Danh ngôn

Trong mọi cộng đồng, chúng ta cần một nhóm thiên thần gây rối.

We need, in every community, a group of angelic troublemakers.

(Bayard Rustin – trích bài phát biểu tại New York City 1963)

Trong mọi trường hợp, chắc chắn rằng sự thiếu hiểu biết, đi kèm với quyền lực, là kẻ thù tàn bạo nhất có thể có của công lý.

It is certain, in any case, that ignorance, allied with power, is the most ferocious enemy justice can have.

(James Baldwin - No Name in the Street 1972)

Các cuộc cách mạng và các cá nhân có thể bị giết hại, nhưng bạn không thể giết chết các ý tưởng.

While revolutionaries and individuals can be murdered, you cannot kill ideas.

(Thomas Sankara, một tuần trước khi bị ám sát, 1987)

Không có cảm giác nào cô đơn hơn việc bị chính đất nước mình trục xuất.

There's not a more lonely feeling than to be banished by my own country.

(Kiyo Sato – Kiyo’s Story 2009)

Ban Biên tập

Địa chỉ liên lạc:

1. Thơ

tho.vanviet.vd@gmail.com

2. Văn

vanviet.van14@gmail.com

3. Nghiên cứu Phê Bình

vanviet.ncpb@gmail.com

4. Vấn đề hôm nay

vanviet.vdhn1@gmail.com

5. Thư bạn đọc

vanviet.tbd14@gmail.com

6. Tư liệu

vanviet.tulieu@gmail.com

7. Văn học Miền Nam 54-75

vanhocmiennam5475@gmail.com

Tra cứu theo tên tác giả

Thứ Năm, 18 tháng 8, 2022

Kỷ niệm Hữu Loan

Vũ Thư Hiên

Tôi coi mình là người may mắn. Trong đời, tôi đã gặp được, tuy không nhiều, những người mà tôi ngưỡng mộ. Người nào cũng để lại trong tôi kỷ niệm. Gặp Hữu Loan là một may mắn bất ngờ.

Bài thơ Màu tím hoa sim của Hữu Loan gắn chết trong trí nhớ của tôi. Và của rất nhiều người cùng thế hệ. Chắc chắn thế.

Nàng có ba người anh đi bộ đội

Những em nàng

Có em chưa biết nói

Khi tóc nàng xanh xanh

 

Tôi người Vệ quốc quân

xa gia đình

Yêu nàng như tình yêu em gái

Ngày hợp hôn

nàng không đòi may áo mới

Tôi mặc đồ quân nhân

đôi giày đinh

bết bùn đất hành quân

Nàng cười xinh xinh

bên anh chồng độc đáo

 

Tôi ở đơn vị về

Cưới nhau xong là đi

Từ chiến khu xa

Nhớ về ái ngại

Lấy chồng thời chiến chinh

Mấy người đi trở lại

Nhỡ khi mình không về

thì thương

người vợ chờ

bé bỏng chiều quê…

 

Nhưng không chết

người trai khói lửa

Mà chết

người gái nhỏ hậu phương

Tôi về

không gặp nàng

Má tôi ngồi bên mộ con đầy bóng tối

Chiếc bình hoa ngày cưới

thành bình hương

tàn lạnh vây quanh

 

Tóc nàng xanh xanh

ngắn chưa đầy búi

Em ơi giây phút cuối

không được nghe nhau nói

không được thấy nhau một lần

 

Ngày xưa nàng yêu hoa sim tím

áo nàng màu tím hoa sim

Ngày xưa

một mình đèn khuya

bóng nhỏ

Nàng vá cho chồng tấm áo

ngày xưa…

 

Một chiều rừng mưa

Ba người anh trên chiến trường Đông Bắc

Được tin em gái mất

trước tin em lấy chồng

Gió sớm thu về rờn rợn nước sông

Đứa em nhỏ lớn lên

Ngỡ ngàng nhìn ảnh chị

Khi gió sớm thu về

cỏ vàng chân mộ chí

 

