm mảnh vụn khác ở trong một ngôi mộ hơn hai ngàn năm tuổi. Nhờ cái bình còn nguyên, ông xác định được những mảnh vụn này vỡ ra từ chiếc bình thứ hai. Biết vậy, nhưng không làm sao xây dựng lại kiểu bình đã tan nát. Qua lời giới thiệu của đồng nghiệp, ông mời cô sinh viên tài năng đặc biệt về xem xét và cho ý kiến. Bà đã từng ráp mười ngàn mảnh vụn thành tấm hình nguyên thủy. Việc ráp chiếc bình chỉ cần thời giờ. Khéo léo và sáng tạo nhất là lúc ráp đứng, lúc dán xung quanh. Từ những mảnh hai chiều, dựng lên thành hình hài ba chiều. Ráp bình khác với ráp hình cắt vụn, tuy có cùng một tính kiên nhẫn.

Bất kỳ dùng vật liệu gì, sáng tác đó phải bắt đầu bằng một tưởng tượng mạnh mẽ với hương sắc tâm tư, một chút lãng mạn trong lúc nhãn quan ý thức hiện diện mang theo tài liệu, lịch sử, và những hiểu biết cần thiết về chủ đề hoặc đối tượng.

Trước hết là sắp xếp 287 mảnh vụn theo màu sắc. Chia thành từng nhóm có màu giống nhau và những nhóm có màu liên hệ. Sau đó, bỏ nhiều thời gian quan sát hình dạng của mỗi mảnh, xem xét cách răng cưa, đường vỡ đa dạng, độ dày lòi lõm, độ cong, độ thẳng… đây là cách làm quen và phương pháp duy nhất để vô thức nhận diện và ghi nhớ. Còn ý thức làm nhiệm vụ canh giữ, kiểm soát khi tình cảm và vô thức hoạt động.

Xem tài liệu, xem lịch sử, xem hình vẽ, … tập trung những điều kiện khả thể để bắt đầu tưởng tượng một chiếc bình, cùng một lúc hiểu rõ, phẩm chất tưởng tượng này sẽ phải thay đổi dần dần theo sự lộ hình của sản phẩm, để sau cùng “quá trình tưởng tượng” vô hình sẽ trở thành tác phẩm hữu hình.

Khi chiếc bình từ tốn đứng lên như đứa trẻ tập đi, hình ảnh chiếc bình trong tâm trí bà lảo đảo, lúc thế này, lúc thế kia, không hình hài nào nhất định. Đứa bé té xuống, vịn đứng lên, chiếc bình đổi dạng. Đứa bé té, lồm cồm đứng lên, bình đổi dạng khác. Nhưng rồi, từng mảnh, từng mảnh, ráp vào, sáng tạo xoay cuồng, khi tưng bừng, khi nhức nhối, dần dà định hình chiếc bình rõ rệt hơn, không giống bình lúc bắt đầu trong tưởng tượng, chắc chắn không giống hệt chiếc bình hơn hai ngàn tuổi trước đây. Đó là sức độc đáo và mầu nhiệm của sáng tác.

Sung sướng thay, sau hai năm, chiếc bình mọc lên cái cổ thẳng dài. Dù chưa hoàn tất, đứng ngắm chiếc bình, cảm giác đã quá tự hào. Lạ lùng hơn nửa, hơn hai chục thế kỷ trước, người thợ gốm khéo léo và tài hoa nào đã tạo chiếc bình trong hình dáng lạ lùng. Thân bình nằm sát trên mặt phẳng. Bắt đầu bằng hình tròn nổi lên như hai ngọn đồi con rồi chạy hơi thấp ở giữa để trồi lên cổ bình thật cao, còn lồi lõm chưa ráp hết miệng bình. Mặt ngoài có chỗ trơn láng, có chỗ xù xì, cần phải tẩy rửa một cách khoa học. Khi nào ráp đủ toàn bộ, các nhà chuyên môn về khảo cổ, các kỹ sư hóa chất keo dán, sẽ thẩm định phải chùi rửa như thế nào để bảo tồn nguyên bản.

