Danh ngôn

Trong mọi cộng đồng, chúng ta cần một nhóm thiên thần gây rối.

We need, in every community, a group of angelic troublemakers.

(Bayard Rustin – trích bài phát biểu tại New York City 1963)

Trong mọi trường hợp, chắc chắn rằng sự thiếu hiểu biết, đi kèm với quyền lực, là kẻ thù tàn bạo nhất có thể có của công lý.

It is certain, in any case, that ignorance, allied with power, is the most ferocious enemy justice can have.

(James Baldwin - No Name in the Street 1972)

Các cuộc cách mạng và các cá nhân có thể bị giết hại, nhưng bạn không thể giết chết các ý tưởng.

While revolutionaries and individuals can be murdered, you cannot kill ideas.

(Thomas Sankara, một tuần trước khi bị ám sát, 1987)

Không có cảm giác nào cô đơn hơn việc bị chính đất nước mình trục xuất.

There's not a more lonely feeling than to be banished by my own country.

(Kiyo Sato – Kiyo’s Story 2009)

Ban Biên tập

Địa chỉ liên lạc:

1. Thơ

tho.vanviet.vd@gmail.com

2. Văn

vanviet.van14@gmail.com

3. Nghiên cứu Phê Bình

vanviet.ncpb@gmail.com

4. Vấn đề hôm nay

vanviet.vdhn1@gmail.com

5. Thư bạn đọc

vanviet.tbd14@gmail.com

6. Tư liệu

vanviet.tulieu@gmail.com

7. Văn học Miền Nam 54-75

vanhocmiennam5475@gmail.com

Tra cứu theo tên tác giả

Thứ Tư, 14 tháng 4, 2021

Nhật ký chiến tranh (kỳ 5)

Vương Trí Nhàn

2/7

Một làng 16 nữ, có 4 nam thanh niên. Một tay vợ nguỵ quyền bảo tôi không thấy Mỹ đâu. Giờ Mỹ về rồi, chỉ thấy các ông thôi, các ông ở đâu về. Tôi không biết ông Hồ là ai. Thế bây giờ ông ấy chết thì còn lấy ai.

- Bộ đội đánh Thừa Thiên đi bầy tôi đỡ khổ.

- Mẹ không gọi con mẹ về?

- Ở xa, không gọi được. Với gọi cách chi?

- Sao không gọi hắn từ hồi trước.

- Cứ đánh đi, chết vài đứa, để đấy, đẻ đứa khác.

--Nó đánh chết nhiều người. Còn lo đánh cứu dân chứ.

- Thời bây giờ e chết cũng phải đánh thôi

- Giờ làm sao đánh cái thằng Tàu chú ạ.

Ở xóm Thạch Hãn, phía nam thị xã, tôi vào một nhà. Một bà cụ nét mặt Quảng Trị, nanh ác và buồn phiền. Hai cụ ông, chắc anh em với nhau, người nào cũng đít móp, người thẳng đuỗn. Quần đùi, áo cộc, ngắn hững ngắn hờ. Cụ nào cũng để râu che kín miệng. Không những thế, tất cả cử chỉ chậm rãi, con người thiếu tinh anh, các cụ như một nhân vật của xứ sở xa lạ nào lạc sang vậy (bên cái lục cục xao động nhố nhăng của lớp trẻ, có cái tĩnh mịch của lớp người già. Ở xã hội lúc này, cả hai đều làm tôi phát sợ)

- Bộ đội có đá lửa cho xin mấy viên nào.

-…

- Bộ đội có muối không?

- Các cụ thiếu muối lắm ạ?

- Hỏi làm gì? Có muối cho không mà hỏi.

... Tôi rớt nước mắt khi nghĩ đến tình cảnh các cụ hiện nay. Nhà cửa đổ nát. Đồ đạc, lợn gà thất tán. Tôi cứ nghĩ với sức già như thế, không biết tất cả những thứ này đến lúc nào người ta có thể dọn dẹp xong?

Nhưng mà không thương được, không thương được những ai ngoài mình, tôi nghĩ lại. Gia đình nhà tôi ngoài kia cũng nghèo quá, cũng xiêu vẹo, và lúc nào cũng sẵn sàng xiêu vẹo thêm vì chiến tranh. Những cái nhà của gia đình tôi, họ hàng tôi, bất cứ cái nào cũng sẵn sàng đổ nát... Chính là đồng bào ta ở đâu bây giờ cũng vậy.

