Danh ngôn

Trong mọi cộng đồng, chúng ta cần một nhóm thiên thần gây rối.

We need, in every community, a group of angelic troublemakers.

(Bayard Rustin – trích bài phát biểu tại New York City 1963)

Trong mọi trường hợp, chắc chắn rằng sự thiếu hiểu biết, đi kèm với quyền lực, là kẻ thù tàn bạo nhất có thể có của công lý.

It is certain, in any case, that ignorance, allied with power, is the most ferocious enemy justice can have.

(James Baldwin - No Name in the Street 1972)

Các cuộc cách mạng và các cá nhân có thể bị giết hại, nhưng bạn không thể giết chết các ý tưởng.

While revolutionaries and individuals can be murdered, you cannot kill ideas.

(Thomas Sankara, một tuần trước khi bị ám sát, 1987)

Không có cảm giác nào cô đơn hơn việc bị chính đất nước mình trục xuất.

There's not a more lonely feeling than to be banished by my own country.

(Kiyo Sato – Kiyo’s Story 2009)

Ban Biên tập

Địa chỉ liên lạc:

1. Thơ

tho.vanviet.vd@gmail.com

2. Văn

vanviet.van14@gmail.com

3. Nghiên cứu Phê Bình

vanviet.ncpb@gmail.com

4. Vấn đề hôm nay

vanviet.vdhn1@gmail.com

5. Thư bạn đọc

vanviet.tbd14@gmail.com

6. Tư liệu

vanviet.tulieu@gmail.com

7. Văn học Miền Nam 54-75

vanhocmiennam5475@gmail.com

Tra cứu theo tên tác giả

Thứ Bảy, 19 tháng 2, 2022

Hiện đại hóa, sự Thay đổi Văn hóa, và Dân chủ: Trình tự Phát triển Con Người (kỳ 8)

Donald InglehartChristian Welzel

Nguyễn Quang A dịch

NXB Dân Khí – 2022

Nguyên bản: Modernization, Cultural Change, and Democracy: The Human Development Sequence. Cambridge University Press, 2005.

undefined

 

5. Các sự Thay đổi Giá trị theo Thời gian

Trong Chương 4, chúng ta đã tìm thấy các sự khác biệt lớn giữa thế hệ liên kết với chiều các giá trị sinh tồn/tự-thể hiện – nhưng chúng ta đã không tìm thấy chúng ở mọi nơi. Trong các nền dân chủ hậu công nghiệp và nhóm tây phương của các xã hội nguyên-cộng sản, những người trẻ chắc có khả năng nhấn mạnh các giá trị tự-thể hiện hơn những người già nhiều; các sự khác nhau nhỏ hơn theo tuổi được tìm thấy trong các xã hội đang phát triển và trong nhóm nguyên-cộng sản đông phương; và ít hay không sự khác biệt giữa thế hệ nào được tìm thấy trong các xã hội thu nhập-thấp. Nếu các sự khác biệt giữa thế hệ này báo trước các sự dịch chuyển dài hạn tới sự nhấn mạnh tăng lên đến các giá trị tự-thể hiện trong các xã hội hậu công nghiệp, thì chúng có các hệ lụy quan trọng. Vì (như nửa thứ hai của cuốn sách này chứng minh) sự nhấn mạnh tăng lên đến các giá trị tự-thể hiện liên kết với các nhu cầu quần chúng tăng lên cho dân chủ nơi nó chưa tồn tại, và áp lực gia tăng để làm sâu sắc nền dân chủ ở nơi nó tồn tại rồi.

Các giá trị duy vật/hậu duy vật là một thành phần chủ chốt của chiều sinh tồn/tự-thể hiện, và, như chúng ta vừa thấy, các sự khác biệt lớn liên quan-đến tuổi được tìm thấy với các giá trị này trong 1970 thực sự đã tiên đoán các sự thay đổi dài hạn về các giá trị thịnh hành của các xã hội hậu công nghiệp. Hình mẫu này có đúng tổng quát hơn, với các sự khác biệt theo tuổi liên kết với các giá trị sinh tồn/tự-thể hiện tiên đoán các sự thay đổi xã hội dài hạn? Như chúng ta sẽ thấy, chúng có. Hãy xem xét các sự thay đổi theo thời gian được tìm thấy với các thành phần khác của chiều sinh tồn/tự-thể hiện, bắt đầu với thành phần tham gia của nó.

Sự lên của Hành động Công dân Thách thức-Elite

Hơn 25 năm trước, Inglehart (1977: 5, 317–21) đã tiên đoán các tỷ lệ giảm sút của sự huy động chính trị do elite-chỉ huy và các tỷ lệ tăng lên của hoạt động quần chúng thách thức-elite giữa các công chúng Tây phương. Một lý do cho sự tiên đoán này đã là sự dịch chuyển giữa thế hệ từ các giá trị duy vật sang hậu duy vật mà chúng ta vừa xem xét: các nhà duy vật có khuynh hướng bận tâm với việc thỏa mãn các nhu cầu sinh tồn trực tiếp, trong khi đó các nhà hậu-duy vật cảm thấy tương đối an toàn về các nhu cầu sinh tồn và có nhiều năng lượng tâm thần hơn để đầu tư vào các mối quan tâm khác. Lưu ý rằng khắp các xã hội công nghiệp tiên tiến, các nhóm sinh trẻ hơn cũng có các mức kỹ năng chính trị cao hơn các nhóm tuổi già hơn, ông đã kết luận rằng các quá trình thay đổi giá trị và huy động nhận thức có khuynh hướng đi cùng nhau: các công chúng này đang đặt giá trị tăng lên đến sự tự-thể hiện, và các mức kỹ năng tăng lên của họ cho phép họ tham gia vào chính trị ở một mức cao hơn, định hình các quyết định tác động đến đời họ hơn là đơn giản giao phó chúng cho các elite. Sau đó, phân tích dữ liệu về hoạt động chính trị thách thức-elite, Inglehart (1990: 361–62) đã thấy rằng

các nhà hậu-duy vật có khả năng để tham gia vào phản kháng chính trị không theo quy ước hơn các nhà duy vật. Hơn nữa, các giá trị của người ta tương tác với sự huy động nhận thức theo một cách mà tại các mức cao của sự huy động nhận thức, các sự khác biệt giữa các kiểu giá trị được phóng to một cách đáng kể.... Giữa những người với các giá trị duy vật và các mức huy động nhận thức thấp, chỉ 12 phần trăm đã tham gia, hay sẵn sàng tham gia vào một cuộc tẩy chay hay hoạt động khó khăn hơn. Giữa các nhà hậu-duy vật với các mức huy động nhận thức cao, 74 phần trăm đã làm vậy hay sẵn sàng tham gia. Quá trình huy động nhận thức có vẻ làm tăng khả năng cho hoạt động chính trị thách thức-elite giữa các công chúng Tây phương.

Tiên đoán này đã có vẻ gây ngạc nhiên bởi vì trong nhiều năm tỷ lệ cử tri đi bầu đã giảm sút khắp các xã hội hậu công nghiệp, và đã có sự suy đoán rộng rãi rằng vốn xã hội giảm sút đang tạo ra các công chúng trì trệ về mặt chính trị (Putnam, 2000). Chúng tôi không đồng ý với sự chẩn đoán này (cho một phê phán, xem Boggs, 2001). Thay vào đó, chúng tôi tìm thấy hai xu hướng phân kỳ. Một mặt, các hình thức bị quan liêu hóa và do elite-chỉ huy của sự tham gia như bỏ phiếu và tư cách thành viên đảng chính trị đã giảm; nhưng các hình thức được thúc đẩy nội tại, bày tỏ, và thách thức-elite của sự tham gia đã tăng lên đầy kịch tính. Quá trình này phán ánh bản chất thay đổi của vốn xã hội: vốn xã hội đã không xói mòn mà lấy một hình thức mới, dẫn đến các kiểu thay đổi của hành động tập thể. Trong xã hội công nghiệp, các khối đông người bị kiểm soát bởi các đảng chính trị và các bộ máy thứ bậc, mà đã diễu hành họ đến các nơi bỏ phiếu theo cách có kỷ luật, để cho các elite đưa ra các quyết định cụ thể từ đó trở đi. Mọi người đang ngày càng trực tiếp bày tỏ các sở thích của họ về các vấn đề cụ thể như sự phá thai, các quyền của phụ nữ và những người đồng tính, sự tham nhũng elite, và các vấn đề môi trường. Mặc dù các vấn đề này là đặc thù, chúng có sự xác đáng tượng trưng rộng, trình bày các mối quan tâm phong cách sống của các xã hội ngày càng nhân văn.

Barnes, Kaase, et al. (1979) đã tiên đoán sự lan ra của cái khi đó được gọi là “sự tham gia chính trị không quy ước.” Họ đã phát triển các thang để đo cả hoạt động chính trị “quy ước”, như bỏ phiếu và viết cho đại diện của người ta trong quốc hội; và hoạt động chính trị “không quy ước”, như các cuộc biểu tình, các cuộc tẩy chay, và sự chiếm giữ các tòa nhà. Thấy rằng các hình thức “không quy ước” của hành động chính trị đã tương quan mạnh với các giá trị hậu duy vật và phổ biến giữa các nhóm sinh trẻ hơn là giữa các nhóm sinh già, họ đã tiên đoán rằng hành động chính trị “không quy ước” sẽ trở nên phổ biến: “Chúng tôi diễn giải sự tăng lên này về khả năng cho phản kháng là một đặc trưng lâu dài của các công chúng dân chủ số đông và không chỉ như một sự trào dâng đột ngột về sự tham gia chính trị nhất thiết tàn phai đi khi thời gian trôi đi” (Barnes, Kaase, et al., 1979: 524).