Hình vẽ bên ngoài tuy chỗ mất chỗ còn, màu sắc tróc và phai nhiều mảng, có lẽ, kỹ thuật tái tạo hình ảnh sẽ được áp dụng sau công việc của bà, nhưng, lúc này, đã nhìn thấy một đàn ông Ai Cập lực lưỡng, bắp thịt vồng lên như khăn tắm lớn xoắn tròn vắt nước. Một con mắt bị tróc, nhưng con mắt còn lại sâu thẳm có thể tưởng ra một nỗi đam mê dữ dội. Đặc biệt, bà đã dùng kính phóng đại xem xét đôi môi của anh ta. Đôi môi dày thịt. Đôi môi của người tràn sức sống. Đôi môi có khả năng ngoạm lấy đôi môi mềm khác một cách kịch liệt, giữ chặt cho đến khi không còn chút không khí nào trong phổi.

Nhớ lại chồng mình, người đàn ông đáng kính, yêu thương tử tế mặn nồng, nhưng có nụ hôn yếu ớt, lặng lẽ, da áp vào da, như một cái bắt tay, không siết mạnh, cũng không thả lỏng, rồi rời ra, trong khi bà vẫn còn đang níu kéo, một chút chới với, hụt hẫng. Bà thèm hôn ông giống như ông thèm rít thuốc lá những hơi thật dài.

Anh ta ở trần, mặc chiếc khố thời xưa, hai chân như hai chân sau của một con ngựa đang chuẩn bị xông vào trận chiến. Có vẻ, anh ta là tên nô lệ đang chuẩn bị xông vào quần thảo hôn mê. Vì sau lưng, một cô nô lệ tay bưng chiếc khay, đựng một cây roi da và những đồ lỉnh kỉnh phai nét không thấy rõ. Bộ ngực trần của cô như đôi sừng trâu mới trưởng thành, húc vào chân không. Đôi mắt cô sụp xuống, thấy được sự chịu đựng triền miên, và khóe mắt u ám nỗi niềm nhớ quê nhà.

Sống một thời gian dài với chiếc bình ráp và không khí thời cổ xưa. Đêm đêm, chiêm bao của bà chuyển hướng sang những cảnh vật ở miền Trung Đông, mơ thấy đủ thứ chuyện, hài hước có, buồn rầu có, đau khổ có… mọi tình cảm đều xuất hiện. Có một giấc mơ đã lặp lại nhiều lần là hình ảnh cô nô lệ ngực trần húc vào thân cây dừa cho đến khi đôi núm bật máu.

Lúc này, bà đang nỗ lực ráp miệng bình. Lạ thật, sắp gần hết sao lại còn quá nhiều mảnh. Sự tưởng tượng lạc lõng và hư cấu dường như đột nhiên bất lực. Bà chưa hiểu phải làm sao. Một kỹ sư hóa học đang là giáo sư trường khoa học trong tỉnh, xuất hiện để giúp bà sử dụng một loại keo dán đặc biệt, phải trải qua vài lần trộn lẫn chất liệu trước khi sử dụng. Ông ta cao lớn nhưng mềm mại nhu mì, chính xác là ông văn phòng. Học thức cao nhưng trình độ thưởng ngoạn nghệ thuật trung bình. Lúc nào cũng chừng mực, kể cả những đêm cùng nhau làm việc suốt sáng trong căn nhà vắng vẻ. Thuộc loại đàn ông quí phái và tự trọng. Bà yêu thích vẻ đẹp trai, hành vi lịch sự, trí tuệ hiểu biết, tâm tư tình cảm, gần như hoàn hảo, nhưng bà linh cảm, loại đàn ông này khi lên giường, giấc ngủ của họ là chính yếu.

