Danh ngôn

Trong mọi cộng đồng, chúng ta cần một nhóm thiên thần gây rối.

We need, in every community, a group of angelic troublemakers.

(Bayard Rustin – trích bài phát biểu tại New York City 1963)

Trong mọi trường hợp, chắc chắn rằng sự thiếu hiểu biết, đi kèm với quyền lực, là kẻ thù tàn bạo nhất có thể có của công lý.

It is certain, in any case, that ignorance, allied with power, is the most ferocious enemy justice can have.

(James Baldwin - No Name in the Street 1972)

Các cuộc cách mạng và các cá nhân có thể bị giết hại, nhưng bạn không thể giết chết các ý tưởng.

While revolutionaries and individuals can be murdered, you cannot kill ideas.

(Thomas Sankara, một tuần trước khi bị ám sát, 1987)

Không có cảm giác nào cô đơn hơn việc bị chính đất nước mình trục xuất.

There's not a more lonely feeling than to be banished by my own country.

(Kiyo Sato – Kiyo’s Story 2009)

Ban Biên tập

Địa chỉ liên lạc:

1. Thơ

tho.vanviet.vd@gmail.com

2. Văn

vanviet.van14@gmail.com

3. Nghiên cứu Phê Bình

vanviet.ncpb@gmail.com

4. Vấn đề hôm nay

vanviet.vdhn1@gmail.com

5. Thư bạn đọc

vanviet.tbd14@gmail.com

6. Tư liệu

vanviet.tulieu@gmail.com

7. Văn học Miền Nam 54-75

vanhocmiennam5475@gmail.com

Tra cứu theo tên tác giả

Thứ Tư, 6 tháng 7, 2022

Thơ Mark Strand*

 Linh Văn dịch

 

TƯỞNG NHỚ

 

Hãy cho tôi sáu dòng được viết bởi người đáng kính nhất, và tôi sẽ tìm ra một lý do trong số chúng để treo cổ hắn ta.

—Richelieu

 

Chúng ta không bao giờ tìm thấy những dòng cuối cùng ông đã viết,

Hoặc ông đã ở đâu khi họ tìm thấy ông.

Danh dự của ông, mọi người dường như chẳng biết gì về nó.

Và nhiều kẻ ngờ rằng ông đã từng sống.

Chẳng thành vấn đề. Cái thực tế ông đã chết

Là lý do đủ để tin rằng đã có những lý do.

 

“In memoriam” - Từ tập thơ “Sleeping with One Eye Open” (1964)

    Screenshot 2022-07-06 011807

Chân dung Mark Strank, ảnh https://www.poetryfoundation.org

NHỮNG BÀI THƠ KHÔNG KHÍ

 

Những bài thơ không khí đang dần chết;

chúng quá nhẹ cho trang viết, quá mờ nhạt, quá xa xôi,

những bài thơ mà chúng ta đã từng gọi là Trăng, là Sao, là Mặt Trời,

chìm xuống biển hay khuất sau những rặng cây lạnh lẽo

ở rìa cánh đồng này. Nấm mồ ánh sáng khắp mọi nơi.

 

Một ngày mùa hè hay một đêm mùa đông nào đó những bài thơ sẽ ngừng lại.

Không ai khóc, không ai ngước nhìn trời.

Một màn sương dày sẽ phủ đầy thung lũng,

một bóng tối không thể gột rửa sẽ giăng mưa trên những ngọn đồi,

và không có gì, không một bóng chim nào, đến hót.

 

“Poems of air” - Từ tập thơ “The Late Hour” (1978)

 

 

LỜI TIÊN TRI

 

Đêm ấy trăng trôi phía trên cái ao,

biến nước thành sữa, và dưới

những nhành cây, những tán cây xanh thẫm

một người phụ nữ trẻ tản bộ, và trong thoáng chốc

 

tương lai đến với cô:

mưa rơi trên nấm mồ chồng cô, mưa rơi

trên bãi cỏ của các con cô, cái miệng của chính cô

ngập đầy gió buốt, những người lạ bước vào trong nhà cô,

 

một người đàn ông trong phòng của cô viết một bài thơ, mặt trăng trôi vào trong đó,

một người phụ nữ đi dạo dưới tán cây, nghĩ đến cái chết,

nghĩ về anh ấy nghĩ đến chính cô, và gió nổi lên

và mang trăng đi khỏi và để lại trang giấy tối tăm.