Một phần tư thế kỷ sau, là rõ rằng họ đã đúng, ngược với các giả thiết phổ biến về sự suy tàn của chủ nghĩa hoạt động (activism) công dân và chính trị ở các xã hội hậu công nghiệp, được mô tả như một “cuộc khủng hoảng dân chủ” (Pharr and Putnam, 2000). Các lý thuyết khủng-hoảng-dân-chủ từ lâu đã tiên đoán sự yếu đi của các nền dân chủ đại diện, và cuối cùng sự yếu đi của vai trò của các công dân, trong các quốc gia Tây phương. Gần đây nhất, Putnam and Goss (2002: 4) đã cho rằng

một cách mỉa mai – đúng vào thời khắc của thắng lợi lớn nhất của dân chủ tự do cũng có sự bất hạnh về thành tích của các định chế xã hội chính, kể cả các định chế của chính phủ đại diện, giữa các nền dân chủ lâu đời của Tây Âu, Bắc Mỹ, và Đông Á. Chí ít tại Hoa Kỳ, có lý do để nghi rằng một số tiền đề xã hội và văn hóa cơ bản cho nền dân chủ hiệu quả có thể đã xói mòn trong các thập niên gần đây, kết quả của một quá trình từ từ nhưng phổ biến của sự giải-can-dự công dân (civic disengagement).

Bất chấp các tiên đoán này, dữ liệu chuỗi-thời gian từ các khảo sát Hành động Chính trị (Barnes, Kaase, et al., 1979) cùng với dữ liệu từ bốn đợt của các Khảo sát Giá trị, chứng minh rằng một sự tăng lên đáng kể về hành động quần chúng thách thức-elite đã xảy ra, nhiều đến mức các kiến nghị, các cuộc biểu tình, các cuộc tẩy chay, và các hình thức khác của các hành động thách thức-elite không còn là phi quy ước nữa mà đã trở thành các hành động ít nhiều bình thường cho phần lớn công dân của các quốc gia hậu công nghiệp. Chúng tôi không tìm thấy một hình mẫu phổ biến của sự giải-can-dự công dân, hoặc ở Hoa Kỳ hay ở nơi khác.[1] Cái chúng tôi tìm thấy là phức tạp hơn.

Các phát hiện của chúng tôi phủ nhận các xác nhận rằng các công chúng của các xã hội hậu công nghiệp đang giải-can-dự bản thân khỏi đời sống công dân nói chung. Các xác nhận này chỉ đúng một phần. Chúng tôi đồng ý một cách nhấn mạnh rằng Putnam (2000) đã đúng trong việc cho rằng mọi người đang bỏ rơi các tổ chức như Elks, Moose, và các liên đoàn bowling. Hầu như tất cả các tổ chức kiểu-cổ có thứ bậc do elite-chỉ huy như các nghiệp đoàn lao động và các nhà thờ đang mất các thành viên. Số thành viên trong các đảng chính trị đang giảm mạnh (Dalton and Wattenberg, 2000). Các bộ máy chính trị thành phố lớn đã mất sự kiểm soát các khối cử tri trung thành một thời đáng tin cậy, vì thế tỷ lệ cử tri đi bàu trì trệ hay giảm (Wattenberg, 1996). Tương tự, có sự tin tưởng suy giảm vào chính phủ, vào các định chế dựa vào nhà nước, và vào các tổ chức quy mô lớn giữa các công chúng của các nền dân chủ giàu nhất (xem Nye, Zelikow, and King, 1997; Norris, 1999; Dalton, 2000). Các công chúng của các xã hội hậu công nghiệp đang trở nên phê phán quyền uy được thể chế hóa nói chung, và quyền lực chính trị nói riêng, và chắc ít có khả năng trở thành các thành viên của các tổ chức bị quan liêu hóa. Bởi vì các tổ chức như vậy giữ các danh sách thành viên, một hồ sơ thành văn sẵn có để cho thấy một xu hướng phần lớn đi xuống. Nhưng đấy chỉ là một mặt của đồng xu.

Cùng các công chúng này đang trở nên có khả năng hơn để tham gia vào các loại hành động mà không để lại các danh sách thành viên, bởi vì chúng là các hành động thách thức-elite nổi lên từ các mạng công dân liên kết lỏng lẻo nhưng trải rộng. Công chúng không rút lui khỏi hoạt động công dân theo nghĩa rộng này. Hoàn toàn ngược lại, sự dịch chuyển tới các mức tăng lên của các hành động thách thức-elite được tiên đoán hơn 25 năm trước đã xảy ra trong hầu như mọi xã hội hậu công nghiệp. Xu hướng này không cho biết một sự xói mòn vốn xã hội nói chung mà một sự thay đổi về bản chất của vốn xã hội, sự dịch chuyển từ các ràng buộc được áp đặt bên ngoài dựa vào các cơ chế kiểm soát xã hội sang các mối quan hệ được chọn một cách tự trị, mà bản thân người dân tạo ra. Tư cách thành viên nhà thờ và tư cách thành viên nghiệp đoàn, phần lớn, được quyết định bởi di sản tôn giáo hay giai cấp xã hội của người ta; việc tham gia vào một nhóm bảo vệ môi trường hay một sáng kiến các quyền dân sự thường phản ánh một sự lựa chọn tự trị. Việc hòa nhập vào các xã hội hậu công nghiệp là sự dịch chuyển từ “các cộng đồng bắt buộc” sang “các mối quan hệ lựa chọn” (U. Beck, 2002).

Các hình thức do elite-chỉ huy của hành động quần chúng, như bỏ phiếu và đi nhà thờ, đã trì trệ hay suy giảm, nhưng các hình thức thách thức-elite của hành động công dân đã trở nên ngày càng phổ biến. Các mạng liên kết lỏng lẻo điều phối các hành động này không giữ các danh sách thành viên cố định. Các tỷ lệ tham gia của chúng không được ghi lại trừ phi ai đó thực hiện các khảo sát để đo chúng một cách chủ động. May thay, các khảo sát Hành động Chính trị, cùng với các Khảo sát Giá trị, đã làm đúng việc này, và các kết quả rõ ràng phủ định thẳng thừng hình ảnh về một công chúng ngày càng không-dấn-thân (disengaged). Hóa ra là các công chúng của Hoa Kỳ và các xã hội hậu công nghiệp khác đang ít có khả năng trở thành những người đi theo trung thành của các tổ chức bị đầu sỏ chính trị kiểm soát, nhưng có khả năng hơn nhiều để tham gia vào các hành động bày tỏ sự phản đối các quyết định elite.

Một sự thay đổi lớn đang xảy ra, được đặc trưng không phải bởi một xu hướng tới sự trơ lỳ công dân mà bởi một sự dịch chuyển giữa thế hệ từ sự tham gia do elite-chỉ huy tới sự tham gia thách thức-elite. Khi các nhóm tuổi trẻ hơn, có giáo dục hơn, và hậu-duy vật hơn thay thế các nhóm tuổi già hơn trong dân cư trưởng thành, sự thay thế dân cư giữa thế hệ đang mang lại một sự dịch chuyển tới các công chúng ngày càng tự-quyết đoán và bày tỏ.

Sự thay đổi công dân được thúc đẩy không chỉ bởi một mình sự thay đổi văn hóa. Nó tương tác với sự phát triển kinh tế, xã hội, và chính trị trong xã hội cho trước đó. Như chúng tôi đã vừa chứng minh, sự dịch chuyển tới các giá trị hậu duy vật phản ánh cả một sự dịch chuyển dài hạn giữa thế hệ và các tác động thời kỳ ngắn hạn. Các cuộc suy thoái mang lại một sự dịch chuyển tới chủ nghĩa duy vật giữa tất cả các nhóm tuổi, nhưng với sự thịnh vượng quay lại, các nhóm tuổi tương ứng phục hồi nhanh chóng để trở nên hậu-duy vật như xưa.

Chúng tôi kỳ vọng các sự thay đổi văn hóa cơ bản này làm tăng khả năng cho sự tham gia quần chúng vào các hành động thách thức-elite. Nhưng mọi người không phản kháng trong chân không: họ phản ứng với các vấn đề hiện thời, như chiến tranh hay hòa bình, sự thịnh vượng hay sự sụp đổ kinh tế, các ý thức hệ của các đảng chính trị cụ thể, và tính cách của các nhà lãnh đạo cho trước.

Vì vậy, chúng ta kỳ vọng các xu hướng dài hạn này, dựa vào sự thay thế dân cư giữa thế hệ, và các tác động thời kỳ ngắn hạn sẽ tiếp tục. Sự thay thế dân cư giữa thế hệ là một lực dài hạn hoạt động theo một hướng nhất quán và có thể đoán trước trong nhiều thập niên, nhưng tác động của nó tại bất cứ thời gian cho trước nào được tăng hay bị giảm bởi các sự kiện kinh tế và chính trị hiện thời. Hãy kiểm định các kỳ vọng này sử dụng dữ liệu từ các Khảo sát Giá trị từ 1981 đến 1999–2001. Bởi vì giai đoạn này gồm sự sụp đổ của chủ nghĩa cộng sản và làn Sóng dân chủ hóa thứ Ba lên đỉnh điểm trong 1987–1995, chúng ta đối phó với một thời đại trong đó chúng ta có thể kỳ vọng một số các tác động thời kỳ đầy kịch tính. Các cuộc chuyển đổi sang dân chủ đã xảy ra trong hàng chục nước. Các sự chuyển đổi sang dân chủ này được thúc đẩy ở mức độ đáng kể bởi hành động quần chúng thách thức-elite (Bernhard, 1993; Foweraker and Landman, 1997). “Sức mạnh Nhân dân” đã giúp đưa các chế độ dân chủ lên nắm quyền trong nhiều nước từ Đông Á đến Mỹ Latin và đặc biệt rõ ràng trong sự sụp đổ của các chế độ cộng sản – nhất là trong nhóm tây phương của các xã hội nguyên-cộng sản (L. Diamond, 1993a; Paxton, 2002). Nhưng trong hậu quả của các sự chuyển đổi này, ta tìm thấy các tác động “sau-tuần lễ trăng mật” (Inglehart and Catterberg, 2003). Các chuyển đổi sang dân chủ là các thời đặc biệt của sự huy động quần chúng – trong các nước cộng hòa Baltic, chẳng hạn, hầu như toàn bộ dân cư đã ở trên đường phố trong năm 1990. Khi nhu cầu cho sự tham gia rút xuống sau một sự chuyển đổi thành công và khi sự phởn phơ dân chủ hóa mất dần, chúng ta kỳ vọng tìm thấy các mức giảm sút của sự tham gia quần chúng, đặc biệt ở các nước nơi dân chủ hóa đã mang lại sự vỡ mộng nghiêm trọng.

