Danh ngôn

Trong mọi cộng đồng, chúng ta cần một nhóm thiên thần gây rối.

We need, in every community, a group of angelic troublemakers.

(Bayard Rustin – trích bài phát biểu tại New York City 1963)

Trong mọi trường hợp, chắc chắn rằng sự thiếu hiểu biết, đi kèm với quyền lực, là kẻ thù tàn bạo nhất có thể có của công lý.

It is certain, in any case, that ignorance, allied with power, is the most ferocious enemy justice can have.

(James Baldwin - No Name in the Street 1972)

Các cuộc cách mạng và các cá nhân có thể bị giết hại, nhưng bạn không thể giết chết các ý tưởng.

While revolutionaries and individuals can be murdered, you cannot kill ideas.

(Thomas Sankara, một tuần trước khi bị ám sát, 1987)

Không có cảm giác nào cô đơn hơn việc bị chính đất nước mình trục xuất.

There's not a more lonely feeling than to be banished by my own country.

(Kiyo Sato – Kiyo’s Story 2009)

Ban Biên tập

Địa chỉ liên lạc:

1. Thơ

tho.vanviet.vd@gmail.com

2. Văn

vanviet.van14@gmail.com

3. Nghiên cứu Phê Bình

vanviet.ncpb@gmail.com

4. Vấn đề hôm nay

vanviet.vdhn1@gmail.com

5. Thư bạn đọc

vanviet.tbd14@gmail.com

6. Tư liệu

vanviet.tulieu@gmail.com

7. Văn học Miền Nam 54-75

vanhocmiennam5475@gmail.com

Tra cứu theo tên tác giả

Thứ Tư, 8 tháng 12, 2021

Mênh mông chật chội… (30)

Lại Nguyên Ân

PHAN KHÔI VÀ CUỘC THẢO LUẬN SỬ HỌC NĂM 1928 TRÊN ĐÔNG PHÁP THỜI BÁO

Các nhà nghiên cứu lịch sử chung, lịch sử báo chí, lịch sử văn học lâu nay hầu như chưa ai nói đến cuộc thảo luận này, có lẽ vì một lý do dễ thấy: ngành nghiên cứu lịch sử báo chí Việt Nam hiện giờ còn để những khoảng trống quá lớn trong việc mô tả diện mạo cụ thể của báo chí từng thời kỳ lịch sử.

Để thấy đường viền của cuộc thảo luận này, ta hãy trở lại sinh hoạt báo chí ở Sài Gòn những năm 1920-1930: bên cạnh báo chí tiếng Việt, ở thành phố này còn có khá nhiều báo chí tiếng Pháp, báo chí chữ Hán, trong đó lớn giọng nhất vẫn là các báo tiếng Pháp tuy chắc hẳn không chiếm được số đông công chúng. Không phải tất cả các tờ báo tiếng Pháp đều giữ lập trường thực dân trong khi họ có quá nhiều vấn đề của thế giới đương thời để tham dự. Tuy vậy không hiếm khi một vài ký giả hay học giả, hoặc cố ý hoặc vô ý, động chạm đến tự ái dân tộc của người bản xứ. Lúc đó một số ký giả người Việt đọc được các tờ báo Pháp đó sớm muộn cũng sẽ lên tiếng thông tin với đồng bào mình và tỏ thái độ trên các báo tiếng Việt.

