Danh ngôn

Trong mọi cộng đồng, chúng ta cần một nhóm thiên thần gây rối.

We need, in every community, a group of angelic troublemakers.

(Bayard Rustin – trích bài phát biểu tại New York City 1963)

Trong mọi trường hợp, chắc chắn rằng sự thiếu hiểu biết, đi kèm với quyền lực, là kẻ thù tàn bạo nhất có thể có của công lý.

It is certain, in any case, that ignorance, allied with power, is the most ferocious enemy justice can have.

(James Baldwin - No Name in the Street 1972)

Các cuộc cách mạng và các cá nhân có thể bị giết hại, nhưng bạn không thể giết chết các ý tưởng.

While revolutionaries and individuals can be murdered, you cannot kill ideas.

(Thomas Sankara, một tuần trước khi bị ám sát, 1987)

Không có cảm giác nào cô đơn hơn việc bị chính đất nước mình trục xuất.

There's not a more lonely feeling than to be banished by my own country.

(Kiyo Sato – Kiyo’s Story 2009)

Ban Biên tập

Địa chỉ liên lạc:

1. Thơ

tho.vanviet.vd@gmail.com

2. Văn

vanviet.van14@gmail.com

3. Nghiên cứu Phê Bình

vanviet.ncpb@gmail.com

4. Vấn đề hôm nay

vanviet.vdhn1@gmail.com

5. Thư bạn đọc

vanviet.tbd14@gmail.com

6. Tư liệu

vanviet.tulieu@gmail.com

7. Văn học Miền Nam 54-75

vanhocmiennam5475@gmail.com

Tra cứu theo tên tác giả

Thứ Sáu, 13 tháng 5, 2022

Hợp tuyển Frankfurt (kỳ 14)

Phạm Kỳ Đăng dịch từ nguyên bản tiếng Đức

 

Quá cô đơn tôi đã mọc lên và cao quá

Christa Melchinger

 

Sự cô đơn tuyệt đối – chờn vờn trong những ảnh hình và thành ngữ bay bướm và trang nhã: nào ở đâu người ta còn có thể đọc được điều này như thế nữa?

Đã có tới ngàn lần huy động: sự thêu dệt một cách truyền thống cho tự nhiên theo khuôn mẫu lãng mạn. Và nếu như người ta tính cả cái tiêu đề bài thơ vào đây trong truyền thống đào luyện của thế kỷ 19. Tôi chợt nghĩ tới những bài sonnet về Vơ-ni-dơ của Platten(1), tôi nhớ tới bài thơ “Trên Dòng Kênh Lớn – Auf dem Canal Grande” của C.F. Meyer (2). Nhưng chẳng có gì còn đọng lại ở bài thơ này từ cái ý nghĩa tầng sâu mang tính biểu tượng đó (rất đặc trưng cho những năm tám mươi), thứ để cho tiến trình xảy ra trong thơ chỉ có giá trị như không sát thực, mà trong vai trò là phương tiện của nhận thức, thì cả cuộc sống của con người cũng vậy. Phải thế chăng sự chủ thể hóa một cách lãng mạn?

Cái nhìn nhạy bén, những viễn cảnh của cái tôi trữ tình, từ đó phối dựng nên hoạt cảnh – cái chất đồ vật mau đi mất hút, cái gì sẽ quyết định đây?

Ở đâu là tình cảm, được khêu lên bởi các sự vật mà chúng liên hệ tới? Những người giải luận chương trình của thời đại đòi hỏi: hãy gọi tên đích xác các sự vật. Nietzsche nói về “miền run rẩy”. Tính chất lìa ra tự lập, không còn phục vụ lâu hơn nữa đối tượng, từ chối sự đơn nghĩa. Và cái ẩn dụ này liên hệ tới những chi? “Trào sôi lên những giọt vàng kim” - Thuyền gondela, ánh sáng hay là âm nhạc? Theo một cách thức đáng ngạc nhiên, cái ẩn dụ đó có vẻ bị kéo căng ra, không thể định vị, tàn phá mối liên kết thực tại trong tính nhân tạo đầy tham vọng của nó. Bù vào đó sáng tạo những liên tưởng: Không khí, xúc tác, ấn tượng: “chuyếnh choáng bơi…” thế giới lấp loáng vỡ vụn, hiện ra như một phóng tưởng của cái Tôi, của những cảm nhận. Sự chủ thể hóa của Nietzsche đi xa hơn nhiều so với các nhà lãng mạn.