Các động lực của các chuyển đổi dân chủ huy động sự ủng hộ quần chúng cho dân chủ. Tuy vậy, khá thường xuyên, sự ủng hộ quần chúng cho dân chủ không được thúc đẩy một cách nội tại mà phản ánh các động cơ phương tiện, như niềm tin rằng dân chủ sẽ mang lại sự thịnh vượng giống sự thịnh vượng của các nền dân chủ lâu đời. Sự ủng hộ dân chủ được thúc đẩy nội tại nếu nhân dân quý trọng các quyền tự do dân sự và chính trị của dân chủ như các mục đích tự chúng. Các giá trị tự-thể hiện cung cấp một động cơ thúc đẩy nội tại như vậy bởi vì chúng đặt giá trị cao lên các quyền tự do dân sự và chính trị mà là cốt yếu cho sự tự-thể hiện tự do. Nhưng trong nhiều xã hội, sự ủng hộ công khai cho dân chủ là mạnh mặc dù các giá trị tự-thể hiện không phổ biến. Trong các trường hợp này, mọi người ủng hộ dân chủ trước hết vì các động cơ phương tiện hơn là vì các quyền tự do vốn có trong nền dân chủ (xem Hofferbert and Klingemann, 1999). Loại ủng hộ phương tiện này là dễ bị tổn thương nếu chuyển đổi sang dân chủ mang lại các kết quả thất vọng (xem Chương 11 cho một sự xác nhận tính hợp lệ của điểm này). Sự vỡ mộng với các kết quả trực tiếp của nó có thể dẫn đến sự ủng hộ giảm sút cho dân chủ, nếu sự ủng hộ dân chủ không bén rễ một cách nội tại vào các giá trị tự-thể hiện.

Trong làn Sóng dân chủ hóa thứ Ba, một niềm tin công khai phổ biến – thường được củng cố bởi diễn ngôn elite – rằng dân chủ không chỉ cung cấp quyền tự do mà cũng cải thiện sự an lạc kinh tế đã là một nhân tố cốt yếu trong sự ủng hộ quần chúng công khai tăng lên cho dân chủ đến các mức cao chưa từng thấy, ngay cả trong các xã hội với các mức thấp của các giá trị tự-thể hiện. Nếu nền kinh tế sau đó có thành tích xấu, sự vỡ mộng với dân chủ xảy ra. Hơn nữa, kinh nghiệm của việc sống dưới một chế độ độc đoán gây ra các kỳ vọng phi thực tế về dân chủ và chính trị dân chủ: “Các kỳ vọng giữa các nhà hoạt động đã có lẽ không thực tế, hợp nhất một niềm tin quá lý tưởng vào ảnh hưởng thật từ bên dưới… [Tuy nhiên] Chính trị như được tiến hành, trong con mắt của nhiều người, không làm việc cho nhân dân” (Rueschemeyer, Rueschemeyer, and Wittrock, 1998: 101–2).

Nếu sự ủng hộ dân chủ trước hết dựa vào các kỳ vọng chính sách cao phi thực tế hơn là một sự đánh giá cao một cách nội tại của sự lựa chọn tự do, nó có thể mang lại sự thất vọng tăng lên giữa những người trở nên tích cực trong các chuyển đổi dân chủ. Một sự trái ngược tăng lên giữa các kỳ vọng và thực tế đã dẫn đến sự vỡ mộng trong nhiều nền dân chủ mới, nhất là ở nơi các chế độ mới có thành tích tồi. Mặt khác, các giá trị tự-thể hiện tương đối mạnh cung cấp sự ủng hộ nội tại cho dân chủ, mà có khuynh hướng kéo dài cho dù các kết cục chính sách của chế độ mới gây thất vọng.[2] Như thế, sự vỡ mộng với dân chủ đã phổ biến trong các xã hội nguyên-cộng sản đông phương và nhiều xã hội Mỹ Latin, nhưng không trong nhóm tây phương của các xã hội nguyên-cộng sản. Trong nhóm trước, như chúng ta sẽ thấy, các kết cục chính sách gây thất vọng đã hạ thấp đột ngột các kỳ vọng về hiệu quả của sự tham gia dân chủ và đã dẫn đến sự rút lui khỏi các mức cao không bình thường của sự tham gia thách thức-elite mà đã giúp mang lại sự chuyển đổi sang dân chủ.

Sự phản kháng chính trị không đơn giản là một hàm của việc bao nhiêu người phàn nàn về nó một cách khách quan. Nếu giả như thế, thì các hoạt động phản kháng sẽ là cao nhất trong các xã hội nghèo nhất và thấp nhất trong các nước giàu, nhưng chính xác điều ngược lại là đúng. Trong các xã hội thu nhập-thấp, sự thất vọng thường dẫn đến sự cam chịu và sự không-dấn-thân (disengagement). Nhưng nếu sự thất vọng được gắn với một sự nhấn mạnh phổ biến đến các giá trị tự-thể hiện, nó chắc có khả năng gây ra hành động quần chúng thách thức-elite hiệu quả. Thật mỉa mai, cái một số nhà công xã chủ nghĩa khuyến nghị như phương thuốc chữa trị cho sự không-dấn-thân công dân, một sự dịch chuyển xa khỏi các giá trị tự-thể hiện, thực sự sẽ gây ra sự không-dấn-thân công dân.

Công chúng Nga, chẳng hạn, bày tỏ sự quan ngại lớn về mức tham nhũng giữa các elite của đất nước. Nhưng các giá trị tự-thể hiện tương đối yếu ở Nga (và các xã hội hậu-Soviet khác) không thúc đẩy mọi người bày tỏ sự thất vọng của họ trong các hành động quần chúng thách thức-elite kéo dài. Ngược lại, tại Bỉ – một nước ít tham nhũng hơn Nga rất nhiều – các vụ bê bối chính trị trong cuối các năm 1990 đã gây ra một sự huy động quần chúng khổng lồ trong Phong trào Diễu hành Trắng (Walgrave and Manssens, 2000). Sự trái ngược này trong các phản ứng quần chúng với thất bại chính sách và hành vi elite đồi bại là không ngẫu nhiên: công chúng Bỉ đặt sự nhấn mạnh lên các giá trị tự-thể hiện mạnh hơn công chúng Nga rất nhiều. Các phản ứng quần chúng với thất bại elite không đơn giản là một hàm của độ lớn khách quan của các thất bại này mà là hàm của tính phê phán công chúng, mà tăng lên với các giá trị tự-thể hiện tăng lên. Đấy là vì sao hành động quần chúng thách thức-elite là một thành phần trung tâm của hội chứng các giá trị tự-thể hiện.

Như thế, chúng ta kỳ vọng để tìm thấy một xu hướng dài hạn tới các tỷ lệ tăng lên của hành động quần chúng thách thức-elite trong các nền dân chủ lâu đời, nhất là các nền dân chủ với các mức cao của các giá trị tự-thể hiện. Ngược lại, trong các nền dân chủ mới nổi lên trong làn Sóng thứ Ba, chúng ta kỳ vọng một sự giảm sút hậu-chuyển đổi của hành động quần chúng thách thức-elite, một phần bởi vì các chuyển đổi dân chủ là thời của sự huy động quần chúng đặc biệt, mà thường tiếp theo bởi một sự lắng xuống các mức bình thường. Tuy vậy, phản ứng ngắn hạn này không chắc trở thành một sự sụt giảm dài hạn về sự tham gia trừ phi các giá trị tự-thể hiện là yếu đến mức mọi người phản ứng với sự thất bại elite bằng sự cam chịu.

BẢNG 5.1a. Tỷ lệ phần trăm những Người đã Ký một Kiến nghị, 1974–2000

image

BẢNG 5.1b. Tỷ lệ phần trăm những Người đã tham gia một cuộc Biểu tình, 1974–2000

image

BẢNG 5.1c. Tỷ lệ phần trăm những Người đã Tham gia một cuộc Tẩy chay Tiêu dùng

image

 

Ngược với các tiên đoán này, nếu trường phái khủng hoảng-dân chủ là đúng trong sự xác nhận của nó về một sự không-dấn-thân công dân tràn lan mở rộng đến tất cả các kiểu tham gia, thì chúng ta phải thấy các tỷ lệ giảm xuống của hành động quần chúng thách thức-elite ở tất cả các nền dân chủ lâu đời, đặc biệt ở nơi các giá trị tự-thể hiện là tương đối mạnh. Vì những người chủ trương luận đề khủng hoảng-dân chủ quy nguyên nhân của cái được cho là sự không-dấn-thân công dân, cho xu hướng cá nhân hóa, liên kết với sự nhấn mạnh tăng lên đến các giá trị tự-thể hiện (xem Lawler and McConkey, 1998; Putnam, 2000; Flanagan et al., sắp xuất bản).