Nội trong năm 1928, ít nhất có hai lần, hai tác giả Pháp là Albert de Pouvourville và Jean Bouchot đã viết trên báo chữ Pháp ở Sài Gòn rằng tổ tiên người An Nam mời người Pháp sang bảo hộ, rằng người Pháp đã giúp cho người An Nam chinh phục đất Nam Kỳ. Các ký giả Việt Nam như Đào Trinh Nhất, Nguyễn Phan Long, v.v. đã lên tiếng phản bác trên cả các báo tiếng Việt lẫn báo tiếng Pháp, nhưng, như ký giả Tân Việt cay đắng nhận xét, đó chỉ là những “lý sự giữa sa mạc”, chính quyền thuộc địa không trách cứ răn đe gì các tác giả người Pháp, còn các tác giả ấy thì không đáp lại phản ứng của dư luận từ phía người bản xứ. Vì vậy, để sự bàn luận có quy mô và khiến đông đảo công chúng Việt Nam chú ý thì tốt hơn là nên chuyển thành cuộc trao đổi giữa các tác giả, ký giả người Việt. Có lẽ Phan Khôi đã tính như vậy nên khi bắt gặp một vài phát ngôn thiếu chính xác về nhận định sử học, ông bèn tận dụng để gây thành cuộc thảo luận lớn.

Hai phát ngôn rơi vào “tầm ngắm” nói trên thuộc về hai ký giả tên tuổi đương thời: Mính Viên Huỳnh Thúc Kháng và Nam Kiều Trần Huy Liệu. Ở một bài xã thuyết trên tờ Tiếng dân (xuất bản ở Huế) Mính Viên có chỗ viết rằng Gia Long đã nhờ được binh lực nước Pháp mà làm thành cuộc thống nhất đất nước, còn Nam Kiều trong sách Một bầu tâm sự (lúc đó vừa mới phát hành ở Sài Gòn thì bị cấm) cũng có chỗ nói “Pháp quốc giúp cho [vua Gia Long] hai cái tàu và một ít súng thần công”.

Dưới bút danh C.D. (viết tắt từ tên hiệu Chương Dân), Phan Khôi châm ngòi thảo luận bằng bài Mấy cái quái trong sách và báo ta (đăng trong mục “Câu chuyện hằng ngày” của Đông Pháp thời báo, 1/5/1928). Ông nhắc người viết bài trên tờ Tiếng dân rằng bản điều ước ký khi hoàng tử Cảnh và Bá Đa Lộc được phái sang Pháp cầu viện, rốt cuộc đã không được phía Pháp thực hiện. Vì vậy chỉ có việc Bá Đa Lộc mộ được vài mươi người Pháp sang giúp Gia Long, “song đó chẳng qua là người riêng của nước Pháp giúp chứ không phải chính nước Pháp giúp”. Ông cũng nhắc tác giả Một bầu tâm sự nhớ rằng chuyện nước Pháp tặng tàu và súng là chuyện xảy ra ở thời Tự Đức, sau khi hòa ước Pháp Nam đã ký, chứ không phải thời nội chiến Nguyễn Ánh chống Tây Sơn.

Trần Huy Liệu gửi đến tòa soạn Đông Pháp thời báo bài Trả lời ông C.D. (Đông Pháp thời báo, 12/5/1928), bảo vệ ý kiến cũ của mình bằng việc dẫn cuốn Đại Nam sử ký, một chỗ nói “cuối năm 1784 Gia Long giao hoàng tử Cảnh cho cố đạo Bá Đa Lộc sang cầu cứu bên Pháp” và một vài chỗ khác nói trong năm 1789, Bá Đa Lộc và hoàng tử Cảnh đi tàu về, có vài chiếc tàu chở về súng đạn, và kể tên mươi người Pháp sang giúp việc trong quân Nguyễn Ánh.

Phan Khôi không chú trọng việc trả lời ý kiến phản hồi của Trần Huy Liệu. Ông muốn nhân dịp này làm rõ một số tình tiết lịch sử quan trọng và nhất là hiểu đúng ý nghĩa của chúng. Ông đã lần lượt cho in các bài:

Bác cái thuyết nước Pháp giúp nước Nam về hồi cuối thế kỷ XVIII (Đông Pháp thời báo, 2 kỳ: 15/5 và 19/5/1928);

Trở lại việc nước Pháp giúp nước Nam: Sách Tàu nói bướng. Các nhà Hán học ta mở mắt ra mà coi (Đông Pháp thời báo, 10/7/1928);

Nói một lần nầy nữa thôi, về việc nước Pháp giúp nước Nam. Một cuốn sách Tàu minh oan cho chúng ta (Đông Pháp thời báo, 4/8/1928).

