Danh ngôn

Trong mọi cộng đồng, chúng ta cần một nhóm thiên thần gây rối.

We need, in every community, a group of angelic troublemakers.

(Bayard Rustin – trích bài phát biểu tại New York City 1963)

Trong mọi trường hợp, chắc chắn rằng sự thiếu hiểu biết, đi kèm với quyền lực, là kẻ thù tàn bạo nhất có thể có của công lý.

It is certain, in any case, that ignorance, allied with power, is the most ferocious enemy justice can have.

(James Baldwin - No Name in the Street 1972)

Các cuộc cách mạng và các cá nhân có thể bị giết hại, nhưng bạn không thể giết chết các ý tưởng.

While revolutionaries and individuals can be murdered, you cannot kill ideas.

(Thomas Sankara, một tuần trước khi bị ám sát, 1987)

Không có cảm giác nào cô đơn hơn việc bị chính đất nước mình trục xuất.

There's not a more lonely feeling than to be banished by my own country.

(Kiyo Sato – Kiyo’s Story 2009)

Ban Biên tập

Địa chỉ liên lạc:

1. Thơ

tho.vanviet.vd@gmail.com

2. Văn

vanviet.van14@gmail.com

3. Nghiên cứu Phê Bình

vanviet.ncpb@gmail.com

4. Vấn đề hôm nay

vanviet.vdhn1@gmail.com

5. Thư bạn đọc

vanviet.tbd14@gmail.com

6. Tư liệu

vanviet.tulieu@gmail.com

7. Văn học Miền Nam 54-75

vanhocmiennam5475@gmail.com

Tra cứu theo tên tác giả

Thứ Ba, 8 tháng 6, 2021

Nguyễn Thụy Đan và bầu trời cổ thi ở New York

Nguyễn Thị Bích Hậu

NGUYEN THUY DAN.2

Một buổi sáng, tôi tình cờ biết Nguyễn Thụy Đan, một chàng thanh niên 27 tuổi, người Mỹ gốc Việt đang học tiến sĩ tại Đại học đường Columbia danh giá. Ngành anh học là Ngôn Ngữ và Văn Hóa Đông Á, đặc biệt nghiên cứu về sự hình thành và phát triển của tư tưởng Việt Nam thời trung đại và cận đại. Anh là một trong số ít nhà nghiên cứu trẻ dũng cảm bước vào ngành khoa học này. Nhưng Nguyễn Thụy Đan còn là bất ngờ lớn. Anh là một thi nhân tài hoa làm thơ cả bằng Việt ngữ và cổ văn Hán-Nôm, cho dù anh hoàn toàn sinh ra trên đất Mỹ, tại vùng Sacramento, tiểu bang California.

Đây là một bài thơ Việt ngữ của anh:

"Thu kia đổ mấy hạt mưa

làm sao đánh giá cho vừa đau thương

này tôi thi khách họ vương

chôn vùi nam hải trên đường tìm cha

soi từng trang giấy bạc nhòa

bên tai chưa dứt cuồng ca muôn đời

đập gương tìm bóng con người

giật mình chỉ thấy một trời cô đơn"

NGUYEN THUY DAN.1Việt ngữ và cổ văn Hán Nôm tới với Nguyễn Thụy Đan như một tình cờ. Nhưng phải chăng là một bí ẩn của sức mạnh cội nguồn và huyết mạch dân Việt.

Tâm sự với tôi, Nguyễn Thụy Đan cho biết anh học tiếng Việt ở nhà cùng gia đình. Là con của một gia đình Công giáo toàn tòng gốc Nghệ An và Hà Tĩnh (quê cha, và Nam Định – quê mẹ), anh kể: “Ngay từ khi còn nhỏ, tôi lãnh trách nhiệm đọc sách Đạo, đọc thơ từ bằng Việt ngữ cho bà. Là vì bà sinh năm 1920 và không biết chữ nên tôi chính là người giúp bà gần hơn với thế giới của tâm linh và thơ ca.Năm 13 tuổi, tôi theo cha mẹ về thăm cố quốc và đi đủ ba miền yêu dấu. Về Hà Nội, bỗng dưng tôi rất muốn học chữ Nôm. Nhưng không tìm ra thầy dạy, cha mẹ chiều lòng tôi liền mua một cuốn từ điển chữ Nôm để tôi tự học”.

Ba năm sau, Đan theo tổ chức thiện nguyện của Công giáo về Củ Chi, TP.HCM đi dạy tiếng Anh và tranh thủ học tiếng Việt. Chàng thiếu niên 16 tuổi một bữa nọ chợt nghe thấy cô thiếu nữ 15 tuổi ở Việt Nam đọc thơ Bà Huyện Thanh Quan. Và những vần thơ “Bước tới đèo Ngang bóng xế tà…”, “Nền cũ lâu đài bóng tịch dương” bỗng khai mở cho Đan một thế giới khác. Đan nói: “Nó thôi thúc tôi làm thơ”.