Ngược lại, khi lên giường là lúc bà giải tỏa những căng thẳng, công việc của bà gần như luôn luôn bị thúc đẩy phía sau và chặn đứng trước mặt. Ép lại ở giữa, khó thở, suy nghĩ lao lung, bất chấp tinh thần rũ rượi. Lúc đó, dường như sáng tạo rời bỏ thần trí mệt mỏi, mờ tối, chỉ còn tàn hơi của ý thức cố gắng một cách kiệt lực. Càng bị dồn ép, trở ngại, khó khăn, bà càng cần giải tỏa. Chỉ nửa giờ đó, bà quên mất tất cả những dấu hỏi, dấu chấm than, dấu bình phương, dấu căng… mà chỉ còn hơi thở. Sau những lần điều chỉnh hóa chất và tâm lý, bà cảm giác sáng tạo trở về với sức tinh tế và bén nhạy hữu hiệu thường ngày.

Một buổi chiều, sau khi trải qua thời gian dài ráp dán rối rắm, thành công đến mang theo nhiều hơi thở phào vui sướng. Đột nhiên, ông cầu hôn. Đột nhiên, bà nhận lời. Về sau, lúc nào bà cũng tự hỏi vì sao đã ráp tình yêu thiếu kỹ thuật như vậy, mặc dù bà hạnh phúc ba phần tư cuộc tình.

Chiếc bình ráp xong, thiếu mười sáu mảnh, mười sáu lỗ trống. Trước đó là ba muơi bảy lỗ chưa tìm đúng mảnh ráp vào, dù còn một số mảnh vụn bên ngoài. Đây là lúc sử dụng nghệ thuật lắp đầy những ô chữ trống của hai cha con đã từng chảy mồ hôi óc để tìm vần chính xác đưa vào. Cái miệng bình là một hình dạng kỳ khôi khác. Khi những mảnh vụn được ráp vào nhau trên miệng cổ bình, hình dạng nó trồi lên rồi hơi gục xuống như mỏ con chim hình tròn hoặc đầu trái chuối có tật. Thân bình khá lớn và cao, nhưng cái lỗ để chế nước ra khá nhỏ, có lẽ là bình đựng dầu dùng trong đền thờ. Giáo sư khảo cổ mừng rỡ. Hai chiếc bình trở thành báu vật, đưa vào viện bảo tàng và lịch sử văn minh nhân loại. Dĩ nhiên, hương sắc của người nghệ sĩ ráp tài hoa cũng vào theo.

Năm ba chín tuổi, chồng bà qua đời. Có nhiều trường hợp xảy ra gần suýt nữa là để bà tái giá, nhưng suy đi nghĩ lại, bà từ chối. Có người trồng hoa cẩm nhung mang hết tài nghệ nuôi dưỡng cây hoa, đến mùa, hoa nở nhiều đến nỗi không thấy lá. Toàn thân cây tràn ngập hoa đỏ viền trắng, không thể không trầm trồ khen ngợi. Mùi hương từ nhiều nhụy hoa tỏa ra dễ chịu, phảng phất từ mùa xuân qua mùa thu, khiến đời sống nhẹ nhàng hơn dù phải gánh vác nhọc nhằn. Nghệ thuật này có tên gọi là “Tinh anh phát tiết”. Hầu hết các nghệ sĩ đều tận dụng khả năng sáng tạo suốt đời để làm ra nhiều tác phẩm kinh hồn, hoặc hay đẹp, cao thâm, như họ mong muốn. Một người khác cũng trồng hoa cẩm nhung, cũng mang hết tài nghệ sáng tác cây hoa để đến mùa chỉ nở một cái hoa duy nhất. Chỉ một màu đỏ, thật lớn, lớn đến nỗi ít ai tin đó là hoa cẩm nhung, thậm chí, có người nghĩ là hoa giả. Hoa nở suốt một năm, vượt qua mùa đông giá lạnh. Mùi hương bao trùm cả khu vườn, chẳng những cây lá mà cỏ dại cũng thơm lây. Nghệ thuật này gọi là “Tinh anh tụ đỉnh”.