Để kiểm định các tiên đoán này, may thay chúng ta có một chuỗi thời gian tương đối dài của dữ liệu khảo sát sẵn có cho phân tích, sử dụng dữ liệu từ các khảo sát Hành động Chính trị 1974 và bốn đợt của các Khảo sát Giá trị. Hãy bắt đầu với việc xem xét các sự thay đổi trong phản ứng với 5 số đo của hành động thách thức-elite được phát triển trong khảo sát Hành động Chính trị và được lặp lại trong các Khảo sát Giá trị.

Các Bảng 5.1a–c cho thấy tỷ lệ phần trăm của công chúng nói rằng họ đã thực sự can dự vào các hình thức khác nhau của hành động quần chúng thách thức-elite ở mỗi trong 8 nền dân chủ Tây phương được khảo sát trong nghiên cứu Hành động Chính trị 1974 và cả hành vi này đã thay đổi thế nào trong một phần tư thế kỷ tiếp theo. Bảng 5.1a cho thấy tỷ lệ phần trăm kể lại việc ký một kiến nghị.[3] Bên ngoài Hoa Kỳ việc này đã vẫn là một hành động tương đối hiếm trong 1974: ngang 8 nước, một trung bình chỉ 32 phần trăm đã thuật lại việc ký một kiến nghị (với các con số trải từ một mức thấp 17 phần trăm ở Italy đến mức cao 60 phần trăm ở Hoa Kỳ). Trong hai mươi lăm năm tiếp theo, tỷ lệ phần trăm xác nhận đã ký một kiến nghị đã tăng lên ở mỗi trong 8 xã hội và sự tăng lên đã đầy kịch tính. Toàn bộ, tỷ lệ phần trăm hầu như đã tăng gấp đôi, từ 32 phần trăm trong 1974 lên 63 phần trăm trong năm 2000. Vào 2000 việc này đã trở thành một hành động bình thường, cái gì đó mà một đa số công chúng trong hầu như mọi nước kể lại đã làm.

Một hình mẫu tương tự áp dụng cho các hình thức khác của hành động chính trị mà các Bảng 5.1b và 5.1c cung cấp bằng chứng. Tại mọi nước trong số 8 nước mà chúng tôi có dữ liệu dài hạn, tỷ lệ phần trăm kể lại việc tham gia vào một cuộc biểu tình đã tăng từ 1974 đến 2000. Như Bảng 5.1b chứng minh, toàn bộ tỷ lệ phần trăm xác nhận tham gia vào một cuộc biểu tình đã tăng hơn gấp đôi, tăng từ 9 phần trăm trong 1974 lên 21 phần trăm trong 2000. Tỷ lệ phần trăm kể lại sự tham gia vào một cuộc tẩy chay tiêu dùng cũng đã tăng lên tại mỗi trong 8 nước này (Bảng 5.1c). Toàn thể, việc tẩy chay cũng tăng hơn gấp đôi, tăng từ 6 phần trăm trong 1974 lên 15 phần trăm trong 2000. Chúng tôi có dữ liệu về ba kiểu hành động thách thức-elite ngang 8 xã hội, tạo ra 24 kiểm định. Trong số chúng, chúng tôi tìm thấy sự tăng lên được tiên đoán trong tất cả 24 trường hợp. Xu hướng thuần là hướng tới các tỷ lệ tăng lên của hành động quần chúng thách thức-elite – không có ngoại lệ.

Sự tăng lên về hành động thách thức-elite là một xu hướng áp đảo tới hành động công dân: các hành động quần chúng bạo lực ít được ủng hộ rộng rãi hơn nhiều và không cho thấy một sự tăng lên nhất quán. Các Bảng A-7a và A-7b trong Phụ lục Internet[4] minh họa điểm này, cho thấy các tỷ lệ phần trăm nói, một cách tương ứng, rằng họ đã tham gia trong một cuộc đình công không chính thức và nói họ đã chiếm các tòa nhà. Đấy đã vẫn là các hoạt động không quy ước ngay cả trong 2000, và số người tham gia chúng đã rất nhỏ.

Sự tăng lên của các hành động thách thức-elite không phải là phổ quát. Lý thuyết của chúng tôi cho rằng các tỷ lệ tăng lên của hành động thách thức-elite là một thành phần của một sự dịch chuyển văn hóa từ các giá trị sinh tồn tới các giá trị tự-thể hiện. Sự dịch chuyển này không phải là phổ quát nhưng liên kết với các mức phát triển kinh tế xã hội cao, như thế nó chắc có khả năng hơn nhiều để được thấy trong các nước giàu, hơn là trong các nước nghèo. Tất cả 8 xã hội mà chúng tôi có dữ liệu từ 1974 đều là các nước thu nhập cao (như là điển hình trong thời đó). Các Khảo sát Giá trị, mà cung cấp dữ liệu từ một dải rộng hơn nhiều của các nước (tuy cho một khoảng thời gian ngắn hơn), giúp bổ sung cho bức tranh. Bảng A-8 trong Phụ lục Internet cho thấy các sự thay đổi về tỷ lệ phần trăm của những người trả lời nói họ đã ký một kiến nghị, ngang tất cả 50 xã hội mà chúng tôi có dữ liệu từ nhiều hơn một điểm thời gian. Hình thức này của hành động chính trị đã tăng lên trong 30 xã hội này và đã giảm tại 19 trong số chúng.

image

HÌNH 5.1. Các giá trị tự-thể hiện và các sự thay đổi về mức của các hành động thách thức-elite, từ khảo sát sẵn có sớm nhất đến gần đây nhất.

Hình mẫu còn xa mới ngẫu nhiên. Như Hình 5.1 cho biết, mức các giá trị tự-thể hiện của một xã hội cho trước giải thích một phần lớn của sự thay đổi của nó về hành động thách thức-elite: mức các giá trị tự-thể hiện càng cao, sự tăng sau đó về hành động quần chúng thách thức-elite càng lớn – trong cả các nền dân chủ cũ và mới.[5] Như gần như luôn luôn thế, các tác động thời kỳ cũng có mặt. Sự tăng dốc đứng đặc biệt của Bỉ, chẳng hạn, phản ánh Phong trào Diễu hành Trắng, một phản ánh quần chúng mạnh với các vụ bê bối của cuối các năm 1990. Tổng thể, tuy vậy, hình mẫu là rõ ràng. Các sự giảm sau-chuyển đổi về hành động thách thức-elite đã lớn hơn nhiều trong các xã hội với các giá trị tự-thể hiện yếu; chúng là yếu hay hoàn toàn vắng trong các xã hội với các giá trị tự-thể hiện tương đối mạnh. Về khía cạnh này, sự tương phản giữa nhóm tây phương và đông phương của các xã hội nguyên-cộng sản một lần nữa nổi bật hơn. Romania, Bulgaria, và Nga (Russia) có các giá trị tự-thể hiện yếu hơn Cộng hòa Czech, Ba Lan (Poland), và Slovenia; và trong khi các nước trước trải nghiệm các hành động thách thức-elite giảm xuống, các nước sau trải nghiệm sự tăng lên về các hành động thách thức-elite sau khi chuyển đổi.

image

 

HÌNH 5.2. Các thay đổi về tỷ lệ phần trăm của những người trả lời mà đã ký một kiến nghị, trong năm kiểu xã hội.

Như Hình 5.2 minh họa, trong các nền dân chủ hậu công nghiệp tỷ lệ phần trăm xác nhận đã ký một kiến nghị đã tăng đáng kể – từ một trung bình toàn bộ 43 phần trăm trong 1981 lên một trung bình toàn bộ 62 phần trăm trong 1999–2001. Đấy là các xã hội với các giá trị tự-thể hiện mạnh nhất. Các xã hội nguyên-cộng sản Tây phương và các xã hội đang phát triển có các giá trị tự-thể hiện yếu hơn nhưng vẫn tương đối mạnh, mà là thuận lợi cho các hoạt động do sự tự-thể hiện-thúc đẩy, như ký các kiến nghị. Nhưng các xã hội này gần đây đã trải qua sự chuyển đổi dân chủ, mà được kỳ vọng tiếp theo bởi một sự giảm sau-chuyển đổi về các hoạt động này. Hai xu hướng có vẻ khử lẫn nhau, như thế không xu thế toàn bộ rõ nào có thể quan sát được trong các xã hội nguyên-cộng sản tây phương và đang phát triển.

Ngoại trừ các nền dân chủ hậu công nghiệp, chỉ nhóm đông phương giữa các xã hội nguyên-cộng sản cho thấy một xu hướng nổi bật về ký kiến nghị – trong trường hợp này, một sự giảm mạnh từ 26 phần trăm trong 1990 xuống 11 phần trăm trong 2000. Sự giảm này phản ánh sự kết hợp của một sự giảm hậu-chuyển đổi của các hành động thách thức-elite và sự thiếu các giá trị tự-thể hiện mạnh.

Các xu hướng tìm thấy với việc ký kiến nghị áp dụng cho hành động quần chúng thách thức-elite rộng hơn. So sánh các sự thay đổi từ hai khảo sát sớm hơn với hai khảo sát mới nhất, về tỷ lệ phần trăm những người đã tham gia trong ít nhất một trong năm loại hành động thách thức-elite, chúng tôi tìm thấy các sự tăng lên trong tất cả 17 nền dân chủ giàu có[6] mà sẵn có dữ liệu.