Cái Tôi lấp đầy tất cả, tất cả được lập luận trong nó: “run rẩy trước lòng dạ xốn xang” – đó không còn là một sự diễn giải chủ quan của thế giới, đó là thế giới của cái Tôi, cái Tôi là Thế giới. Không còn điểm liên hệ nữa, với những trường liên hệ mọi liên kết đều sụp đổ. Chủ thể tuyệt đối – cô đơn tuyệt đối. “Quá cô đơn tôi mọc và cao hơn”, ta còn đọc được ở bài khác (Thông và Chớp). Và “Tôi mọc cao vượt trên người và thú; /Và tôi nói – chẳng ai nói với tôi”.

Với những phương tiện tiết kiệm nhất Nietzsche đã tạo ra một sự gia cường cực điểm. Hoạt cảnh được tạo dựng từ ít ỏi ảnh hình ám ảnh của khổ thơ thứ nhất, sự dạo đàn dây “thầm kín” của tâm hồn, rót đầy linh hồn trỏ hướng tới một khán giả. Và nó cũng đả động tới một thính giả trong câu hỏi được điểm điểm xuyết một cách trào lộng ở cuối bài.

Max Kommerell (3) đã gọi Nietzsche là kẻ phát minh ra “kịch nghệ siêu nghiệm”. Một cách diễn đạt chính xác vô cùng. Nietzsche đã dẫn nhập cái tôi trữ tình vào một vai trò không được biết đến cho tới thời điểm đó: Bởi vì sự cô đơn ông kiến tạo nên bao trùm đến mức nó không còn cho phép có khán giả nữa, tới mức cái Tôi thực hiện cả hai chức năng, nói thẳng ra là người ca và người nghe. Và bất cứ sự biểu lộ nào của ông cũng đồng thời là sự tự phác thảo, tự trình bày, tự quan sát, tự diễn giải và tự thoại.

Nguồn : Zu einsam wuchs ich und zu hoch - Frankfurter Anthologie, Insel Verlag Frankfurt am Main 1982, Zweite Auflage, Fünfter Band.

 

Vơ-ni-dơ

Friedrich Nietzsche (1844-1900)

 

Mới đây thôi tôi đứng

Trên chiếc cầu, trong đêm tối màu nâu.

Tiếng hát vọng về từ chốn xa đâu:

Cuộn những giọt kim vàng

Trào qua miền đang run lên, lai láng.

Âm nhạc, thuyền gondela, ánh sáng

Chuyếnh choáng bơi vào tảng sáng ban mai…

 

Linh hồn tôi, một bản dạo đàn dây,

Thầm hát cho mình, cảm bồi hồi kín đáo,

Một bài hát chèo thuyền hòa tấu,

Run rẩy nghe lòng dạ xốn xang

- Có ai nghe lắng tiếng hồn chăng?...

 

Nguyên tác tiếng Đức:

Venedig

Friedrich Nietzsche (1844-1900)

 

An der Brücke stand

jüngst ich in brauner Nacht.

Fernher kam Gesang:

goldener Tropfen quoll′s

über die zitternde Fläche weg.

Gondeln, Lichter, Musik -

trunken schwamm′s in die Dämmerung hinaus...

 

Meine Seele, ein Saitenspiel,

sang sich, unsichtbar berührt,

heimlich ein Gondellied dazu,

zitternd von bunter Seligkeit.

- Hörte Jemand ihr zu?...

 

Chú thích của người dịch:

(1) August Graf von Platen-Hallermünde (1796-1835): Nhà thơ Đức, tên của một giải thưởng văn chương Bavaria, được biết tới bởi những bài sonnets về Venice về cái đẹp và sự suy tàn.

(2) Conrad Ferdinand Meyer (1825-1898): Nhà thơ, nhà văn của chủ nghĩa Hiện thực người Thụy sĩ.

(3) Max Kommerell (1902-1944): Nhà văn, dịch giả và nhà biên soạn văn học sử.