Đối tượng tranh cãi của Phan Khôi trong loạt bài này không phải là Mính Viên hay Nam Kiều mà là “cái thuyết nước Pháp giúp nước Nam”, cái thuyết mà những tác gia đầu tiên có lẽ là một số học giả thực dân, cái thuyết mà giới quan chức nho sĩ Việt Nam tuy không muốn nhưng vì thiếu một nhận thức rạch ròi, họ đã ngấm ngầm cam chịu thừa nhận, cái thuyết mà tính đến những năm 20 của thế kỷ XX đã phổ biến khá rộng, đã thâm nhập không ít đầu óc trí thức người Việt, thâm nhập cả vào một số thư tịch sử học Trung Hoa, tóm lại đã thành một thảm họa nhận thức.

Phải nói ngay rằng tác giả bài báo đã nêu trong Tiếng dân lên tiếng phục thiện rất sớm. Trong bài Nói điều lỗi của ta là sự may cho ta (Tiếng dân số 79, Đông Pháp thời báo đăng lại 24/5/1928) tác giả Mính Viên nói thẳng rằng “tôi tâm phục lời chỉ trích của ông C.D.”, rằng thấy “có kẻ mới nghe mấy chữ “nhờ binh lực nước Pháp” mà đã lấy làm bất bình, cho là quái lạ” thì theo ông (Mính Viên), “thật không khác gì giữa vùng sa mạc mà thấy chòm cây tốt, ở chốn rừng không mà nghe tiếng chân người, dầu cho người vô tâm đến đâu cũng phải cảm động, huống tác giả là một kẻ đa tình, không thể nào ngăn mối lòng hứng khởi được”.

Tuy vậy Mính Viên vẫn chưa dứt bỏ được quan niệm đồng nhất chủng tộc với quốc gia, vẫn cho rằng “dầu thế nào mặc lòng, người nước mình hồi đó cũng có cầu cứu nước Pháp, nước Pháp cũng có hứa lời, trong cuộc chinh chiến cũng có tàu Pháp súng Pháp và người Pháp”, rằng “đương thời đại đó thì vua Gia Long tức là nước Nam ta, mà những người tóc vàng da trắng mũi nhọn mắt thau tức là nước Pháp; người Pháp cùng nước Pháp cũng không phân biệt là mấy”, “ông giám mục d’Adran cùng đôi mươi người Pháp, mà nói là nước Pháp cũng không sai bao nhiêu”.

Quan niệm còn đậm màu sắc trung đại này khác với quan niệm mang tính hiện đại của Phan Khôi theo đó nhận thức sử học cần dựa trên cơ sở phân biệt các quan hệ giữa quốc gia với quốc gia, và các quan hệ giữa các cá nhân với quốc gia hoặc tập đoàn chính trị quân sự, dù cá nhân ấy thuộc dân tộc, quốc tịch nào.