Các nền dân chủ mới, ngược lại, cho thấy một hình mẫu hỗn hợp. So sánh các sự thay đổi xảy ra từ thời kỳ trước hay trong chuyển đổi sang dân chủ với một thời kỳ sau khi chuyển đổi, chúng tôi có dữ liệu “trước khi” và “sau khi” cho tổng cộng 15 nền dân chủ.[7] Tại 9 trong số 15 nước này, chúng tôi thấy các sự giảm về hoạt động chính trị thách thức-elite, nhưng độ lớn của sự suy giảm thì thay đổi.[8] Nó là lớn nhất trong nhóm nguyên-cộng sản đông phương, mà có các giá trị tự-thể hiện yếu nhất. Ngược lại, ba xã hội của nhóm nguyên-cộng sản tây phương (Hungary, Ba Lan, và Slovenia) cho thấy các hành động thách thức-elite tăng lên và ba nước khác (Cộng hòa Czech, Slovakia, và Đông Đức) cho thấy các sự giảm chỉ khiêm tốn. Các giá trị tự-thể hiện tương đối mạnh đã cản các công chúng này khỏi có một sự giảm mạnh sau-chuyển đổi về các hành động thách thức-elite.

Các Khía cạnh Khác của sự Dịch chuyển tới các Giá trị Tự-thể hiện

Cả sự dịch chuyển tới chủ nghĩa hậu duy vật và sự lên của hoạt động chính trị thách thức-elite là các thành phần của một sự dịch chuyển rộng hơn tới các giá trị tự-thể hiện mà đang định hình lại các định hướng đối với quyền uy, chính trị, các vai trò giới, và các chuẩn mực tình dục giữa các công chúng của các xã hội hậu công nghiệp. Các nhà hậu-duy vật và những người trẻ là khoan dung sự đồng tính dục hơn các nhà duy vật và những người già một cách rõ rệt, và đấy là phần của một hình mẫu tỏa khắp – sự lên của các chuẩn mực nhân văn nhấn mạnh sự giải phóng con người và sự tự-thể hiện. Các chuẩn mực ủng hộ gia đình hai bố mẹ dị-giới đang yếu đi vì các lý do khác nhau, trải từ sự lên của nhà nước phúc lợi đến sự giảm đột ngột của các tỷ lệ tử vong trẻ sơ sinh. Khi các hình thức hành vi mới nổi lên trệch khỏi các chuẩn mực truyền thống, các nhóm chắc có khả năng nhất để chấp nhận các hình thức hành vi mới này là những người trẻ và những người tương đối an toàn. Các nhà hậu-duy vật được định hình bởi các mức cao của sự an toàn sinh tồn trong các năm hình thành của họ và có thiện chí hơn các nhà duy vật rất nhiều đối với sự phá thai, sự ly dị, ngoại tình, mãi dâm, và sự đồng tính dục.[9] Các nhà duy vật, ngược lại, có khuynh hướng bám chặt vào các chuẩn mực xã hội truyền thống ủng hộ việc nuôi dạy con cái – nhưng chỉ bên trong hệ thuyết (paradigm) sinh tồn truyền thống của gia đình bố mẹ dị-giới, mà được củng cố bởi các chuẩn mực bêu xấu mọi hoạt động tình dục bên ngoài khung khổ đó.

Inglehart (1990: 195), phân tích dữ liệu từ các Khảo sát Giá trị 1981, đã thấy các sự khác biệt lớn theo lứa tuổi về các thái độ đối với những người đồng tính nam, mà đã dẫn ông để tiên đoán các sự thay đổi về các chuẩn mực này:

Trong hầu như mọi xã hội, những người trẻ là khoan dung sự đồng tính dục hơn những người già một cách rõ rệt. Trong mười sáu quốc gia như một toàn thể, nhóm già nhất hầu như chắc có khả năng gấp đôi để nói rằng sự đồng tính dục chẳng bao giờ có thể được biện minh, so với nhóm trẻ.... Tự nó, điều này không chứng minh rằng một sự dịch chuyển giữa thế hệ đang xảy ra. Các sự khác biệt liên quan đến tuổi là nổi bật nhưng chúng có thể phản ánh các tác động vòng đời hơn là sự thay đổi lịch sử dựa vào các tác động nhóm tuổi.... tuy vậy, một sự diễn giải vòng đời có vẻ hết sức bất hợp lý: nó không chỉ ngụ ý rằng những người trẻ sẽ không khoan dung sự đồng tính dục đúng như những người già khi họ già đi; nó cũng ngụ ý rằng trong hầu hết các nước này, đa số những người bây giờ hơn 65 tuổi đã khoan dung sự đồng tính dục hơn 40 hay 50 năm trước. Điều này là cực kỳ ít có khả năng.

Bằng chứng từ các Khảo sát Giá trị làm rõ rằng thái độ quần chúng đối với sự đồng tính dục đã đang thay đổi. Bảng A-9 trong Phụ lục Internet cho thấy các tỷ lệ phần trăm nói rằng sự đồng tính dục chẳng bao giờ có thể được biện minh trong tất cả 51 xã hội mà chúng tôi có dữ liệu từ hai hay nhiều điểm thời gian hơn. Trong thế giới như một toàn thể, các thái độ đối với sự đồng tính dục có khuynh hướng là hết sức bất khoan dung: trong hầu hết các khảo sát này, một đa số dân cư chọn điểm “1” trên một thang 10-điểm nơi “1” có nghĩa nó chẳng bao giờ có thể được biện minh và “10” có nghĩa nó luôn luôn có thể được biện minh. Là rất bất thường để thấy các câu trả lời hết sức bị lệch như vậy trong nghiên cứu khảo sát: chúng phản ánh sự thực rằng, tại điểm này của lịch sử, những người đồng tính là một nhóm ngoài rất không được ưa chuộng trong hầu hết các nước. Nhưng các thái độ đối với sự đồng tính dục đã đang thay đổi nhanh trong hai thập niên qua. Tỷ lệ phần trăm nói rằng sự đồng tính dục là “chẳng bao giờ có thể được biện minh” đã giảm tại bốm mươi hai trong năm mươi mốt xã hội. Các sự thay đổi là đầy kịch tính nhất trong các nước giàu: Hình 5.3 xếp hạng các nước này theo độ lớn tương đối của sự dịch chuyển tới các thái độ khoan dung hơn. Đủ mười bảy trong số mười tám nước cho thấy tỷ lệ dịch chuyển cao nhất là các xã hội “thu nhập-cao,” như được World Bank xác định (ngoại lệ duy nhất đã là Chile). Ngược lại, ba xã hội (Serbia, Montenegro, Croatia) cho thấy các sự giảm lớn nhất về sự khoan dung đã bị phơi ra cho các mối đe dọa sinh tồn đặc biệt trong các cuộc chiến tranh liên kết với sự tan rã của Nam Tư. Điều này phản ánh một xu hướng tràn lan cho sự bất an sinh tồn để tạo ra sự bất khoan dung và sự bài ngoại.

image

HÌNH 5.3. Sự giảm về sự bất khoan dung đồng tính dục trong năm kiểu xã hội.

Các sự khác biệt giữa thế hệ mà Inglehart đã tìm thấy trong dữ liệu 1981 là hiển nhiên rõ ràng trong mẫu lớn hơn nhiều được xem xét ở đây. Như Hình 5.3 chứng minh, các nền dân chủ hậu công nghiệp cho thấy các mức thấp hơn nhiều của sự bất khoan dung so với các kiểu xã hội khác. Chỉ nhóm nguyên-cộng sản tây phương đạt mức khoan dung trong năm 2000 có thể so sánh được với mức mà các nền dân chủ hậu công nghiệp đã đạt rồi trong năm 1981. Các nền dân chủ giàu có cũng cho thấy các sự khác biệt lớn giữa thế hệ hơn các kiểu xã hội khác. Giữa nhóm tuổi già nhất trong các nền dân chủ giàu có, 70 phần trăm nói rằng sự đồng tính dục chẳng bao giờ có thể được biện minh; giữa nhóm trẻ nhất, tuy vậy, ít hơn một phần ba (20 phần trăm) lấy lập trường này. Có các sự khác biệt thế hệ nhỏ hơn nhưng đáng kể trong các xã hội đang phát triển (nhóm tuổi già nhất: 74 phần trăm, nhóm tuổi trẻ nhất: 49 phần trăm) và trong nhóm tây phương của các xã hội nguyên-cộng sản (nhóm tuổi già nhất: 75 phần trăm, nhóm tuổi trẻ nhất: 31 phần trăm). Ngược lại, nhóm đông phương của các xã hội nguyên-cộng sản cho thấy các sự khác biệt giữa thế hệ nhỏ hơn nhiều (nhóm tuổi già nhất: 90 phần trăm, nhóm tuổi trẻ nhất: 80 phần trăm), và các sự khác biệt giữa thế hệ hầu như vắng mặt trong các xã hội thu nhập-thấp (nhóm tuổi già nhất: 83 phần trăm, nhóm tuổi trẻ nhất: 81 phần trăm). Lần nữa, là hiển nhiên rằng lịch sử kinh tế của một xã hội tác động đến các sự thay đổi về các giá trị cơ bản.

Hình 5.3 cho thấy các sự thay đổi theo thời gian tại mỗi trong số năm kiểu xã hội. Các sự thay đổi trong các nền dân chủ giàu có từ 1981 đến 1999–2001 là thực sự đáng chú ý. Trong 1981 gần như 50 phần trăm công chúng trong mười bảy nền dân chủ giàu nói rằng sự đồng tính dục chẳng bao giờ có thể được biện minh. Hai mươi năm sau, con số này gần như bị cắt một nửa: chỉ 26 phần trăm nói sự đồng tính dục chẳng bao giờ có thể được biện minh. Các sự thay đổi ít kịch tính hơn nhưng đáng kể đã xảy ra trong nhóm tây phương của các xã hội nguyên-cộng sản và trong các nước đang phát triển, nhưng sự thay đổi là nhỏ trong nhóm đông phương của các xã hội nguyên-cộng sản và trong các xã hội thu nhập-thấp.