Christa Melchinger, sinh năm 1943: Nhà báo, ký giả.

Friedrich Wilhelm Nietzsche (1844 –1900): Triết gia, nhà văn, nhà thơ Phổ (Đức). Là giáo sư ngành ngữ văn học, ông viết nhiều bài phê bình về tôn giáo, đạo đức, các vấn đề văn hóa đương thời, và triết học. Các tác phẩm của Nietzsche nổi bật với phong cách viết của ông, thường mang tính cách ngôn (Aphorism) và nhiều nghịch lý hơn là mức độ thông thường của khảo luận triết học. Suốt trong cuộc đời Nietzsche không được đánh giá cao bởi những người đương thời, nhưng đầu thế kỉ 20, ông đã được giới trí thức ở Đức, Pháp và Anh đánh giá lại và công nhận. Ông bắt đầu bị mang tiếng xấu khi Đảng Quốc Xã của Đức tôn thờ ông là một bậc tiền bối tư tưởng, mặc dù Nietzsche có quan điểm phản đối Chủ nghĩa Bài Do Thái và Chủ nghĩa Dân tộc Đức. Sau Thế chiến thứ hai, triết gia Walter Kaufmann bắt đầu một cố gắng bền bỉ nhằm khôi phục lại danh tiếng của Nietzsche trong các nước nói tiếng Anh, và vào nửa sau của thế kỉ 20, Friedrich Nietzsche đã được xem là một nhân vật quan trọng có ảnh hưởng lớn trong triết học hiện đại. Trực tiếp và gián tiếp (thông qua Martin Heidegger), Nietzsche đã ảnh hưởng đến thuyết Hiện sinh (Existentialism), chủ nghĩa Hậu hiện đại (Postmodernism), Phân tâm học (Psychoanalysis) và nhiều tư tưởng phái sinh.

©® Phạm Kỳ Đăng và Văn Việt

 

Sao u buồn vậy?         

Hans-Ulrich Treichel

 

Đó là bài thơ nổi tiếng nhất của Heinrich Heine, và với những ai đó, văn bản được phổ cập lần đầu vào năm 1824 ngân lên bên tai như một bài dân ca cổ truyền và không như tác phẩm của một nhà trí thức và thi sĩ chết trong cảnh lưu vong ở nước Pháp. Được Friedrich Silcher (1837), cám ơn người nhạc sĩ chúng ta còn có bài “Nàng Ähnchen xứ Tharau” nữa, phổ nhạc, khúc hát còn góp phần gia tăng thêm cảm tưởng này.

Chúng ta không biết, bản thân Heine sẽ nói gì về câu chuyện, có như một lần, trong một chuyến dạo chơi bên bờ sông Ranh giả sử, có thể có một chiếc tàu du lịch chạy bằng hơi nước chở một hội đàn ông hát ca chạy ngang qua và đã thổi hắt từ bên kia tới ông cái câu “Tôi chẳng biết sao ra nông nỗi” sao mới ngọt ngào và đa cảm. Hiển nhiên khéo ông ấy dễ sáng tác một câu thơ chế nhạo về chuyện ấy, nhưng mà cũng có thể ông ấy hơi mủi lòng và đồng thời ngượng ngùng vì sự tình có thật, rằng nàng trinh nữ mang hình tiên cá tên là Lore Lay không lần nào do ông mà do Clemens Brentano (1) phát minh ra vào năm 1800 đã biến ông chứ không phải nào ai khác thành nhà văn dân tộc của Đức mà giờ đây người ta huýt sáo bài thơ đó từ trên mọi nóc nhà.

Không gây xúc động, mà gây ra rối trí cho ông tuy nhiên hẳn là cái tin đồn được nhiều người, cả Theodor W. Adorno lan truyền, rằng chính những người theo chủ nghĩa Xã hội chủ nghĩa dân tộc (Quốc xã) suýt nữa đã “đưa” ông lên đài “vinh quang”, khi họ đã dán đè lên dưới bài Loreley tên của nhà thơ đã trở nên nổi tiếng cái nhãn “tác giả khuyết danh” và như thế đã “bưng bít những câu thơ của Heine” coi như bài “dân ca”. Cho đến ngày hôm nay vẫn thiếu bất kỳ chứng cứ đối với nội dung xác thực của lời đồn đại này. Và thậm chí chưa có chứng cứ gì đáng đổ máu ra xác tín.