 

“The prediction” - Từ tập thơ “Darker” (1970)

 

 

CÁNH CỬA

 

Cánh cửa lại ở trước mặt mi và tiếng thét chói tai

Bắt đầu và giọng nói điên loạn vang lên ở đây ở đây.

Sự hoang đường về nỗi êm ái chết đi và cái hang của thân thể

Nàng hoá thành cát bụi. Mây lọt vào mắt mi.

 

Mùa thu. Mọi người đang nhảy từ máy bay phản lực;

Người thân của họ phóng lên không trung để nhập bọn với họ.

Đó là những gì tiếng thét kể về. Không ai muốn

Rời đi, không ai muốn ở lại.

 

Cánh cửa ở trước mặt mi và mi không thể cất lời.

Mi thở chậm chạp và nhìn xuyên qua

Cửa sổ. Bác sĩ của mi đang mặc chiếc tạp dề của tên đồ tể

Và cầm một con dao. Mi chấp thuận.

 

Và mi nhớ lần đầu tiên mi đến. Những chiếc lá

Xoay tít từ những cây phong khi mi chạy đến ngôi nhà.

Mi đã chạy như mi luôn tưởng tượng rằng mi sẽ.

Bàn tay mi đặt trên cánh cửa. Đây là nơi mà mi đã bước vào.

 

“The door” - Từ tập thơ “Reason for Moving” (1968)

 

 

HƠI THỞ

 

Khi anh gặp họ

hãy bảo họ rằng tôi vẫn ở nơi đây,

tôi đứng bằng một chân trong khi chân kia mơ mộng,

đó là cách duy nhất,

 

hãy bảo họ rằng những lời tôi dối họ

khác với những lời tôi tự dối chính tôi,

bằng cách vừa ở đây vừa ở kia

tôi đang trở thành một chân trời,

 

hãy bảo họ rằng khi mặt trời mọc và lặn, tôi biết đâu là chốn của tôi,

rằng hơi thở là thứ cứu tôi,

rằng ngay cả những âm tiết bị cưỡng ép lúc tàn hơi vẫn cứ là hơi thở,

rằng nếu xác thân là một chiếc quan tài thì nó cũng là một cái buồng đựng đầy hơi thở,

 

hãy bảo họ rằng hơi thở là một tấm gương bị lời che khuất,

là tất cả những gì sống sót là tiếng kêu cứu

khi nó lọt vào tai người lạ

và ở lại rất lâu sau khi thế giới ra đi,

 

hãy bảo họ rằng hơi thở là sự khởi đầu lại, từ nó

mọi đối kháng biến tan, khi ý nghĩa

rời khỏi cuộc sống, hoặc bóng tối rơi từ ánh sáng,

hơi thở là thứ tôi trao họ khi tôi gửi tình tôi

 

“Breath” - Từ tập thơ “Darker” (1970)

 

 

NGƯỜI CHẾT

 

Những ngôi mộ ngày một sâu hơn

Người đã chết càng chết thêm vào mỗi tối.

 

Dưới tán cây du và cơn mưa lá,

Những ngôi mộ ngày một sâu hơn.

 

Những nếp gấp tối tăm của gió

Phủ lên mặt đất. Đêm lạnh.

 

Những chiếc lá bị cuốn vào đá sỏi.

Người đã chết càng chết thêm vào mỗi tối.

 

Đêm không sao ấp ôm lấy họ.

Gương mặt họ mờ đi.

 

Ta chẳng thể nhớ về họ

Đủ rõ. Ta sẽ chẳng bao giờ.

 

“The Dead” - Từ tập thơ “Reason for moving” (1968)

 

 

NHỮNG GÌ CÒN LẠI

 

Cho Bill và Sandy Bailey

 

Tôi xoá tôi khỏi tên những kẻ khác. Tôi làm rỗng túi tôi.

Tôi trút bỏ đôi giày và để chúng bên vệ đường.

Trong đêm tôi quay ngược những chiếc đồng hồ;

Tôi mở cuốn album gia đình và ngắm tôi khi tôi còn là một đứa nhóc.