Sau ba tháng, trở lại Mỹ, anh bắt đầu nghiên cứu về cổ thi và văn chương Trung Hoa. Thế giới tuyệt vời và huyền ảo đó diễn ra ngay trong căn nhà của Đan tại vùng rừng núi Bắc tiểu bang Cali xinh đẹp. Nào Sở Từ, Tống Thi, Đường Thi, nào thơ Nguyễn Du, nào thơ tiền chiến của Bích Khê, Hàn Mặc Tử và Phạm Hầu. Và bắt đầu làm thơ.

18 tuổi, Đan gặp khủng hoảng tinh thần khi bà ngoại mất. Nỗi đau của tuổi trẻ càng làm cho Đan muốn tìm sự chia sẻ và chữa lành từ thi ca. Anh tiết lộ: “Đó là thời điểm tôi học Hán ngữ rất mau. Là vì tôi nhớ lại rằng bà hay kể trong nhà xưa có nhiều Nho sĩ”. Không chỉ là văn chương cổ Việt Nam, Trung Hoa, mà còn cả triết học thấm đẫm qua Trang - Lão - Khổng. Và sau khi tốt nghiệp trung học, có ý đi ẩn tu xuất thế nhưng không thành, Đan thi vào Houston University để học song bằng về Biểu diễn âm nhạc (Piano, Clavecin, Organ nhà thờ) và Văn chương Anh. Đây là thời gian song song Đan nghiên cứu sâu hơn về văn chương cổ Việt Nam, Trung Hoa và làm nhiều bài từ bằng Hán ngữ.

Tốt nghiệp đại học, chàng trai quay về Cali, nghiên cứu sâu về tôn giáo, triết học phương Tây và phương Đông, trong đó có nghiên cứu về Nguyễn Đức Đạt, một nhà nho thời vua Tự Đức. Đan quay lại Hà Nội ba tháng nghiên cứu tại Viện Hán Nôm bằng học bổng. Sau đó năm 2019 nhận học bổng tiến sĩ tại Đại học đường Columbia. Vì đây cũng là năm trường này mở ngành Việt Nam học.

Nguyễn Thụy Đan có các nghiên cứu và bản dịch công phu các bài thơ xưa, các tài liệu Hán-Nôm cổ của dân tộc. Nhưng bên cạnh đó làm thơ rất hay, đượm hương vị cổ thi, ngay cả khi anh chàng rất trẻ và sống ở New York. Ví dụ như bài thơ sau:

"đây ngũ quận chiều trời nữu ước

nhịp tàu ga lộn bước lưu lang

đá cây hỏi tuổi hoang mang

ngỡ ngàng ngõ ngách phố phường nắng phai"

(nữu ước. tháng 2. cùng trần hoài thư)

"bờ tuyệt vọng ta làm tượng đá

tháng năm trường đại tạ xuân thu

trên vai trải mấy dãi dầu

sau lưng ký ức một màu bạc phơ

tượng gục mình như xưa ta đã

gục bên em trắng xõa chiều mưa

bàng hoàng từng trận gió đưa

lạnh tràn vang bóng thuở xưa làm người

miền quạnh vắng tuổi trời hóa thạch

tượng ngồi im quên sạch hôm qua

cỏ cây tươi héo chiều tà

ta làm tượng đá ngự tòa phù sinh"

(tọa vong)

Nhưng không đơn giản như vậy, Nguyễn Thụy Đan là cả một thế giới cần khám phá bình tĩnh với đủ thời gian. Là vì chàng trai trẻ này rất thạo lẩy Kiều, làm thơ theo thể hát nói (thường thấy trong hát Ả Đào), làm thơ Hán ngữ và viết các bài Từ theo thể loại Từ Tống rất hay và chuẩn chỉnh.

Ví dụ như một bài thơ trong thể hát nói như sau của anh:

Vĩnh Phúc đêm mưa

Đêm thu mưa gió đầy giời,

Mộng tàn gối lạnh đâu người trong mơ.

Đèn khuya khi tỏ lại mờ,

Hắt hiu bao nỗi sầu xưa hận rày,

Thê phong khổ vũ 1

Chốn buồng không mất ngủ lại đêm nay.

Đốt tương tư thắp đĩa dầu đầy,2

Trải mưa gió niềm tây dường dập tắt.

Ngã thị nhân gian trù trướng khách,

Tri quân hà sự lệ tung hoành.3

Bạn giai nhân khó gặp đã đành,

Biết nhau mới tiếc duyên lành dang dở.

Quân tín phủ: Trường đoạn thiên nha tòng thử khứ,4

Nợ đa tình ôm giữ kín từ đây.

Gìn vàng giữ ngọc cho hay.