Những người dân nơi đây chỉ đứng trước sự đổ nát cụ thể của từng gia đình. Những người chủ động chiến tranh như chúng ta còn đứng trước một sự đổ nát lớn hơn của cả đất nước nhất là về mặt tinh thần: mọi điều sau đây sẽ bắt đầu lại như thế nào -- cho mỗi một tuổi trẻ, cho mỗi một con người.

3/7

Rời khỏi thị xã.

Một trong những ngày mệt mỏi nhất của chuyến đi. Từ Quảng Trị sang phía Triệu Phong. Cùng đi với những người chạy loạn. Địch đổ Hải Lăng từ mấy hôm trước. Theo sự giải thích, ta để cho nó ra rộng mới đánh. Dân lại tản cư.

- Những bà cụ già áo dài hớt hải gánh chậu, gánh túi.

- Một ông khoảng 50, cái mũ phớt che nét mặt hùm hụp. Quần cộc, áo cộc. Khăn vắt vai. Bên nách, một hộp chè dang dở. Thất thểu.

- Một đứa trẻ bé 10 tuổi bế đứa độ 6 tuổi. Chân đứa được ẵm thò gần xuống đất. Nó cần chị bế vì có lẽ nó sốt, mặt đỏ rừ.

- Một đứa trẻ độ 7 tuổi, cái xắc du lịch 2 quai đeo vai, lại còn mủm mỉm nữa chứ.

- Rất nhiều ngưòi mẹ trẻ  -- ở đây, người ta lấy chồng, có con sớm. Một người nào đó có lẽ mới ở cữ chừng độ tháng nay, da trắng và xanh rớt. Những đứa trẻ lớn hơn được quảy trong thúng.

Những bữa cơm tạm bợ ngay cổng ngõ những nhà bên đường. Dọn ngay ra đất. Một chút thịt muối, một con lợn nào mới bị giết. Bọn trẻ con giành nhau một bi đông nước rồi đổ tung cả ra sàn.

Lũ trẻ vẫn cần đi ra đi vào, cần nghịch, cần ngủ. Và người ta lo cho nó nhiều hơn lo cho chính mình.

Một người dân nói nước nhà mà có yên, khéo chừng mỗi làng cũng còn được độ …một hai người.

-- Đánh nhau có phải như con bệnh, mỗi ngày thuốc thang giảm bớt. Đằng này, nó lại như là lửa đổ thêm dầu vào mãi.

Vào những nhà đồng bào ở đây, cứ như là lạc vào những gia đình Thái Lan về nước ở miền Bắc trước 1965. Những người phụ nữ một hai mặt con, mặc quần áo chật, bó, mà bẩn, dơ dáy. Những cô con gái quần hoa áo hoa, và thoáng thấy những cái quần trắng... Chợt nhớ những điều thuộc về đường nét chân quê. Sự tấn công của văn minh tây phương hiện đại, văn minh Mỹ, hình như đã công phá được cái phần cốt cách đã trì trệ, trong khi miền Bắc lại... ngủ lì trên cái cốt cách đó.

Một người lính kể từng ở Triệu Ái, Ba Lòng, Cùa. Đi đâu cũng dễ. Dân Ba Lòng có một làng chuyên đi nhặt mua đồ hộp cũ của Mỹ, bán cho mình. Cần gì dặn họ. Thời gian hắn xúc quân, đồng bào báo trước cho mình.

Con nít giữ trâu 3g chiều hắn về làng xem có địch không. Không có địch thì thôi. Nếu gia đình bảo có, hắn rấp cảnh lá báo trước cho mình.

(Làng này, 1967, đầu 1968, ta không vào, cho nên dân  làng còn tin mình tốt)

Sau địch hốt làng đi, ngay giữa mùa lúa. Vào Cùa.

Lần đầu vào, ông già rinh khẩu súng lên giường thờ, nhìn mãi: Mấy năm nay mới thấy khẩu súng cách mạng. Nhưng bận sau các chú đừng mang vào...

Làng giàu. Một bà già bảo nếu vào nhà, không ăn cơm, không mua được gì.

Có thời gian 3g30 chiều đã vào dân. Thường họ hỏi có vợ có con chưa. Để, do họ có con gái, họ gả cho. Thật hay đùa, nói cho vui lòng?