 

Thế này liệu có ích gì? Thời khắc đã an bài.

Tôi nói lên cái tên của chính tôi. Tôi nói lời giã biệt.

Các từ nối tiếp nhau xuôi ngược.

Tôi yêu vợ nhưng tôi xua nàng đi.

 

Cha mẹ tôi hiện ra từ ngai vàng

bước vào những căn phòng mây trắng đục. Làm sao tôi có thể hát lên?

Thời gian cho tôi biết tôi là ai. Tôi thay đổi và tôi vẫn thế.

Tôi trút bỏ tôi khỏi đời tôi và đời tôi ở lại.

 

“The remains” - Từ tập thơ “Darker” (1970)

 

 

CÂU CHUYỆN

 

Đó là câu chuyện cũ: những lời thở than về mặt trăng

chìm xuống biển, về những ngôi sao nhoè dần trong tia sáng đầu tiên,

về bãi cỏ ướt sương, bãi cỏ bạc, bãi cỏ buốt lạnh.

 

Nó cứ tiếp tục và tiếp tục: một người đàn ông nhìn chằm chằm vào cái bóng của mình

và nói rằng đó là tro bụi của chính ông đang rơi xuống, rằng những ngày của ông

là những lỗ đen thực sự trong không gian. Nhưng chẳng có chi là đúng.

 

Bạn biết điều tôi muốn nói: đó là câu chuyện về những phút đang chết,

và những giờ, những năm; đó là câu chuyện tôi kể

về chính tôi, về bạn, về mọi người.

 

“The story” - Từ tập thơ “The Late Hour” (1978)

 

 

Ở KIẾP SAU

Nàng đã đứng cạnh tôi nhiều năm, hay chỉ là một khoảnh khắc? Tôi không thể nhớ. Có lẽ tôi yêu nàng, có lẽ tôi không. Có một ngôi nhà, và rồi không có ngôi nhà nào cả. Có cây cối, nhưng chẳng còn chi ở lại. Khi không ai còn nhớ, chốn ấy là gì? Hỡi người, người sở hữu những phút giây đã qua, người trôi như mây khói ở kiếp sau, hãy nói với tôi điều gì đó, hãy nói với tôi bất cứ điều gì.

 

“In the after life” - Từ tập thơ “Almost Invisible” (2012)

 

 

NỖI SẦU MUỘN BỊ CHÔN VÙI CỦA MỘT NHÀ THƠ

 

Một mùa hè, khi chàng vẫn còn trẻ, chàng đứng bên cửa sổ và tự hỏi họ đã đi đâu, những người đàn bà ngồi bên biển, ngắm nhìn, chờ đợi một điều gì đó không bao giờ đến, gió nhẹ phả vào da họ, gửi những lọn tóc xoã ngang môi họ. Họ đã ngã xuống từ mùa nào, họ đã lạc lối từ ý niệm nào của nét yêu kiều? Đã lâu rồi kể từ khi chàng nhìn thấy họ trong vẻ lộng lẫy đơn độc, trĩu nặng trong nỗi biếng lười, dệt nên câu chuyện buồn về niềm hy vọng bị bỏ rơi. Đấy là mùa hè chàng lang thang trong màn đêm kỳ vĩ, trong biển tối, như thể lần đầu tiên, để tự toả ra ánh sáng của chính mình, nhưng những gì chàng toả ra là bóng tối, những gì chàng tìm thấy là đêm.

 

"The buried melancholy of a poet" – Từ tập thơ “Almost Invisible” (2012)

 

*Mark Strand (1934-2014) là một nhà thơ, nhà tiểu luận và là một dịch giả người Mỹ gốc Canada. Ông từng là giáo sư Anh ngữ và Văn học so sánh tại Đại học Columbia từ năm 2005 đến năm 2014 khi ông qua đời, và là giáo sư thỉnh giảng tại nhiều đại học khác tại Mỹ. Ông từng nhận nhiều giải thưởng về thơ như giải thưởng quốc gia Bobbitt cho thi ca (năm 1992), giải Bollingen (năm 1993), giải Pulitzer(1999) và các giải thưởng khác.