Bà dư nghị lực chịu đựng thân xác mình hành hạ, như đã từng chịu đựng thân xác không hài lòng. Bà muốn xây dựng duy nhất một loại hoa, mà chưa ai biết, chưa bao giờ thấy, kể cả bà. Một bông hoa từ ngàn mảnh nhỏ ráp lại, đứng lên trong bốn chiều, như chiếc bình cổ đang ráp thành hình dạng. Một bông hoa cho tương lai mang hương sắc làm ấm áp sức lạnh lẽo đang sắp tràn ngập trên mặt đất. Mặc dù tự bản thân biết rất rõ, có khi bà không kịp nhìn thấy chiếc nụ con.

Bà tự hứa sẽ dùng hết tài năng và thời gian để thực hiện thứ gì mong manh nhất trở thành thứ gì vững chắc nhất. Lý do đưa đến quyết định này lại không liên quan gì đến mong manh và vững chắc.

Hôm đó, bà để ý theo dõi con cháu út. Gia đình con trai bà về thăm nhà, một tuần nghỉ mát. Ba đứa cháu nội, mỗi đứa một chiếc iPad, ba thế giới riêng biệt. Ngoài giờ ăn chung và cùng nhau ăn vặt, chúng biến mất vào đời sống trong chân không. Hai đứa lớn tham dự trò chơi trên mạng, hoặc chuyện trò với bạn bốn phương. Đặc biệt, bà sửng sốt và sợ hãi khi đứng trong bóng tối một góc phòng lắng nghe đứa cháu út nói chuyện với ảo giới. Con bé năm tuổi hỏi:

- Siri, chị nhớ em không? Em nhớ chị lắm. (Nó úp iPad lên mặt, dường như cảm nhận được sự gần gũi.) Siri nói lí nhí, âm thanh quá nhỏ bà không nghe được, chỉ nhìn mặt con bé sáng lên nhờ ánh đèn từ mặt iPad hắt ra, tất cả còn lại đều u tối, căn phòng không mở đèn. Mặt nó sung sướng còn hơn gặp bà nội.

- Con búp bê tóc dài đã đi mất rồi. Má mua cho em con khác, tóc vàng. Nó biết khóc.

- ……

- Em không khóc đâu. Không ai nghe. Chị có nghe em khóc đêm qua không?

- ……

- Ba má em đi phố. Bà nội lo nấu ăn. Anh chị đang chơi game. Em không thích gì hết. Thích nói chuyện với chị. (Mắt nó buồn lạ lùng như chưa biết buồn là gì nhưng tê dại nỗi buồn.)

- …… - Siri, chị có thương em không? (Nó lại úp chiếc iPad lên mặt, im lặng khá lâu.)

Sự cô đơn của bé gái năm tuổi thì ghê gớm hơn sự cô đơn của bà, vì cô đơn của bà đã bị nhiễm trùng, là căn bệnh do bà tạo ra khi xung đột với đời sống. Bà tự chọn sự cô đơn và có khi thích thú với nó. Cô đơn của bé thuần túy là cô đơn vô nhiễm, là bản thể, thậm chí, không phải là cô đơn, mà là nỗi buồn bắt đầu một cách sống.

Các cháu đã ra về, nhưng ánh mắt và giọng nói thương cảm, tội nghiệp, tin tưởng vào ảo giới của cháu út vẫn ở lại với bà, thấm nhập vào tâm can, băn khoăn chất vấn nhiều điều không biết làm sao giải thích. Đột nhiên, bà phát hiện lý do sống còn của con người. Đó là ngôn ngữ.

Chính ngôn ngữ đã tạo ra tâm tình. Chính ngôn ngữ giao tiếp đã tạo ra cô đơn. Tình cảm là tâm lý và ý tưởng có sẵn, nhưng không có tâm lý, ý tưởng nào không có ngôn ngữ thể hiện. Ngôn ngữ suy nghĩ, lời lẽ giao tiếp đã khơi dậy, phát hiện, phát động, lộ liễu, thúc đẩy tâm tư. Con người cô đơn hơn con vật vì có ngôn ngữ.