Dân bảo các chú về, tôi sợ. Thấy các chú bị thương, ưng ra coi, nhưng tôi không dám ra, vì hắn doạ con gái ra cắt tai. Tôi phải mượn đứa con nít tôi ẵm ra xem. Rồi đi khênh thương binh mấy bữa, tôi hết sợ.

Bộ đội vào, chưa mở chuồng gà bộ đội mở hộ, còn lính SG không bán gà thì hắn bắn. Hắn vào nhà, lấy rơm. Y như cảnh trong tiểu thuyết Nguyễn Công Hoan hồi tiền chiến.

- Hai anh ơi.

- Không hai anh.

- Thế kêu chi?

- Kêu hai thày

- Các thày đun thì đun củi, đun rơm hết rơm cho bò ăn.

Trốn lính. Có người trốn 4 lần, mới bị bắt. Có người trốn 18 năm. Dân bảo tài. Tôi trốn ra đồng chứ đâu mà tài. Toàn vợ đưa cơm cả.

Ở đây, đồng bào ít biết nhà nhau, thôn này thôn kia không biết nhau. Thanh niên không dám làng này qua làng khác.

Dân ở ven thị xã, hỏi bến xe, không biết. Chỉ có những người buôn bán thì biết. Dân khen Mỹ tốt. Con nít ra nơi đóng quân Mỹ chơi. Bọn Mỹ đóng ở nhà nào, khi đi chào gia đình rồi  mới đi.

Nhìn người dân ở đây, tôi không khỏi nghĩ tới những cơ cực trong cuộc sống gọi là hậu phương ở nhà. Một gia đình khốn khó hơn ở quê Đông Hồ, nhà anh Bảo - một thứ khổ kinh niên, không phương cứu chữa. Mà đó là gia đình còn ít đóng góp vào cuộc chiến, không có người đi lính, không có ai chết, chỉ mòn mỏi cam chịu.

- Chúng ta sẽ khổ bao lâu nữa? Câu hỏi lúc này được chuyển thành Chúng ta còn đánh nhau bao lâu nữa?

Mấy hôm nay, đài báo lại nói nhiều đến cái gọi là những chiến sĩ vận tải trên mặt trận của mình. Tôi lờ mờ biết rằng đạo quân này có khi còn đông hơn đạo quân đánh nhau, đang lần mò như kiến tha mồi tiếp tế cho đạo quân đánh nhau.

Và bao giờ cũng vẫn vậy, sau khi nghĩ về đạo quân khổng lồ đi đánh nhau, chúng ta nghĩ đến cả đạo quân chịu đựng sự đánh nhau - đó là nhân dân.

4/7

Một ngày ven sông Ba Lòng. Lính ở những xóm làng dân bỏ lâu ngày, nay biến thành một thứ trại. Nhà đổ, cỏ leo vào giữa nhà. Cây cối đổ ngã. Những quả bưởi bé tí cũng bị lính vặt.

Những người lái xe mới học lái về, còn tử tế. Những người lính vận tải trốn việc, ngủ có người gọi không trở dậy, dậy làm thì cãi nhau, vặc nhau. Đêm ngủ hầm hai người thành bốn. Nằm đâm chân vào nhau, không buông màn, muỗi vo vo, khá lâu mới ngủ nổi.

Người dân Quảng Trị quen hút thuốc, ngay cả lúc chạy loạn cũng hút thuốc. Cha dúi cho con nắm thuốc chưa thái. Bạn bè đưa nhau tờ lịch làm giấy. Chạy loạn ông bố vẫn mang theo cái kéo và đứa con buồn tình lại lôi ra cắt giấy. Tôi không khỏi phì cười khi trong số những thứ giấy mang ra làm giấy lộn có những tạp chí gọi là Tư tưởng, Đối diện, nói về những Sartre, Machado, Brecht...

Tôi chỉ yên tâm khi nghĩ rằng mình cũng đang cực khổ quá, mình cũng đang ở trong tình trạng chung của sự bất lực của cả một  dân tộc.

Những bữa cơm đầu đường, những buổi tối ngủ nhờ, những câu chuyện tầm phào, về đào hầm đào hào, giá một lon gạo, một mớ rau....