Chiều hành quân

Qua những đồi hoa sim

Những đồi hoa sim

những đồi hoa sim dài trong chiều không hết

Màu tím hoa sim

tím chiều hoang biền biệt

 

Có ai ví như từ chiều ca dao nào xưa xa

Áo anh sứt chỉ đường tà

Vợ anh chưa có mẹ già chưa khâu

Ai hỏi vô tình hay ác ý với nhau

Chiều hoang tím có chiều hoang biết

Chiều hoang tím tím thêm màu da diết

 

Nhìn áo rách vai

Tôi hát trong màu hoa

Áo anh sứt chỉ đường tà

Vợ anh mất sớm, mẹ già chưa khâu…

 

Màu tím hoa sim, tím tình trang lệ rớm

Tím tình ơi lệ ứa

Ráng vàng ma và sừng rúc điệu quân hành

Vang vọng chập chờn theo bóng những binh đoàn

 

Biền biệt hành binh vào thăm thẳm chiều hoang màu tím

Tôi ví vọng về đâu

Tôi với vọng về đâu

Áo anh nát chỉ dù lâu…

Không cần một cuốn sách. Không cần nhiều bài. Chỉ vài câu cũng đủ. Nhà thơ được gọi là nhà thơ là như thế.

Bài thơ trên được một đồng đội nắn nót chép tay cho tôi. Nó đã đi cùng tôi suốt những dặm dài kháng chiến.

Tôi có một căn phòng trên lầu sáu chung cư Nguyễn Thái Bình. Đang mổ cò một truyện ngắn bằng cái máy chữ Japy vừa mua được ở chợ giời Huỳnh Thúc Kháng thì có người đẩy cửa, thò đầu vào:

- Vũ Thư Hiên, phải không?

- Vâng, là tôi.

Người đến là một ông lão gày, tóc bạc lơ thơ.

- Hữu Loan đây.

Tôi trợn mắt. Tôi không chờ đợi cuộc gặp gỡ này. Không may mắn thì còn là cái gì.

Tôi ôm choàng khách.

- Nhà có gì uống không? – Hữu Loan đảo mắt nhìn căn phòng.

- Rượu có – tôi nói - Quốc lủi.

Anh tự tìm ghế. Rút cái quạt giấy, quạt phành phạch.

- Không – anh lắc – Giờ này uống rượu có mà chết.

- Có nước chanh trong tủ lạnh.

- Không. Nước lã. Đang khát khô cổ họng đây.

Uống rồi, anh trách:

- Cậu ở cao thế?

- Có một chỗ trú chân là may mắn rồi. Tôi không mong hơn.

Anh tu một hơi nửa chai nước.

Đã khát rồi, anh bảo:

- Tri túc dã túc. Bây giờ thì trà.

Hữu Loan quan sát bộ đồ trà.

- Bộ Thế Đức gan gà này được. Trong ấm đã có trà đóng cao. Kiếm được là giỏi.

Tôi ngượng. Còn lâu tôi mới có được nghệ thuật thưởng trà của các bô lão.

- Tôi mua ở chợ trời – tôi nói – Của một người đàn bà.

- Quý đấy. Chắc của người cha đã khuất núi.

- Chắc vậy. Bán rẻ như cho.

Hữu Loan thở dài nhẹ.

- Người đi. Của ở lại. Rồi quý vật lại tầm quý nhân.

Tôi đỏ mặt. Tôi có bao giờ được là quý nhân?

- Khá. Có dư vị - Hữu Loan nhấp một ngụm, gật gù – Thái Nguyên?

- Tân Cương đấy.

- Là sao? Trà Tàu?

- Không phải. Ở Thái Nguyên có một nơi tên như thế. Tôi từng ở đấy. Thời bộ đôi.

Anh ngắm tôi. Có vẻ anh muốn tìm ở tôi dấu vết một thời chinh chiến.