Ý nghĩ đó đến như cây pháo bông bắn lên trên trời đen tối. Thình lình, bật sáng tỏa ra những lằn màu sắc chói lòa, gây cảm giác nhìn thấy ngôi sao chổi thu nhỏ rất gần, cảm giác cứu cánh của một người đi lạc trong chán chường vô tận. Ý nghĩ đó dần dần đục khoét, đào sâu, mở rộng thành những đêm dạ hội, pháo bông bắn đầy trời. Cô đơn là do ngôn ngữ không đủ khả năng giao tiếp sự cảm thông.

Ngôn ngữ không có khả năng lớn lao như nhiều người đã tưởng, mặc dù, ngôn ngữ là kho tàng thông thái của con người. Ngôn ngữ dù nhiều như cát vẫn phải cần trộn xi măng và không bao giờ có thể xây hết những công trình mà con người muốn kiến tạo và dự tính. Tâm tư luôn luôn sâu hơn lời lẽ, trí tuệ luôn luôn cao hơn ngôn ngữ. Đây là lý do tại sao con người không bao giờ hoàn toàn thông cảm, đồng cảm, và hiểu nhau trọn vẹn. Cần một ngôn ngữ viên mãn.

Thực hiện giải thuyết đó, bà bắt đầu ráp sách. Thế giới có triệu triệu sách hay, mà trung bình vào não của mỗi người chừng vài chục cuốn, hầu hết các hộp sọ đang sống, mỗi sọ chứa chừng vài cuốn. Vô số sọ không có cuốn nào. Bà mua những đề sách danh gia, danh tiếng, theo hàng lố, chở đến bằng xe vận tải. Sách lớn nhỏ, dày mỏng, đủ màu sắc. Ráp lại theo hình ảnh trừu tượng. Sách ráp vào sách thành những mảng lớn như vách tường, như mặt bàn. Cắt sách ra mảnh vụn, ráp li ti màu sắc, hình thể vào thiết kế. Dàn dựng nghệ thuật này đứng sừng sững trong vườn sau nhà, cao hơn nóc, chiếm ba phần tư mảnh đất một mẫu rưỡi trước kia là vườn hoa và rau. Dàn dựng đó tương tựa như tập trung trí tuệ và tâm tư của ngàn ngàn vị thầy đã đóng góp tạo ra trí tuệ nhân loại, rồi nỗ lực thắp sáng từng ngõ ngách của trang sách. Nếu có ai quấn đèn LED chung quanh kim tự tháp như đèn trên cây Noel, rồi bật điện lên cho sáng giữa đêm tối sa mạc, chẳng phải là kỳ công hay sao?

Đang đắm đuối công trình ráp sách vào thiên thu, bà bị té. Nằm lăn trên đất không ngồi dậy. Một phần vì đau, phần kia, lớn hơn, vì tỉnh ngộ.

Thiết kế Trừu Tượng Hóa Ảo (Abstract Magic Realism) như gom mây vào hình dạng mà không thể giữ được hơi nước. Không có nước, làm sao mây có thể sống? Không có chữ, sách sống được chăng? Từ đó, bà chuyển qua giải thuyết khác: Ráp chữ. Không còn quấn đèn vào kim tự tháp mà trộn lẫn đèn vào cát sa mạc. Ai mà chẳng thấy việc làm này viển vông và không tưởng?

Công trình bắt đầu từ nhà đậu xe, vòng ra khu vườn lớn phía sau, với đồ hướng băng qua dãy đồng hoang, rồi tiến dọc theo xa lộ dẫn vào thành phố. Thiết kế lúc cao lúc thấp tương tựa một vạn lý trường thành đang xây dở dang. Chỉ chữ và chữ với chữ. Chữ tạo ra cổ ngữ, tân ngữ, dân tộc ngữ, bộ tộc ngữ, thậm chí là ngôn ngữ riêng của mỗi người. Chữ mang ánh sáng đến đời sống. Không có chữ, con người vẫn còn là thú vật biết tập đoàn đánh nhau, tranh giành, và chết, vẫn không hiểu tại sao. Chữ không tiến bộ theo thời gian, thì con người không bao giờ có thể rời mặt đất. Sự phát triển của chữ là một trong vài phương pháp để lấn áp, phá tan thành lũy của sự ngu dốt. Ở mức độ cao hơn, chữ càng phát triển, đời sống càng sáng và đẹp.