Chắc chắn văn bản đa cảm, và hẳn độc giả nào đó sẽ ớn lạnh bởi một niềm khoái trá và hoan lạc cộng sinh, nếu hắn đưa mình nhập vào vai người lái thuyền không sao cưỡng lại được sự quyến rũ nhục dục – âm nhạc, và chính vì thế chìm đắm xuống. Trong chừng mực đó những “thời xa xưa” cho phép hiểu thậm chí như là thời xa xưa tốt đẹp, khi thời đó con người ta không chỉ bị chài mồi, quyến rũ, mà vượt qua ranh giới đó còn bị “nuốt chửng” đi nữa.

Thời buổi hôm nay, cũng có lẽ vào thời Heine đã thế, không dễ gì có được những chấn động khuynh đảo cảm xúc tầm như vậy. Nhưng đương nhiên chúng được mong nhớ dạo đó cũng như hôm nay. Và chính vì thế câu hỏi (cho đến nay vẫn chưa được giới nghiên cứu Heine làm sáng tỏ toàn bộ) về sự buồn thương của nhà thơ chỉ được trả lời khá không thỏa đáng, nếu như người ta diễn giải bài thơ hoặc theo dựa vào tiểu sử hoặc lưu ý về tình yêu bất hạnh của Heine với cô em họ Amalie hoặc giải thích Lorelei như sự hiện thân của bản thể Đức mà chạm vào đó người Do thái Heine đã trở thành điên và vì thế kết cục thân tàn ma dại. Với cách thức đó hẳn người ta quả đã ban tặng quá nhiều danh giá cho mái tóc vàng kim và với những thứ nó đại diện.

Tại sao nhà thơ của bài Loreley “lại u sầu vậy”? Chắc chắn bởi Amelie, và cũng chắc chẳn, ông khổ đau vì tổ quốc của mình. Nhưng có lẽ nhiều hơn thế nữa, bởi vì những câu truyện cổ tích với những nàng trinh nữ đẹp, những giai điệu hùng tráng và những tai ương hứa hẹn nhiều nỗi chỉ có thể có được bằng cái giá phải trả, hoặc chúng bị kiềm chế theo cách chế nhạo, nhưng thế đấy hoặc cách khác: được Friedrich Silcher phổ nhạc.

Nguồn: Frankfurter Allgemeine Zeitung vom 14.12.1996

 

Nàng Loreley

Heinrich Heine (1797-1856)

 

Tôi chẳng biết sao ra nông nỗi

Lòng tôi mang vậy mối u sầu;

Khiến tôi một truyện từ đâu,

Thời xa xưa mãi trong đầu vấn vương.

 

Không khí lạnh trời buông bóng tối,

Dòng sông Ranh tuôn lối chảy êm;

Đỉnh cao ngọn núi lóe lên

Trong vừng ánh nắng điểm thêm chiều tàn.

 

Nàng trinh nữ dung nhan đẹp nhất

Ngồi ở trên cao ngất, tuyệt vời,

Đồ trang điểm ánh vàng soi,

Nàng chải mái tóc vàng tươi kim vàng.

 

Nàng chải mái tóc bằng chiếc lược

Vàng kim, khi hát một khúc ca;

Bài ca tuyệt diệu thiết tha

Ngân lên giai điệu vọng xa khắp miền.

 

Người lái ở trong thuyền nhỏ bé

Lặng người vì tê dại đớn đau;

Không nhìn vách đá chen nhau,

Chỉ trông lên đỉnh núi cao mịt mùng.

 

Tôi tin chắc cuối cùng sóng cuốn

Dìm mất ngươì lái với con thuyền;

Nguyên do tiếng hát nàng tiên

Lo-re-ley đã làm nên tội tình.

 

©® Nguyên tác tiếng Đức:

Die Loreley

Heinrich Heine (1797-1856)

 

Ich weiß nicht was soll es bedeuten

Daß ich so traurig bin;

Ein Märchen aus alten Zeiten,

Das kommt mir nicht aus dem Sinn.