Việc đầu tiên Phan Khôi thấy cần giải trình với công chúng là cái sự thật mà vẻ tù mù của nó đã tạo cơ hội cho sự hình thành cái thuyết “nước Pháp giúp nước Nam” hồi cuối thế kỷ XVIII. Kiểm lại sự việc thông qua các sử liệu, Phan Khôi ưu tiên lấy sử sách của người Nam chép ra làm chủ yếu vì việc này quan hệ với nước Nam nhiều hơn (Đông Pháp thời báo, 15/5/1928); ông đã đưa độc giả đi qua đoạn sách Đại Nam chính biên liệt truyện chép truyện Bá Đa Lộc, sách Quốc triều chính biên toát yếu chép việc các năm Quý Mão 1783, Giáp Thìn 1784, Bính Ngọ 1786, Kỷ Dậu 1789 trong đó có ghi việc Nguyễn Ánh giao con trai là Cảnh cho Bá Đa Lộc làm con tin, nhờ Bá Đa Lộc sang thuyết phục vua Pháp đem binh sang giúp mình; Bá Đa Lộc và Cảnh lưu lại Pháp hai năm, “song nhân vì trong nước có việc”, “người Tây không thể giúp được”. Sách chính thống của triều Nguyễn chép về việc này quả thật hãy còn sơ lược quá, nhưng đã nói rõ phía nước Pháp trên thực tế chưa giúp gì cho Nguyễn Ánh. Phan Khôi cũng chọn sách sử Việt Nam do soạn giả Pháp viết để làm rõ sự kiện này. Ông nhận thấy sách Histoire moderne du Pays d’Annam của tiến sĩ văn khoa Charles B.Maybon viết khá dài và kỹ về sự kiện này nên đã tóm tắt lại cho công chúng. Sách này cho biết Nguyễn Ánh có giao cho giám mục d Adran (tức Bá Đa Lộc) một bức thư gồm 14 khoản, đại ý là nhờ nước Pháp giúp cho 1500 quân và tàu bè, súng ống, thuốc đạn thì Ánh sẽ nhường cho nước Pháp cửa Hàn, đảo Côn Lôn và cho Pháp độc quyền buôn bán ở nước mình. Đoàn của Bá Đa Lộc rời Việt Nam tháng 12/1785, đến Pondichéry (đất Ấn Độ lúc đó thuộc Pháp) tháng 2/1786, Bá Đa lộc xin viên Tổng đốc Pháp ở đây đem quân sang giúp, nhưng không được hưởng ứng, chỉ được họ cho tàu chở sang Pháp. Tháng 2/1787 đoàn của Bá Đa Lộc tới Pháp, gặp được vua Pháp Louis XVI. Tờ giao ước Pháp Việt được ký kết tại Versailles, nhưng việc thực hiện nó thì vua Pháp giao cho Tổng đốc Pháp ở 5 tỉnh Ấn Độ thuộc Pháp lúc ấy. Tuy được vua Pháp cắt cho ngân khoản 2 vạn đồng (tiền Pháp đương thời) dự chi cho việc can thiệp này, nhưng bộ ngoại giao Pháp lại có thư riêng nhắc viên Tổng đốc đương nhiệm (ở 5 tỉnh Ấn Độ thuộc Pháp lúc ấy) là De Conway thận trọng, có lợi thì hãy cử binh, đừng làm gì si sứt khoản tiền trên vì vua Pháp đang túng bấn về tài chính. Vì vậy, khi đoàn của Bá Đa Lộc từ Paris trở về đến Pondichéry, mọi đề nghị của giám mục đều bị De Conway bác bỏ. Ông ta không cử binh sang Nam Kỳ, không cấp dù chỉ một chiếc tàu nhỏ đi báo tin cho Nguyễn Ánh, thậm chí không cấp tiền chi tiêu cho Bá Đa Lộc cùng hoàng tử Cảnh. Tháng 3/1789, Bá Đa Lộc được liên lạc từ Nam Kỳ cho biết Nguyễn Ánh đã chiếm lại được 5 tỉnh phía Nam, có nhiều tàu thuyền, nhưng vẫn mong có đạo quân lớn đến làm thanh viện. Một lần nữa Bá Đa Lộc xin De Conway phái một số tàu, một trăm lính pháo thủ sang Nam Kỳ và phía Nguyễn Ánh xin chịu phí tổn. Nhưng De Conway vẫn không nghe, thậm chí còn viết thư về bộ ngoại giao Pháp xin bác bỏ đề nghị của Bá Đa Lộc và bộ ngoại giao Pháp đã đồng ý với chủ trương không can thiệp của De Conway. Bá Đa Lộc đành nhờ tiền của một số nhà buôn Pháp ở Pondichéry và Ile de France, lại cũng dùng tiền Nguyễn Ánh gửi sang cho, mua một số tàu thuyền, súng ống, đạn dược, lại rủ được vài chục người Pháp, kể cả một số người đang là sĩ quan trong hải quân Pháp bỏ ngũ đi với mình sang đầu quân giúp Nguyễn Ánh. Rốt cuộc Nguyễn Ánh đã thắng trong cuộc nội chiến, lập nên triều Nguyễn, xác lập nền thống trị khắp đàng trong, đàng ngoài.