Không có hy vọng nào mà không đính kèm thất vọng. Những mảnh chữ dàn dựng thường xuyên gây cho bà mất lòng tin. Thất bại không hẳn là thất vọng, nhưng nó lót đường cho thất vọng tràn tới dễ dàng. Những lúc đó, bà thường nghe tiếng nói trong đầu nhắc lại:

- Siri, sao chị không ra ngoài này chơi buôn bán với em?

- Siri, chị còn muốn làm bạn với em nữa không? Sao chị đi đâu rồi? Máy em hết điện.

Tiếng nói bình thường mà cô đơn ghê gớm vì qua những lời lẽ này, mấy ai có thể đồng cảm? Ngôn từ bất lực.

Nhìn từ bên ngoài có thể nói đây là một kỳ công của nghệ thuật chữ. Dĩ nhiên bà không nghĩ như vậy. Không phải chữ. Chính là sinh hoạt và trí năng của chữ biểu tượng. Nói một cách khác, chữ tự nó có năng lực, tự nuôi dưỡng, và tự phát huy.

Chữ là sinh vật sống vô hình mượn thân xác để tạo ra thực tế. Sự cụ thể của chữ chỉ để sử dụng trao cho nhau, cho sinh vật vô hình kia có cơ hội xâm nhập vào tâm trí người nhận. Chữ không phải kiến thức, thậm chí không đúng là hiểu biết hoặc kinh nghiệm. Chữ sinh sản, sinh sôi, thành lập xã hội, tự sinh sống trong mỗi con người.

Thế giới chữ có lẽ được tạo ra bởi một số người thời xa xưa tiếp nối nhau dọc theo thời gian lịch sử, nhưng khi thế giới này hoàn tất dù chưa hoàn mỹ, đã có khả năng hướng dẫn tinh thần và thân xác con người, thậm chí, điều khiển họ.

Lúc còn ở đại học, bà đã quen biết với một nhân vật thông thái. Sau này, ông nổi tiếng là triết gia ngôn ngữ. Ông đi ngang thành phố của bà và ghé thăm. Đây là dịp may mắn để bà tìm hiểu, xác định thêm về giải thuyết của mình với một chuyên gia hàng đầu trong thế giới chữ.

Bạn cũ gặp nhau sẽ có nhiều chuyện xưa để nhắc lại. Tuy nhiên, hai người gặp nhau ăn trưa, rồi đến quán cà phê ngoài trời tiếp tục trò chuyện. Sau đó, đi ăn tối. Họ chia tay lúc mười giờ đêm. Ngày mai, ông triết gia tiếp tục hành trình đi London. Không có quá khứ nào được nhắc lại trong suốt chín giờ đồng hồ bên nhau. Họ bàn thảo về giải thuyết của bà, khi mâu thuẫn, khi đồng thuận, khi vui cười, khi nghiêm túc.

“Không phải đèn quấn quá rời rạc trên kim tự tháp, không phải đèn bị cát che phủ, mà thực sự, đèn không đủ sáng cho màu đen của tối”. Ông triết gia dùng ngay ẩn dụ của bà để lập luận. “Trước đây, nhân loại nói về việc thông tin và giao tiếp toàn cầu khó như dẫn nước vào sa mạc. Bây giờ, dễ như vài cái bấm ở đầu ngón tay”.

“Có phải ý ông muốn nói, một ngày nào đó, khi trí tuệ và tâm tư con người đạt đến mức cao độ để có thể đồng thuận xây dựng một ngôn ngữ chung, dễ dàng học tập, cho tất cả những nền văn hóa khác biệt?”.