 

Die Luft ist kühl und es dunkelt,

Und ruhig fließt der Rhein;

Der Gipfel des Berges funkelt

Im Abendsonnenschein.

 

Die schönste Jungfrau sitzet

Dort oben wunderbar,

Ihr goldenes Geschmeide blitzet,

Sie kämmt ihr goldenes Haar.

 

Sie kämmt es mit goldenem Kamme

Und singt ein Lied dabey;

Das hat eine wundersame,

Gewaltige Melodei.

 

Den Schiffer, im kleinen Schiffe,

Ergreift es mit wildem Weh;

Er schaut nicht die Felsenriffe,

Er schaut nur hinauf in die Höh´.

 

Ich glaube, die Wellen verschlingen

Am Ende Schiffer und Kahn;

Und das hat mit ihrem Singen

Die Loreley getan.

 

Một bản tiếng Anh (tham khảo):

The Lorelei

Heinrich Heine (1797-1856)

 

I know not if there is a reason

Why I am so sad at heart.

A legend of bygone ages

Haunts me and will not depart.

 

The air is cool under nightfall.

The calm Rhine courses its way.

The peak of the mountain is sparkling

With evening's final ray.

 

The fairest of maidens is sitting

Unwittingly wondrous up there,

Her golden jewels are shining,

She's combing her golden hair.

 

The comb she holds is golden,

She sings a song as well

Whose melody binds an enthralling

And overpowering spell.

 

In his little boat, the boatman

Is seized with a savage woe,

He'd rather look up at the mountain

Than down at the rocks below.

 

I think that the waves will devour

The boatman and boat as one;

And this by her song's sheer power

Fair Lorelei has done.

 

Một bản tiếng Pháp (tham khảo):

La Lorelei

Heinrich Heine (1797-1856)

 

Je ne sais dire d'où me vient

La tristesse que je ressens.

Un conte des siècles anciens

Hante mon esprit et mes sens.

 

L'air est frais et sombre est le ciel,

Le Rhin coule paisiblement

Les sommets sont couleur de miel

Aux rayons du soleil couchant.

 

Là-haut assise est la plus belle

Des jeunes filles, une merveille.

Sa parure d'or étincelle,

Sa chevelure qu'elle peigne

 

Avec un peigne d'or est pareille

Au blond peigne d'or du soleil,

Et l'étrange chant qu'elle chante

Est une mélodie puissante.

 

Le batelier sur son esquif

Est saisi de vives douleurs,

Il ne regarde pas le récif,

Il a les yeux vers les hauteurs.

 

Et la vague engloutit bientôt

Le batelier et son bateau…

C'est ce qu'a fait au soir couchant

La Lorelei avec son chant.

 

Chú thích của người dịch:

(1) Clemens Wenzeslaus Brentano de La Roche (1778-1842): Nhà văn, nhà thơ đại diện quan trọng của trường Lãng mạn Heidelberg.

(2) Theodor W. Adornor (1903-1969): Nhà triết học, xã hội học, nhà lý thuyết âm nhạc và soạn nhạc. Adorno gây ảnh hưởng bởi tư duy phê phán xã hội. Cùng với Max Horkheimer, Adornor thuộc về các đại diện chính của Trường phái Frankfurt và Lý thuyết phê phán.

Hans-Ulrich Treichel (sinh năm 1952): Nhà ngữ văn Đức và nhà văn, nhận các giải thưởng có thể kể Giải thưởng Hermann Hesse, Giải thưởng Văn học Eichendorf và Giải thưởng phê bình Đức.

Heinrich Heine (1797-1856): Nhà thơ, nhà văn và nhà báo, tác gia hàng thi hào Đức, đại diện cuối cùng và là người vựợt bỏ trào lưu Lãng mạn, có thi phẩm được phổ nhạc và dịch ra tiếng nước ngòai nhiều nhất. Độc giả Việt Nam biết tới và yêu mến Heinrich Heine ngay từ tập thơ đầu tiên gồm nhiều bản dịch từ tiếng Pháp của các nhà thơ Việt Nam, có thể kể Tế Hanh, Hoàng Trung Thông, Đào Xuân Quý.

 

©® Phạm Kỳ Đăng và Văn Việt