Tóm tắt đoạn sách của Maybon như trên, Phan Khôi đặt câu hỏi:

“Vậy thì, nhơn thấy giám mục Bá Đa Lộc nhờ tiền của mấy nhà buôn Pháp hoặc lấy tiền của Gia Long gởi sang mà mua tàu súng và mộ người Pháp về giúp vua để đánh lại Tây Sơn, rồi nói rằng đó là nước Pháp giúp, có được không?”

Và trả lời:

“Không được, vì đó là mấy mươi người riêng của nước Pháp giúp, chứ không phải chính nước Pháp giúp. Mấy mươi người ấy hoặc có vì lòng háo nghĩa chăng nữa, song đã không phụng mạng bổn quốc mình, ăn lương của vua Cao hoàng [ý nói Nguyễn Ánh] mà đi đánh giặc mướn, thì người ta chỉ coi như một bọn lính thuê mà thôi”. (Đông Pháp thời báo, 19/5/1929)

Thêm một bước nữa, Phan Khôi còn khẳng định:

“nói rằng nước Pháp giúp đi chăng nữa, thì sự giúp ấy cũng chỉ giúp vua Gia Long mà thôi, nào có giúp gì cho nước An Nam mà hòng kể công với dân An Nam? Vì bấy giờ, cuộc loạn trong nước Nam chỉ là một cuộc nội tranh, bên nào thắng thì làm vua đó thôi; còn dân An Nam vẫn cứ làm dân, và nước An Nam cũng không hề bị mất mà!” (Đông Pháp thời báo, 19/5/1928).

Phan Khôi phán đoán, nếu sự việc diễn ra ngược lại, tức là nước Pháp thi hành giao ước, đem quân giúp Nguyễn Ánh thì “có lẽ nước Nam lại vong quốc ngay bởi nước Pháp trong lúc đó chưa biết chừng” chứ không phải có thêm hơn nửa thế kỷ tự chủ nữa rồi mới bị Pháp xâm lược.

Cách trình bày và lý giải của Phan Khôi có lẽ đã giành được sự tán thưởng của khá đông độc giả Đông Pháp thời báo. Báo có đăng vào mục ”Độc giả luận đàn” ý kiến của một điền chủ ở Vĩnh Long nguyên là một giáo viên là ông Huỳnh Ích Lợi: bài Một cái đại ngộ điểm ta phải liệng ra ngoài sử Nam Việt (Đông Pháp thời báo, 22/5/1928). Vị độc giả này tỏ ý thấm thía nhất là học được cách hiểu mới mẻ, không dừng lại ở cách nghĩ hồ đồ rằng “Tây giúp vua Gia Long”, mà phải phân biệt việc nước Pháp tức là chính phủ Pháp giúp Gia Long với việc vài mươi người Pháp ăn lương của Gia Long mà giúp Gia Long. Sự việc mà Phan Khôi tóm lược trong sách của Maybon được ông xác nhận bằng cách dẫn thêm tư liệu từ cuốn Histoire générale do E. Lavisan chủ biên, và cuốn L’ Empire d’Annam của Gosselin.