Xong tuần trà, anh than:

- Cậu ở cao quá. Leo mỏi cả chân.

- Tôi có rượu thuốc. Anh bóp nhá?

- Khỏi. Tớ không phải công tử.

Tôi không biết nhiều về Hữu Loan. Anh là nhà thơ nổi tiếng, chấm hết. Nghe kể thì dường như anh có vướng tí chút vào vụ "Nhân văn - Giai phẩm". Thời ấy, người vướng vào chuyện đó lắm. Cũng nghe kể thì đang yên lành Hữu Loan bỗng đùng đùng bỏ việc, về quê. Mà có phải cán bộ thường đâu. Cấp cao, lương lớn.

Văn Cao bảo:

- Đạn lạc thôi. Hũu Loan đâu có dính dáng bao nhiêu với "Nhân văn - Giai phẩm”.

Người khác kể:

- Ông ấy bỏ là bỏ. Về Nga Sơn, làm nghề thồ đá. Một dị nhân.

Tôi tế nhị, không hỏi anh chuyện ấy.

Tự anh nói:

- Chán thì về thôi.

- Anh chán cái gì?

- Chán cái nhân tình thế thái. Còn chán cái gì nữa.

Tôi cũng chán lắm cái nhân tình thế thái bấy giờ. Nhưng tôi không bỏ việc. Tôi không biết làm gì khác ngoài việc đang có trong một tờ báo. Ở đó tôi có lương. Lương cán sự 3, 63 đồng/tháng. Tôi đã có gia đình – vợ và hai đứa con.

Tránh trời không khỏi. Tôi không bỏ việc. Người ta lôi tôi khỏi công việc để nhét vào tù. Những 9 năm cơ đấy.

Sự đi tù dài của tôi chắc hẳn chắn đã dẫn Hữu Loan đến với tôi.

- Một thời tớ cũng đã nghĩ tới chuyện người ta sẽ bỏ tù mình – anh nhìn tôi, tâm sự - Nhưng không, người ta không làm thế. Tớ bỏ việc, người ta mặc, không cản, không truy nguyên nhân.

Tôi nhìn anh. Vóc dáng ấy mà thồ đá?

Anh hiểu cái nhìn của tôi:

- Người ta làm được thì mình làm được.

- Vào đây anh ở nhà nào?

- Khối chỗ. Người quen có, người không quen cũng có.

- Anh ở đây đi.

- Cũng được.

Mấy ngày anh ở lại, chúng tôi có nhiều dịp tâm sự. Thời ấy những bạn tôi đều nghèo. Nhưng về tâm sự thì ai cũng là đại gia.

Tôi kéo anh lang thang Sài Gòn. Anh thích ngắm phố phường.Như một du khách.

Trong những lời tâm sự của anh, tôi nhớ nhất một câu:

- Có lẽ tôi sai, ông ạ. Khổng Tử nói: “Đời đục, ta trong làm sao được”. Ông ấy đúng. Nhưng tôi không có chỗ trong cái đúng ấy. Tôi tất nhiên có thể tự chọn chỗ cho mình. Có điều nó lại ảnh hưởng tới con, tới cháu. Nga Sơn, quê tôi, là chốn khỉ ho cò gáy, không có một trường học cho ra trường.

Tôi thở dài cùng anh.

- Anh còn làm thơ chứ?

- Không.

- Tại sao?

- Thơ là khách. Nó đến rồi đi. Cái tâm mình không muốn giữ thì nó ở làm gì.

Tôi tiếc hồn thơ Hữu Loan. Cuộc đời quá tệ với anh.

Tôi gặp Hữu Loan có thế thôi.

Thời gian ngắn. Nỗi nhớ dài.

Kỷ niệm với Hữu Loan còn một tấm hình do anh bạn Nguyễn Quốc Văn chụp.

Cảm ơn Nguyễn Quốc Văn rất nhiều.

Có thể là hình ảnh về 2 người