Hình 5.3 có khuynh hướng phóng đại lượng thay đổi xảy ra trong các nước đang phát triển và thu nhập thấp bởi vì nó dựa vào dữ liệu từ Argentina, Chile, Ấn Độ, Mexico, Nigeria, và Nam Phi – các nước đang phát triển và thu nhập thấp duy nhất mà chúng tôi có dữ liệu về chủ đề này từ cả 1989–91 và 1999–2001. Chúng tôi không có dữ liệu chuỗi-thời gian về các thái độ đối với sự đồng tính dục từ bất kể xã hội Islamic nào bởi vì các đồng nghiệp Islamic của chúng tôi đã cực kỳ không sẵn lòng ngay cả để hỏi về chủ đề này. Với cố gắng đáng kể, chúng tôi đã có khả năng nhận được các ý kiến tại một thời điểm duy nhất cho mười xã hội Islamic và tìm thấy các tỷ lệ phần trăm sau đây nói rằng sự đồng tính dục chẳng bao giờ có thể được biện minh: Bangladesh, 99; Ai Cập, 99; Jordan, 98; Pakistan, 96; Indonesia, 95; Iran, 94; Algeria, 93; Azerbaijan, 89; Thổ Nhĩ Kỳ, 84; và Albania, 68. Mặc dù không có dữ liệu chuỗi-thời gian, là rõ rằng không thể đã có nhiều chuyển động tới sự khoan dung tăng lên với sự đồng tính dục trong hầu hết các nước này. Nếu khảo sát sẵn có gần đây nhất cho thấy rằng 95 phần trăm công chúng xem sự đồng tính dục là “chẳng bao giờ” có thể được biện minh, là hiển nhiên rằng không có sự dịch chuyển giải phóng lớn nào đã xảy ra. Bức tranh này được củng cố bởi dữ liệu của chúng tôi từ Nigeria, nơi khoảng một nửa công chúng là Islamic; nơi tỷ lệ phần trăm nói rằng sự đồng tính dục chẳng bao giờ có thể được biện minh đã tăng từ 72 phần trăm trong 1990 lên 78 phần trăm trong 2000. Chúng tôi thấy rằng các sự dịch chuyển đầy kịch tính tới sự khoan dung tăng lên đối với những người đồng tính đã xảy ra trong các nền dân chủ hậu công nghiệp. Các thay đổi này đã có ít tác động hơn trong các nước nguyên-cộng sản và đang phát triển, và hầu như không chút nào trong thế giới Islamic, khu vực với số điểm các quyền dân sự thấp nhất (Freedom House, 2002).

Thái độ đối với Bình đẳng Giới

Bảng A-10 trong Phụ lục Internet cho thấy tỷ lệ phần trăm không đồng ý với tuyên bố “Khi các việc làm khan hiếm, đàn ông phải có nhiều quyền hơn đàn bà tới một việc làm.” Đây là một chỉ báo xuất sắc về thái độ đối với bình đẳng giới và có hệ số tải cao trên chiều các giá trị sinh tồn/tự-thể hiện, mà ngụ ý rằng các nước giàu phải cho thấy các mức ủng hộ bình đẳng giới tương đối cao. Câu hỏi này đã không được hỏi trong đợt đầu tiên của các Khảo sát Giá trị, như thế nó đã không được sử dụng ở đây để xây dựng chỉ số các giá trị sinh tồn/tự-thể hiện ở đây (mà chỉ sử dụng các khoản được hỏi trong tất cả bốn đợt của các Khảo sát Giá trị). Hơn nữa, như với sự khoan dung đối với sự đồng tính dục, những người trả lời trẻ hơn cho thấy nhiều sự ủng hộ cho bình đẳng giới hơn những người già; và các sự khác biệt thế hệ trong các nền dân chủ hậu công nghiệp là lớn hơn các sự khác biệt trong các nước đang phát triển. Điều này gợi ý rằng chúng ta sẽ thấy một sự dịch chuyển lớn theo thời gian tới bình đẳng giới trong các nền dân chủ hậu dân công nghiệp hơn trong các kiểu xã hội khác.

Giữa 50 xã hội mà chúng tôi có dữ liệu từ hai hay hơn các điểm thời gian, 37 (hay 74 phần trăm) cho thấy các mức ủng hộ tăng lên cho bình đẳng giới. Giữa các nước “thu nhập-cao”, mười bảy trong số hai mươi xã hội cho thấy sự ủng hộ tăng lên cho bình đẳng giới, và hai trong số các nước đó cho thấy các sự giảm (Hàn Quốc và Đông Đức) đi xuống chỉ một điểm phần trăm. Chỉ một trong 9 nước di chuyển xuống hơn một điểm phần trăm là một nước thu nhập-cao (Nhật Bản). Tất cả 8 nước khác là các nước đang phát triển.

Bảng A-11 trong Phụ lục Internet cho thấy tỷ lệ phần trăm công chúng của 62 nước mà không đồng ý với tuyên bố rằng “đàn ông là các lãnh đạo chính trị tốt hơn đàn bà.” Câu hỏi này được hỏi chỉ trong các Khảo sát Giá trị 1995–97 và 1999–2001, như thế chúng ta chỉ có một chuỗi thời gian ngắn, nhưng các kết quả là lý thú. Các nước được xếp hạng theo tỷ lệ phần trăm không đồng ý rằng đàn ông là các lãnh đạo chính trị tốt hơn đàn bà, trong khảo sát mới nhất sẵn có cho mỗi nước. 9 trong số 10 nước cho thấy các thái độ bình quân chủ nghĩa nhất là các nước thu nhập-cao, như được World Bank xác định; và tất cả các nước thu nhập-cao rơi vào nửa trên cao của Bảng A-11, với 50 phần trăm hay hơn công chúng của chúng không đồng ý rằng đàn ông là các lãnh đạo chính trị tốt hơn đàn bà. Trong các nước khác, tỷ lệ phần trăm không đồng ý rằng đàn ông là các lãnh đạo tốt hơn trải từ 70 đến 12 phần trăm. Giữa 8 nước trong đó ít hơn 30 phần trăm không đồng ý với tuyên bố này, 5 là nước Islamic áp đảo và một nước thứ sáu (Nigeria) là khoảng một nửa Islamic.

Bảng A-11 cũng cho thấy các sự thay đổi theo thời gian trong tất cả các nước mà chúng ta có nhiều hơn một điểm thời gian. Trong số các nước trong nửa trên của bảng, tất cả trừ một nước cho thấy các sự dịch chuyển tới bình đẳng giới lớn hơn. Giữa các nước trong nửa thấp hơn của bảng, tất cả dịch chuyển tới bình đẳng giới ít hơn. Lần nữa ở đây, chúng ta không tìm thấy bất cứ bằng chứng nào về sự khuếch tán văn hóa phổ quát, tạo ra một sự dịch chuyển toàn cầu tới các giá trị mà là đáng mong muốn về mặt xã hội ở các nền dân chủ giàu có. Thay vào đó, chúng ta tìm thấy một hình mẫu về sự phân kỳ văn hóa trong đó các nước xếp hạng cao (mà là các xã hội hậu công nghiệp) di chuyển tới sự nhấn mạnh nhiều hơn đến bình đẳng giới, trong khi các nước xếp hạng thấp hơn là trì trệ hay di chuyển theo hướng ngược lại.

Hạnh phúc và sự Tin cậy giữa Cá nhân

Các giá trị hậu duy vật, hoạt động chính trị thách thức-elite, và sự khoan dung với sự đồng tính dục liên kết mật thiết với nhau, tất cả chúng là các thành phần của chiều sinh tồn/tự-thể hiện. Sự thực rằng cả hoạt động chính trị thách thức-elite và sự khoan dung với sự đồng tính dục có quan hệ mật thiết với chủ nghĩa hậu duy vật và cho thấy các sự khác biệt thế hệ đáng kể đã dẫn đến các tiên đoán rằng chúng sẽ tăng từ từ theo thời gian qua một quá trình thay thế dân cư giữa thế hệ giống với quá trình đã tạo ra một sự dịch chuyển tới các giá trị hậu duy vật. Như thế, chúng tôi đã tiên đoán rằng các giá trị hậu duy vật, hành động chính trị thách thức-elite, và sự khoan dung với sự đồng tính dục sẽ trở nên phổ biến hơn trong các nền dân chủ hậu công nghiệp. Như chúng ta đã vừa thấy, tất cả ba sự thay đổi được tiên đoán này sau đó đã xảy ra.

Không tiên đoán nào đã được đưa ra liên quan đến hai biến khác mà sau đó cũng được tìm thấy là các thành phần của chiều sinh tồn/tự-thể hiện: sự tin cậy giữa cá nhân và hạnh phúc. Hạnh phúc và sự tin cậy có các tương quan mức cá nhân yếu hơn nhiều với các giá trị hậu duy vật so với sự khoan dung về sự đồng tính dục và hoạt động chính trị thách thức-elite; và chúng cho thấy các tương quan yếu hơn với tuổi. Mặc dù đã không được tiên đoán, các mức hạnh phúc đã tăng lên trong hầu hết các nước mà chúng tôi có dữ liệu chuỗi-thời gian, như Bảng A-12 trong Phụ lục Internet chứng minh. Bốn mươi trong số 53 nước (75 phần trăm của toàn bộ) cho thấy các sự tăng lên; chỉ 9 nước (17 phần trăm của toàn bộ) cho thấy các sự giảm. Các nước thu nhập cao đặc biệt có khả năng cho thấy các sự tăng lên: 88 phần trăm số chúng cho thấy các mức hạnh phúc tăng lên từ khảo sát sớm nhất đến khảo sát mới nhất. Các nước nguyên-cộng sản ít có khả năng hơn để làm vậy: chỉ 61 phần trăm số chúng cho thấy các mức hạnh phúc tăng lên; trong số chúng chỉ nhóm nguyên-cộng sản tây phương cho thấy các sự tăng lên hơn 2 phần trăm. Điều này xác nhận các phát hiện của chúng tôi trong Hình 6.2: các điều kiện sinh tồn ngày càng thuận lợi nuôi dưỡng một cảm giác về sự tự trị con người, mà thúc đẩy một cảm giác về sự an lạc chủ quan.