Tôi vừa thích thú, vừa ngần ngại khi phải nghe chuyện những thường nhật ấy. Những tình cảm mạnh hơn chợt đến, khi nghe những chuyện lớn lao. Ta kéo địch ra thế này thế kia. Ta đã bố trí thế nọ. Tạm hy sinh, ráng chịu gian khổ, mọi việc sẽ thay đổi, tương lai thật rực rỡ. Nhưng sự cảm động không giữ được lâu. Nó thay đổi thất thường. Nhiều lúc thấy phấn chấn, chợt ứa nước mắt khóc. Liền sau đó lại thoáng qua nghi ngờ. Thậm chí sinh lòng căm ghét. Cảm thấy bị bịp. Cho đến lúc bắt gặp trong Một chút mặt trời trong nước lạnh một câu đại ý:

- Có những chữ sáo, nhưng nội dung đều được diễn tả đúng với ý nghĩa của cái tiếng sáo rỗng ấy. Lỗi không ở chữ. Lỗi ở người ở việc.

   Quyển sách này của F. Sagan tôi nhặt lên từ một sàn nhà khi lang thang trên phố xá đổ nát.

5/7

Trong bom đạn, đôi lúc cứ định hỏi những người dân xem họ suy nghĩ gì về chính trị. Rất nhanh, rồi tôi lại nghĩ hỏi thế cũng là một sự ngớ ngẩn. Với đa số những người dân, lúc này là làm thế nào để sống, sống mà thoát khỏi cảnh đầy đọa.

Nhưng chính trị vẫn là vấn đề đặt ra ngay từ Hà Nội. Tự do, độc lập, hạnh phúc, thịnh vượng, quan hệ giữa văn minh vật chất và văn minh tinh thần, quan hệ giữa sung sướng, dễ chịu, của cải -- và niềm tin lẽ sống. Cả chủ nghĩa nữa.

Một gia đình bình thường ở đây, thu hoạch vài chục tạ thóc một năm. Giá mọi thứ rẻ. Vải cao nhất 170đ 1 m. Gạo 100đ 6 lon (66,66đ 1kg) Lương giáo sư trung học 250.000 đồng.

Sự đổi mới làm những người đã đến cách đây mấy năm, giờ có dịp trở lại, thấy sửng sốt,– một tờ báo mới in đâu hai tháng trước còn ghi nhận xét của một phóng viên ngoại quốc như vậy. Về nông nghiệp, nông giang, máy nước, máy cày. Không còn địa chủ. Nhà nước đấu thầu, cho nông dân làm rẽ, thay đổi hàng năm (một sự kích thích sản xuất). Một hệ thống xa lộ loại tốt nhất Đông Nam Á.

Người ta không nghĩ đến sự chọn lựa nữa.

6/7

Ở Đội Thuyền Mỹ Lộc

Đêm nằm, nghe pháo, bom rất nhiều. Nhưng nghe đài, nhớ Hà Nội và gia đình. Báo chí, báo Nhân Dân nói nhiều tới sơ tán quá. Tức ngoài kia nó đánh khá căng thẳng. Thêm những khu phố nào của Hà Nội bị tàn phá, nhà máy điện -- trái tim của Hà Nội -- có còn không biết.

Nếu không có điện nữa, thì Hà Nội buồn lắm, ví như mình ở nhà, chắc ít được rời sơ tán về Hà Nội. Bạn bè mỗi người một ngả, và người nào cũng cúi mặt xuống vì nỗi lo toan hàng ngày, hướng đi bế tắc.

... Bao giờ thì sinh hoạt lại có thể ổn định trở lại, tâm lý mọi người bình tĩnh trở lại? Con người tưởng hôm qua mình khổ đã đến kỳ cùng rồi, nhưng trông về phía trước, lại thấy chắc còn cực hơn, những khó khăn được dự kiến còn ghê gớm gấp bội.

Kết thúc mọi sự lan man trong đầu óc buổi sáng hôm nay, chỉ còn ước là mình còn sống, để biết được tất cả những cái này sẽ đi đến đâu -- tội ác của kẻ địch, sự quằn quại của mỗi chúng ta, và ngôn từ của chúng ta -- càng ngày lời lẽ tuyên truyền trên đài Tiếng nói Việt Nam càng trở nên phiêu lưu liều lĩnh hơn. Ngày mai, ngày mai của chúng ta ra sao?

Người chết sau một trận bom. Người chết nhiều quá. Sao lại như thế? Nhưng vẫn cứ thế, vừa định hỏi đã biết là chuyện buồn cười, ai lại đặt ra câu hỏi ấy lúc này. Con người của chúng ta thường quá, rẻ quá, cho nên giữa chết và sống, cũng không có gì khác biệt. Nhìn vào những người chết ta nhận ra cái giá của cuộc sống ta đang hưởng.