“Theo tôi, ngôn ngữ chung có khả năng thỏa mãn cho mọi nền văn hóa là một giải thuyết cao độ, khó thực hiện trong điều kiện hiện nay, nhưng tôi tin cậy vào khả năng tiến hóa của con người. Nhân loại mỗi ngày mỗi thông minh hơn, nhất là về phương diện nhận thức và lý luận. Dẫn đến việc thực hành thực tế và sáng tạo hiệu quả hơn. Trước đây, giải thuyết có thể đi lên mặt trăng gần như là ảo tưởng, nhưng rồi, giờ này, chúng ta sắp xây nhà trên sao Hỏa”.

Sau cùng, họ đồng ý với nhau trên hai điểm còn mười mấy quan điểm khác hẹn gặp lại trên zoom.

Thứ nhất, họ đồng ý các hệ thống ngôn ngữ hiện nay trên toàn cầu quá khác biệt, quá phức tạp, cần một hệ thống ngôn ngữ chung. Chỉ cần hiểu một sinh ngữ là đủ. Sự kết hợp trong ngôn ngữ sẽ là căn bản kết hợp cho văn hóa và phát triển đến hòa bình dựa trên sự cảm thông và đồng cảm. Làm sao có được đồng cảm thực sự khi ngôn ngữ thuần hóa khác biệt nhau? Hàng ngày, lời lẽ và chữ viết chỉ có khả năng thông đạt một nửa ý muốn giao tiếp, còn nửa kia được hiểu theo ý riêng, lầm lẫn và khác biệt.

Thứ hai, đường lối cấu tạo hệ thống ngôn ngữ tiệm tiến theo lịch sử đến đây đã mất hiệu quả và không đủ khả năng diễn đạt tâm trí con người thời đại hôm nay. Cần phải có đường lối khác, sáng tạo cách khác để cấu trúc một hệ thống ngôn ngữ hữu dụng và hữu hiệu. Một giả định được đặt ra trên ngôn ngữ điện tử do A.I. cấu tạo và phát triển.

Từ đó hai người bạn thường gặp nhau trên mạng lưới, bàn thảo tranh luận những vấn đề còn lại. Bà làm việc tích cực hơn xưa.

Ngôi nhà và khu vườn của bà nằm ra ngoài ngoại ô thành phố. Láng giềng cách xa nhau trung bình vài mẫu đất. Đời sống biệt lập và yên tĩnh. Tuy nhiên, hàng xóm vẫn thấy bà bắc thang leo lên leo xuống, lục đục, chăm chỉ làm việc suốt ngày, có khi kéo dài đến đêm, nhất là những đêm trăng sáng. Nhưng họ hoàn toàn không thấy gì ngoài những cử động và hành động của bà. Biết họ tò mò, nhưng bà không quan tâm, vì làm sao họ biết, chữ vốn trong suốt như không khí. Làm sao thấy?

Công trình ráp chữ hầu như chiếm hết thời giờ sinh sống của bà. Nói đúng ra, chính là đời sống của bà. Tuy nhiên, vẫn không thể chiếm hết toàn bộ giấc ngủ. Thứ gì vốn là hai mà phải sống một, luôn luôn đòi hỏi được trở về cặp đôi.

Thỉnh thoảng bà vẫn nằm mơ thấy sa mạc, cảnh Ai Cập, chiếc bình bị vỡ ra ngàn mảnh trong bảo tàng viện. Màu vàng của cát sa mạc là một màu vàng lạ lùng. Rực rỡ mà không vui mừng. Lặng lẽ chôn vùi nhiều điều cần phát hiện. Đó là làn da đẹp nhất của đất. Và tuần trước, bà mơ thấy chủ nhân của anh nô lệ chính là chồng bà, đã mua anh trong một cuộc đấu giá, đưa anh về phục vụ trong nhà.

Chiều hôm đó, trong hoàng hôn màu đỏ, chồng đã đưa bà ra sau sân đứng xem anh nô lệ đang húc vào cây dừa cho đến khi bật máu.