Sự tin cậy giữa cá nhân mở rộng là hầu như không tương quan với tuổi của những người trả lời (r = −0,01) và cho thấy không xu hướng lên nào – trong thực tế, hơn một nửa một chút của các nước mà chúng tôi có dữ liệu chuỗi-thời gian cho thấy các mức tin cậy giảm từ khảo sát sớm nhất đến muộn nhất sẵn có (xem Bảng A-13 trong Phụ lục Internet). Nhưng các xu hướng này được phân biệt sắc nét theo kiểu xã hội: 81 phần trăm của các xã hội nguyên-cộng sản cho thấy các mức tin cậy giảm; nhưng chỉ 43 phần trăm của các nước thu nhập-cao cho thấy sự giảm. Sự sụp đổ của các nền kinh tế do nhà nước vận hành đã gây ra sự không chắc chắn và (nhất là ở Liên Xô–trước kia) một sự giảm đột ngột về các tiêu chuẩn sống. Nhiều công chúng nguyên-cộng sản đã phản ứng đối với sự không chắc chắn này với sự tin cậy bị hạ thấp. Các phát hiện trái ngược này là phù hợp với một hình mẫu tràn khắp trong đó các nền dân chủ giàu có khả năng hơn nhiều để cho thấy các xu hướng lên trong các biến liên kết với chiều sinh tồn/tự-thể hiện so với các nước nguyên-cộng sản (nhất là các nước trong nhóm đông phương, chủ yếu nguyên-Soviet) và các xã hội thu nhập-thấp.

Các Thay đổi trên Chiều Sinh tồn/Tự-thể hiện như một Toàn thể

Chúng ta đã xem xét chi tiết một chút các thay đổi kinh nghiệm được quan sát trong các năm gần đây với các thành phần khác nhau của chiều các giá trị sinh tồn/tự-thể hiện. Bây giờ hãy xem xét hình mẫu toàn bộ của các sự thay đổi mà đã xảy ra trên chiều này như một toàn thể. Hình 4.6 cho thấy các sự khác biệt liên quan đến tuổi được tìm thấy trong năm kiểu xã hội. Hơn ba thập niên trước, sự hiện diện của các sự khác biệt liên quan đến tuổi như vậy trong các nền dân chủ hậu công nghiệp đã gợi ý rằng sự thay thế dân cư giữa thế hệ sẽ mang lại các sự thay đổi có thể tiên đoán được về các giá trị phổ biến trong các xã hội này. Bằng chứng kinh nghiệm chứng minh rằng các tiên đoán này là chính xác – cho các nền dân chủ hậu công nghiệp. Các nền dân chủ hậu công nghiệp cho thấy các sự khác biệt liên quan đến tuổi, với những người trẻ nhấn mạnh các giá trị tự-thể hiện mạnh hơn những người già rất nhiều, mà ngụ ý rằng sự thay thế dân cư giữa thế hệ sẽ mang lại sự dịch chuyển toàn bộ tới các giá trị tự-thể hiện. Như Hình 5.4 chứng minh, đấy chính xác là cái chúng ta tìm thấy. Từ 1981 đến 1990, và lần nữa từ 1990 đến 2000, các giá trị này trở nên phổ biến hơn đáng kể giữa các công chúng của các nền dân chủ giàu có. Trong 1981 nhóm này đã xếp hạng trên trung bình toàn cầu[10] với 0,51 của một độ lệch chuẩn về các giá trị sinh tồn/tự-thể hiện. Trong 1990 số điểm trung bình trên chiều sinh tồn/tự-thể hiện cho các công chúng của nhóm 17 nền dân chủ giàu có này đã lên một vị trí 0,98 của một độ lệch chuẩn trên cùng trung bình toàn cầu. Và vào đợt 2000, số điểm trung bình của 17 công chúng này đã tăng lên mức 1,25 độ lệch chuẩn trên trung bình toàn cầu – một sự tăng thuần 0,74 độ lệch chuẩn theo hướng được tiên đoán, trên một chiều chính của sự biến thiên ngang-văn hóa. Sự tiên đoán dựa vào sự thay đổi thế hệ nhận được sự ủng hộ to lớn từ các phát hiện này.

Nhưng sự tiên đoán này không áp dụng cho tất cả các kiểu xã hội. Lý do hiển nhiên nhất vì sao nó có thể không áp dụng ở mọi nơi là, chúng ta không tìm thấy cùng các sự khác biệt thế hệ trong tất cả các kiểu xã hội: các sự khác biệt thế hệ này phản ánh các cải thiện dài hạn về các điều kiện sống mà định hình các năm hình thành của các thế hệ tương ứng, và các sự cải thiện này không được trải nghiệm trong tất cả các xã hội. Như Hình 4.6 đã chứng minh, chúng ta tìm thấy các sự khác biệt lớn liên quan đến tuổi trong các nền dân chủ hậu công nghiệp, các sự khác biệt nhỏ hơn trong nhóm nguyên-cộng sản và trong các xã hội đang phát triển; và ít hay không sự khác biệt nào giữa các giá trị của các thế hệ khác nhau trong các xã hội thu nhập-thấp. Vì thế, quá trình thay thế dân cư giữa thế hệ sẽ không được kỳ vọng để tạo ra nhiều sự thay đổi trên chiều này trong các xã hội sau cùng đó. Hình 5.4 xác nhận kỳ vọng này: chúng ta tìm thấy một sự dịch chuyển lớn tới các giá trị tự-thể hiện trong các nền dân chủ hậu công nghiệp hơn trong các xã hội khác.

Nhưng các sự khác biệt liên quan đến tuổi, cho dù có hiện diện, không nhất thiết chuyển thành các sự thay đổi theo thời gian, như nhóm đông phương của các xã hội nguyên-cộng sản chứng minh. Vì lượng thay đổi quan sát được tại bất kể thời gian cho trước nào phản ánh hai thành phần: sự thay đổi thế hệ và các tác động thời kỳ. Các thay đổi theo thời gian phản ánh cả môi trường kinh tế xã hội hiện thời và sự hiện diện của các sự khác biệt thế hệ. Mặc dù các sự khác biệt thế hệ là ổn định và bền bỉ suốt thời kỳ ba mươi năm được xem xét trong Hình 4.6 ở chương trước, trong một cuộc suy thoái tất cả các nhóm tuổi đều trở nên ít hậu-duy vật hơn; và dưới các điều kiện thuận lợi họ trở nên hậu-duy vật hơn. Mặc dù sự thay thế dân cư giữa thế hệ có khuynh hướng đẩy (hàm) phân bố ngày càng hướng tới các giá trị hậu duy vật, các tác động thời kỳ có thể lớn hơn tác động này vào bất kể thời gian cho trước nào.

image

 

HÌNH 5.4. Các sự dịch chuyển tới các giá trị tự-thể hiện trong năm kiểu xã hội.

Các xã hội nguyên-cộng sản đông phương đã cho thấy các sự khác biệt liên quan đến tuổi khá lớn trong Hình 4.6. Thành tích kinh tế ảm đạm của họ trong các năm gần đây không được làm cho chúng ta quên rằng trong các thập niên đầu sau chiến tranh, hầu hết các nước này đã có các tỷ lệ tăng trưởng kinh tế cao hơn hầu hết các nền dân chủ Tây phương, cùng với các mức tương đối cao của sự bình đẳng thu nhập và các trợ cấp xã hội rộng lớn. Ngay cả trong thời đình trệ, và bất chấp các sự kém hiệu quả khét tiếng, các xã hội cộng sản đã đạt các mức tương đối cao về sự an toàn sinh tồn, mà được phản ánh trong các sự khác biệt giữa thế hệ về sự nhấn mạnh đến các giá trị sinh tồn/tự-thể hiện. Nhưng thời kỳ từ các khảo sát 1990 đến 2000, các hệ thống kinh tế, chính trị, và xã hội của các nước nguyên-cộng sản đông phương đã sụp đổ, tạo ra sự không chắc chắn to lớn. Đấy là một tác động thời kỳ mà làm lùn tịt tác động của các suy thoái gần đây đã có lên các nước Tây phương – và có vẻ đã hoạt động theo cách giống với các tác động thời kỳ được cho thấy trong Hình 4.2, đẩy tất cả các nhóm tuổi theo hướng sự nhấn mạnh lớn hơn đến các giá trị sinh tồn nhưng để các sự khác biệt thế hệ nguyên vẹn.