Nhớ có lần vào Quân y viện 5. Ở ngoài, tôi rất ghét thuốc, nhưng vào viện ít lâu sinh ra thèm thuốc, sùng bái thuốc, chỉ lo không được cấp những loại thuốc cần thiết. Với súng đạn cũng vậy. Hôm từ 4 Lý Nam Đế ra đi, trước khi lên xe, tôi đã xin phép ông Vũ Cao để khẩu súng lục ở nhà. Giờ đi trên đất này, lại thấy cần. May mà có cậu lính nó chỉ ngay cho một khẩu các-bin. Vui vẻ vác ngay. Ít nhất là để yên tâm rằng mình cũng đang như mọi người.

     (Ở nước tôi bây giờ, người ta dùng các thứ đồ quân dụng phổ biến đến nỗi nghĩ thêm ra nhiều cách để trang trí cho nó đẹp hơn, và quen hơn. Tôi, tôi không muốn như vậy.)

Bị thương, máu bắn vào người khác mới biết. Quần áo loang lổ như quần áo lính dù nhưng đây là loang lổ những máu. Máu rơi trên ba lô, ruồi vo ve tìm cái mùi tanh chỉ máu mới có – tưởng là ai chứ hóa ra chính máu mình vậy. Trong đầu cứ thấy vẳng lên những câu thơ có chữ máu:

Máu đã chảy em ơi trong đó –

Máu Ba Lan và máu Hồng quân

Máu Hồng quân, máu Trung Hoa

Cùng là máu đổ cho ta đất này

Máu người không phải nước lã.

Sau những ngày máu đổ này, hy vọng sẽ được thấy những gì? Còn khó lắm, bởi vì cuộc chiến tranh chẳng những tiêu phí của chúng ta những con người, sức lực của người sống và sinh mạng của người chết - nó còn tiêu phí những ước vọng, những chí khí.

Xem mà xem, trong chiến tranh, chúng ta mơ ước những cái lớn lao đâu đâu, nhưng cũng chính lúc đó, chúng ta trở nên thiết thực hơn, cụ thể hơn, có thể là hẹp hòi tầm thường hơn, ta đã hỏng đi bao nhiêu.

Chúng ta mất gì và được gì trong cuộc chiến tranh này? Câu hỏi ấy giờ nghe sang trọng quá. Giờ thì không ai có quyền cân nhắc nữa. Lúc này, cái phải tính là tìm ra sự lì lợm, sự bất cần, không lối thoát nào cũng cứ sống.

7/7

Đi trên đường Quảng Trị bữa nọ, cả bọn thấy một con bồ câu đậu trên mái tôn. Ứng b trưởng bảo bắn. Tôi bảo a trưởng Tác các - bin đây. Nhưng Tác lấy ngay AK, quỳ một chân, bắn rất đàng hoàng. Con chim dại quá, cứ đứng rỉa lông rỉa cánh. Thế là nó ngã lăn xuống đất, và tôi không đủ can đảm xem nó bị bắn vào đâu nữa, chỉ thấy một vệt máu đỏ loang ra trên cái màu lông trắng toát.

- Thương nó quá đi.

- Sao anh còn đưa các - bin cho em?

Tôi không còn biết nói thế nào nữa. Mình cũng thèm sự giết chóc ? Mình cũng khát máu? Và tôi cứ cảm thấy như vừa mắc tội!

Khi giải phóng Quảng Trị, bắt đầu lúa chín. Người ta đã gặt ngay sau khi có tiếng súng. Một phần thì hồi đó cũng ít bom đạn. Bây giờ mọi người đứng trước một công việc khó khăn hơn, gieo cấy.

Hôm qua nhong nhóng ngồi nhà, tránh bom, và xua con cái vào hầm. Người nông dân Quảng Trị hôm nay lại buộc cái chạc ni lông vào cổ trâu, lại lấy ra những cái cối xay đã cũ, để xay giã.

Chiến tranh cũng đẻ ra nhiều cảnh hỗn loạn, người nọ đến ở nhà người kia. Cuộc sống tất cả mọi người như bị lắc tung cả lên. Và với bản tính cố tìm một chỗ ổn định của mình, người ta hiểu rằng cần sống nương tựa vào nhau, người ta tốt hơn, nhân hậu hơn vốn có.