Việc thứ hai Phan Khôi thấy cần phải làm rõ là xem cái thuyết “nước Pháp giúp nước Nam” kia đã lây nhiễm như thế nào vào thư tịch Trung Hoa, nguồn thư tịch mà các giới sử học, văn hóa học Việt Nam xưa nay thường xem trọng. Ông khảo hai cuốn Thanh giám dị tri lục của Hứa Quốc Anh soạn dưới thời Thanh (trước 1911) và sách Bách khoa toàn thư của Thương Vụ ấn thư quán ở Thượng Hải soạn dưới thời Dân quốc (sau 1911). Thanh giám dị tri lục viết rằng khoảng ngang thời Gia Khánh (1796-1821) ở Việt Nam chúa Nguyễn cũ dấy lên ở Nam Kỳ giành nước với Nguyễn mới (Tây Sơn), mượn binh của Pháp, hẹn trả bằng tiền nhưng về sau chỉ trả được phân nửa, lại vì việc giết cố đạo nên bị Pháp đánh chiếm lấy Nam Kỳ. Bách khoa toàn thư thì viết rằng Phước Ánh thuộc dòng Nguyễn cũ muốn chống Nguyễn mới (Tây Sơn) và thống nhất cả nước, bèn cầu cứu nước Pháp, hứa cho tự do giảng đạo và cắt cho cù lao Hóa Nam (?); sau Nguyễn cũ thống nhất được cả nước, nhưng bội lời ước; người Pháp giận, đánh các pháo đài ven biển miền Trung rồi chiếm Nam Kỳ.

Cái sai của cả hai cuốn sách Tàu này rất rõ. Phan Khôi phán đoán rằng họ viết sai vì họ đã theo những cuốn sách của những sử gia thực dân. Ông tin rằng các soạn giả Tàu đã dùng sách Pháp vì thấy họ đã để lại ở văn bản những dấu vết là những tên riêng viết lầm, ví dụ cù lao Hóa Nam (?), hoặc tên riêng Lê Tuấn chép ra Lê Tuần.

“Thế là cái thuyết “nước Pháp giúp nước Nam” không những nhồi một mình sọ An Nam thôi, mà lại nhồi luôn cả sọ Chệt nữa!” (Đông Pháp thời báo, 10/7/1928).

Để xảy ra điều này, theo Phan Khôi, có lỗi một phần ở giới sử gia Việt Nam.

“Phép chép sử hai chiến quốc nào phải lấy sử liệu của cả hai nước ấy làm gốc. Như người Tàu chép chuyện Pháp chiếm lãnh Việt Nam đây, tất phải căn cứ ở sách Pháp và sách Việt Nam. Song trong khoảng trăm năm nay trừ ra bổn sử chữ quốc ngữ và chữ Pháp của Trương Vĩnh Ký, Việt Nam có ai chép cái gì bằng chữ Hán đủ làm tài liệu cho người Tàu tham khảo đâu, trách nào họ chẳng vớ lấy chỉ một mình sách Pháp!” (Đông Pháp thời báo, 10/7/1928).

Bởi vậy Phan Khôi “cắn cỏ mà kêu” các nhà Hán học trong nước, các ông tiến sĩ triều Nguyễn, hãy làm sách mà đính chính lại những sai lầm của sử gia nước láng giềng phương Bắc về sử cận đại nước mình như ở mấy cuốn sách trên kia đi!