(xem chú thích)

Trong khi làm thơ theo lối hiện đại, Đan cũng có khả năng gây bất ngờ

từng đêm. từng đêm. lập lòe đèn phố

anh đã đi ngang. anh vẫn đi ngang. nguyện thề

từng nhịp lê bước. anh sẽ một lần thổ lộ

cùng em. nơi đây. chín rộ quán khuya. anh làm

bóng ma. tàng hình. từng đêm

lơ lớ gọi-một-ly-bạc-xỉu-đá. uống chỉ để nghe vơi

nỗi thèm khát môi em.

một mai. bằng ta còn có nhau

anh sẽ đưa em qua

những miền mặc khải

vì sao anh điên

vì sao anh dại

vì sao anh liệt

vì sao anh đui

vì sao anh điếc

vì sao anh câm

vì sao sáng ra soi gương anh ngán ngẩm

mặt mày lem-luốc-khốn-nạn-chó-đẻ chưa một lần hiên ngang

nhìn thẳng người ta

Có nhiều hy vọng ở Nguyễn Thụy Đan, một thi sĩ, và một nhà khoa học trẻ có thể đóng góp nhiều cho văn hóa dân tộc.

[1] Dịch nghĩa: “Gió buốt mưa sầu”.

[2] Mượn ý ca dao: “Đêm khuya thp đĩa du đầy/ Hc hành thì ít, su tây thì nhiều”.

[3] Dịch nghĩa: “Ta là khách buồn bã trong cõi nhân gian/ Cớ sao quen biết người lại khiến nước mắt chảy ròng rã?”. Trích bài từ theo điệu Hoán khê sa của Nạp Lan Tính Đức (1655-1685), danh gia người Mãn Châu thời Thanh sơ.

[4] Dịch nghĩa: “Người tin chăng, đứt ruột chân trời từ đây trở đi”. Câu “Trường đoạn thiên nha…” trích từ bài từ theo điệu Lãng đào sa của Cố Thái Thanh (1799 – 1877), nữ danh gia người Mãn Châu thời Thanh.

………………………………..

Một số bài thơ của Nguyễn Thụy Đan

Bài 1

victorville tháng 6. gặp nguyễn văn sâm

dạ đàm giai thị nam trung thoại

tương đối hồn vong khách lý nhân

phan thanh giản

con đến thăm thầy. trời tháng sáu

nắng cali đốt cháy không gian

êm đềm. một buổi ngồi cười mỉm

thầy kể. con nghe. chuyện nước nam

quê con đâu đó. miền hoan diễn

vạn cổ mông lung cõi việt thường

con biết quê con qua sử sách

chắt chiu từng chữ. nén đau thương

đồng bào lạ lắm. tiên sanh nhỉ.

chưa hiểu chi nhau. đã vội khinh.

ai thấu. bên này buồn đến thế

còn gì tiêu khiển. chí bình sinh.

hăm bảy năm trời. con sống gửi

nơi đây. lạc cả giọng quê xưa

lâu dần quen với đời im lặng

để mặc tàn phai những ước mơ

thầy cùng con. một bữa sang sảng

nói. lại thôi. trùng điệp nỗi đau.

kẻ bắc. người nam. lìa cố quốc

chân trời. ai ngỡ hãy còn nhau.

dường như. thầy hiểu lòng con đó

nhẹ bẫng. trăm năm trắng thoáng mây.

chỉ biết tìm quên miền chữ nghĩa

đôi khi. nghe tạm xót xa khuây.

02.06.2021

Bài 2

folsom. tháng 5. ở một nơi ta đã đi qua.

sắt se ngọn gió. chiều nay

võ vàng. nhung nhớ. tháng ngày héo hon

đi. về. hun hút cô đơn.

đài rè nghe thoảng điệu đờn ngày xưa

dường như. giữa nỗi bơ vơ.

âm thầm sâu thẳm mịt mờ còn vương.

chiều nay. mắt nhắm. tay buông.

xót xa lẩn bóng tà dương. cuối trời.

chiều nay. phó thác tay người.

tình khiên hoang dại. mộng đời nát tan.

chiều nay. khóc giữa mê man.

tủi hờn tê điếng ngập tràn mi cay.

sắt se ngọn gió. chiều nay

bóng ai như gió tiễn ngày vào đêm.

03.05.2021

Bài 3

Tự thuật

Vào núi năm tròn ngày một cuồng,

Học hành sự nghiệp thảy đều buông.

Liếc nhìn thằng tục nửa con mắt,

Cười nhạt tình đời mấy tấn tuồng.

Nghĩa bạn nào hay thua khách đĩ,

Lòng người chửa chắc kịp chim muông.

Nguồn cơn nghĩ đến thêm ngao ngán,

Quạnh quẽ non không đóng cửa buồng.

03.04.2021 –

4/6/2021