Kết quả là, bất chấp các sự khác biệt thế hệ đáng kể được thấy trong các xã hội nguyên-cộng sản đông phương, chúng không cho thấy một sự dịch chuyển thuần tới sự nhấn mạnh tăng lên đến các giá trị tự-thể hiện trong Hình 5.4; thay vào đó, chúng đã cho thấy sự dịch chuyển nhẹ tới sự nhấn mạnh lớn hơn đến các giá trị sinh tồn từ 1989–91 đến 1999–2001. Tác động của sự thay thế dân cư giữa thế hệ đã bị áp đảo bởi một tác động thời kỳ to lớn. Lý thuyết của chúng tôi ngụ ý rằng tác động này sẽ phai mờ đi với sự phục hồi kinh tế: khi điều này xảy ra, các sự khác biệt giữa thế hệ lớn được tìm thấy trong các nước nguyên-cộng sản sẽ không còn bị bù bởi các tác động thời kỳ tiêu cực, như thế với sự phục hồi kinh tế sự thay thế dân cư giữa thế hệ sẽ đẩy các xã hội nguyên-cộng sản đông phương tới sự nhấn mạnh tăng lên đến các giá trị tự-thể hiện. Quá trình này đã diễn ra rồi trước sự sụp đổ của chủ nghĩa cộng sản, có khuynh hướng làm mất tính chính đáng của các chế độ cộng sản. Bởi vì các giá trị tự-thể hiện liên kết mạnh với dân chủ, chúng tôi tiên đoán rằng sự phục hồi kinh tế và sự thay thế thế hệ sẽ tạo ra một áp lực dài hạn để duy trì và mở rộng các định chế dân chủ trong các xã hội nguyên-cộng sản, kể cả nhóm đông phương.

Kết luận

Trong các thập niên gần đây, một phiên bản quá đơn giản của lý thuyết toàn cầu hóa đã có được sự thịnh hành rộng rãi, cho rằng sự toàn cầu hóa của các phương tiện truyền thông đại chúng và các mạng truyền thông đã tạo ra sự hội tụ văn hóa; chúng ta tiến đến một “làng toàn cầu” trong đó mọi người đều trên cùng bước sóng. Bằng chứng được trình bày ở đây chứng minh rằng quan điểm này là sai – thật ra, các xu hướng toàn cầu đang chuyển động theo hướng chính xác ngược lại. Các giá trị của các công chúng của các nước giàu đang thay đổi nhanh chóng, nhưng các giá trị của các xã hội thu nhập-thấp đang thay đổi chậm hơn nhiều hay chẳng chút nào. Như một kết quả, một khoảng cách gia tăng đang mở ra giữa các giá trị cơ bản của các công chúng của các nước giàu versus các nước nghèo (như các phiên bản tinh tế hơn của toàn cầu hóa ngụ ý – xem, thí dụ, Held et al., 2003).

Sự phát triển kinh tế xã hội có khuynh hướng tạo ra các sự khác biệt giá trị giữa thế hệ và một sự dịch chuyển tới sự nhấn mạnh nhiều hơn đến các giá trị tự-thể hiện. Mức mà các giá trị này hiện diện giúp giải thích xu hướng gần đây tới dân chủ, như chúng tôi sẽ chứng minh trong các chương tiếp theo. Nhưng các sự biến thiên trong các giá trị tự-thể hiện cũng giúp giải thích vì sao một số nước đã di chuyển gần tới các nền dân chủ đủ lông đủ cánh hơn các nước khác và vì sao một số nước trở thành các nền dân chủ hiệu quả hơn các nước khác rất nhiều. Như các chương tiếp theo cho thấy, các giá trị tự-thể hiện tác động đến cả sự hiện diện và chất lượng của dân chủ. Điều này phản ánh luận đề trung tâm của chúng tôi, mà được tóm tắt bởi trình tự phát triển con người được miêu tả trong Bảng I.1 trong Dẫn Nhập: các điều kiện sinh tồn ngày càng thuận lợi dẫn mọi người đặt sự nhấn mạnh lớn hơn đến quyền tự do con người và sự lựa chọn, mà gây ra các áp lực để thiết lập và củng cố các quyền tự do dân chủ. Luận đề về sự phát triển con người này có thể được vẽ biểu đồ như sau:

image

 

Như chúng ta sẽ chứng minh, sự thay đổi văn hóa then chốt là sự dịch chuyển từ các giá trị sinh tồn sang các giá trị tự-thể hiện. Sự dịch chuyển tới các giá trị thế tục-duy lý không là trung tâm cho dân chủ hóa. Chừng nào các nhà chức trách tôn giáo không thử kiểm soát hệ thống chính trị, các định chế dân chủ có vẻ hoạt động tốt gần ngang nhau trong các xã hội tôn giáo và các xã hội thế tục. Sự dịch chuyển từ các giá trị truyền thống sang các giá trị thế tục-duy lý là quan trọng tự nó – quan trọng đến mức một cuốn sách tách biệt đã được dành cho nó (xem Norris and Inglehart, 2004). Chúng tôi không đề cập đến các thay đổi này ở đây bởi vì chúng không là trung tâm cho sự lên của dân chủ và bởi vì chúng đã được thảo luận đầy đủ hơn nhiều ở nơi khác.

[1] Thật lý thú, hầu hết các nhà lý luận vốn xã hội không xem hành fđộng tập thể thách thức-elite như phản ánh vốn xã hội. Điều này không nhất quán với định nghĩa của vốn xã hội, mà phủ tất cả các hình thức của các mạng hành động tập thể (Coleman, 1990). Hơn nữa, việc coi thường hành động tập thể thách thức-elite có nghĩa là bỏ qua tầm quan trọng của hình thức hoạt động công dân này cho dân chủ. Cả sự sáng chế ra các phiên bản hạn chế ban đầu của dân chủ qua các cuộc cách mạng khai phóng trong các thế kỷ thứ mười bảy và mười tám và sự lan ra của các nền dân chủ hiện đại qua làn Sóng thứ Ba đã được thúc đẩy bởi hoạt động tập thể thách thức-elite (xem Markoff, 1996).

[2] Tại Chile và Tây Ban Nha, sự ủng hộ cho dân chủ đã không giảm bất chấp sự thực rằng các chế độ dân chủ mới được thiết lập đã cho thấy một thành tích kinh tế yếu hơn các chế độ độc đoán trước, mà đã cực kỳ thành công trong việc tạo ra sự tăng trưởng kinh tế trong các thời kỳ kéo dài. Trong các nước này, các giá trị tự-thể hiện đã phổ biến giữa công chúng; khi điều này đúng, các thất bại kinh tế không làm mất tính chính đáng của các chế độ dân chủ. Ngược lại, các chế độ độc đoán luôn luôn mất tính chính đáng nếu chúng không có khả năng duy trì sự tăng trưởng kinh tế. Trong trường hợp này, sự vỡ mộng với chính phủ độc đoán có thể tạo ra sự ủng hộ quần chúng được thúc đẩy về mặt phương tiện cho dân chủ (tìm kiếm các kết cục kinh tế tốt hơn). Thật mỉa mai, các chế độ độc đoán cuối cùng mất tính chính đáng thậm chí còn sâu sắc hơn nếu chúng duy trì sự tăng trưởng kinh tế trong một thời gian dài, vì sự phát triển kinh tế nuôi dưỡng các định hướng cung cấp sự ủng hộ nội tại cho dân chủ: các giá trị tự-thể hiện.

[3] Putnam (2000) tìm thấy một xu hướng ngược lại ở Hoa Kỳ, nhưng dữ liệu ông dùng từ Roper Archive có vẻ bất thường. Các Khảo sát Giá trị cho thấy một sự tăng lên rõ ràng về ký các kiến nghị, không chỉ ở Hoa Kỳ mà ở tất cả các nền dân chủ Tây phương mà dữ liệu là sẵn có.

[4] Phụ lục Internet có thể thấy tại http://www.worldvaluessurvey.org/publications/humandevelopment.html.

[5] Tỷ lệ phần trăm của những người kể lại đã ký một kiến nghị là một trong năm thành phần của số đo của chúng tôi về các giá trị tự-thể hiện, cho nên có thể có vẻ rằng việc kiểm định tác động của các giá trị tự-thể hiện lên các hành động thách thức-elite là một phần mang tính lặp thừa (tautological). Tuy vậy, điều này không đúng thế bởi vì biến phụ thuộc trong phân tích này phản ánh các sự thay đổi (không phải các mức) trong các hành động thách thức-elite mà xảy ra sau khi biến độc lập, các mức của các giá trị tự-thể hiện, đã được đo. Hơn nữa, nó phản ánh các sự thay đổi trong cả ba loại hành động thách thức-elite (kiến nghị, biểu tình, và tẩy chay), không phải về một mình kiến nghị.

[6] Các nền dân chủ giàu có lâu đời trong phân tích này gồm Australia, Bỉ, Anh, Canada, Đan Mạch, Phần Lan, Pháp, (Tây) Đức, Italy, Nhật Bản, Hà Lan, Na Uy, Bồ Đào Nha, Tây Ban Nha, Thụy Điển, Thụy Sĩ, và Hoa Kỳ.

[7] Các nước này gồm Argentina, Chile, Mexico, Belarus, Estonia, Nga, Bulgaria, Cộng hòa Czech, (Đông) Đức, Hungary, Latvia, Lithuania, Ba Lan, Slovenia, và Slovakia.

[8] Các xã hội Baltic là nhỏ đến mức đã là có thể để huy động hầu như toàn bộ dân cư trưởng thành trong 1990. Vì mức cao đặc biệt này của sự huy động quần chúng, sự giảm sau đó là hầu như không thể tránh khỏi.

[9] Sự thực rằng các nhà hậu-duy vật là tương đối có thiện chí đối với các chủ đề này không có nghĩa rằng các nhà hậu-duy vật là những người hư vô chủ nghĩa (nihilist) đạo đức. Các nhà hậu-duy vật là tương đối bất khoan dung với các biện pháp vi phạm các quyền dân sự, tính liêm chính cá nhân, và nhân phẩm.

[10] Trung bình toàn cầu này dựa vào dữ liệu từ tất cả 195 khảo sát được tiến hành trong bốn đợt của các Khảo sát Giá trị (như thế trung bình toàn cầu mà so với nó chúng tôi đo sự thay đổi được giữ không đổi trong các phân tích này). Tổng số 265.037 người trả lời đã được phỏng vấn từ 1981 đến 2001.