Vạch ra những sai lầm về sử Việt Nam trong một số cuốn sách Trung Hoa cũng tức là nhắc nhở sự cẩn trọng trước nguồn thư tịch này, nhất là về sử cận đại, tuy nhiên Phan Khôi vẫn tin rằng các học giả thực dân đã dựng nên ngụy thuyết trên kia dù sao cũng không thể lừa gạt được mọi học giả Trung Hoa. Ông tìm thấy cuốn Cận thế đại quốc gia chủ nghĩa của Lưu Văn Hải xuất bản năm Dân quốc 14 (1925) như tìm thấy lời minh oan cho sự kiện đang bàn, nhờ vậy ông có thể yên tâm viết bài cuối cùng, kết thúc một cuộc thảo luận mà càng về sau ông càng trở thành người độc diễn tuy được công chúng lắng nghe; đó là bài Nói một lần nầy nữa thôi, về việc nước Pháp giúp nước Nam (Đông Pháp thời báo, 4/8/1928). Phan Khôi đã tìm thấy một nhà sử học Tàu hiện đại, nghiên cứu các điều ước quốc tế theo tinh thần mới. Tương tự các học giả Pháp Gosselin và Maybon, Lưu Văn Hải xác định điều ước Pháp Việt 1787 chưa được ký và cũng chưa được thi hành. Sang giữa thế kỷ XIX, khi cách mạng Pháp đã qua, chính phủ Pháp muốn mở thêm thuộc địa, đã viện đến bản điều ước 1787 và việc triều Nguyễn giết cố đạo như hai cái cớ cho sự xâm lược. Lưu Văn Hải cho rằng phía Pháp chưa thực hiện giao ước thì chưa thể đòi quyền lợi từ phía Việt Nam. Vả chăng, nếu coi chút đỉnh viện binh và súng ống Bá Đa Lộc đưa sang là thi hành điều ước Versailles thì tính hợp pháp của bản điều ước này vẫn là điều cần xét kỹ. Theo công pháp quốc tế, khi lập một giao ước mà có dấu hiệu lừa gạt, gian dối thì bản điều ước ấy vô hiệu. Phía Việt Nam tham gia điều ước Versailles chỉ là cậu bé 8 tuổi, những người cùng đi với cậu đều là người Pháp, còn phía Pháp là vua Louis XVI và các chính trị gia hàng đầu. Dấu hiệu không bình thường, không công bằng khá rõ. Lại nữa, việc phía chúa Nguyễn hứa sẽ cho phía Pháp những thứ mà mình chưa có, − là điều không có giá trị về luật pháp. Những thứ của cải đem ra làm điều kiện trao đổi đó (hòn đảo, cửa biển, độc quyền buôn bán) “lại mang tính ác liệt mà công lý không dung được”, và hành động của phía Pháp thực hiện điều ước ấy là xúi giục cuộc nội loạn của các nước khác để kiếm lợi ích riêng cho mình; đây là điều mà các dân tộc văn minh nên lên án.

Phan Khôi đánh giá rất cao lập luận này, ông viết:

“Xem những lời nghị luận trên đó thì thấy ra ông Lưu Văn Hải chẳng những không bị cái ngụy thuyết kia phỉnh gạt, mà lại đã ra công bài bác nó nữa và bài bác đến tận gốc” (Đông Pháp thời báo, 4/8/1928).

Với việc dẫn giải cuốn sách của Lưu Văn Hải, Phan Khôi thấy đã có thể tạm kết thúc cuộc thảo luận mà thực chất nhằm đính chính một sai lầm trong nhận định về lịch sử cận đại Việt Nam. Ông kết luận bằng lời đề nghị:

“Xin hết thảy người trong nước phải biết tôn trọng quốc sử, phải biết tôn trọng sự thực của lịch sử nước mình, đừng để cho người khác xáo bậy đi”. (Đông Pháp thời báo, 4/8/1928).(1)

Vậy là cuộc thảo luận về một sự kiện thuộc lịch sử Việt Nam cận đại đã được Phan Khôi khơi lên và kéo dài suốt ba tháng ròng trong năm 1928 trên một tờ báo phát hành mỗi số khoảng 9 ngàn bản ở Sài Gòn và nhiều nơi trong nước. Điều này có ý nghĩa không nhỏ, cả về mặt nhận thức lịch sử, cả về mặt nâng cao ý thức dân tộc cho công chúng đương thời.

17/3/2003

−−−−−−

(1) Lưu ý: Các tài liệu dẫn trong bài này đều đã in lại trong sách: Phan Khôi, Tác phẩm đăng báo 1928 //Lại Nguyên Ân sưu tầm và biên soạn // Đà Nẵng 2003: Nxb Đà Nẵng và Trung tâm Văn hoá & Ngôn ngữ Đông Tây.