Danh ngôn

Trong mọi cộng đồng, chúng ta cần một nhóm thiên thần gây rối.

We need, in every community, a group of angelic troublemakers.

(Bayard Rustin – trích bài phát biểu tại New York City 1963)

Trong mọi trường hợp, chắc chắn rằng sự thiếu hiểu biết, đi kèm với quyền lực, là kẻ thù tàn bạo nhất có thể có của công lý.

It is certain, in any case, that ignorance, allied with power, is the most ferocious enemy justice can have.

(James Baldwin - No Name in the Street 1972)

Các cuộc cách mạng và các cá nhân có thể bị giết hại, nhưng bạn không thể giết chết các ý tưởng.

While revolutionaries and individuals can be murdered, you cannot kill ideas.

(Thomas Sankara, một tuần trước khi bị ám sát, 1987)

Không có cảm giác nào cô đơn hơn việc bị chính đất nước mình trục xuất.

There's not a more lonely feeling than to be banished by my own country.

(Kiyo Sato – Kiyo’s Story 2009)

Ban Biên tập

Địa chỉ liên lạc:

1. Thơ

tho.vanviet.vd@gmail.com

2. Văn

vanviet.van14@gmail.com

3. Nghiên cứu Phê Bình

vanviet.ncpb@gmail.com

4. Vấn đề hôm nay

vanviet.vdhn1@gmail.com

5. Thư bạn đọc

vanviet.tbd14@gmail.com

6. Tư liệu

vanviet.tulieu@gmail.com

7. Văn học Miền Nam 54-75

vanhocmiennam5475@gmail.com

Tra cứu theo tên tác giả

Thứ Sáu, 2 tháng 10, 2020

Dấn chân Tô Hoài (phần 1)

Yên Ba

Chú dế của ông đã từng đạp tanh tách trong những giấc mơ tuổi thơ tôi. Mà chẳng phải chỉ mình tôi. Bao đứa trẻ khác cũng đã từng bị ám ảnh bởi những con dế ấy. Chú dế mèn và bạn bè chú, thông minh, nghịch ngợm, có những suy nghĩ rất người mà cũng rất mộng (mơ một thế giới đại đồng!) đã làm cuộc phiêu lưu kỳ diệu qua tâm trí đầy những mộng tưởng của thế hệ tôi, để lại một dư vị ngọt ngào khó tả. Tác giả của những giấc mơ ấy là ông, nhà văn Tô Hoài...

100 năm ngày sinh ông, 27-9, tôi giở những trang viết ghi lại những lần gặp gỡ ông, khi thì ở nhà ông trên phố Đoàn Nhữ Hài, khi thì trên Nhật Tân ở Hà Nội... Chúng là những ký ức vụn về một nhà văn lớn mà tôi đã có may mắn nhiều lần gặp trong đời...

***

Ông ngồi trước mặt tôi, từ tốn, chậm rãi. Dấu vết của năm tháng chỉ hiện ra khi ông đi lại, hơi chậm chạp. Cặp mắt sáng tinh anh lấp lánh, mỗi khi ông cười khoé mắt lại nhăn nhăn. Thỉnh thoảng giữa câu chuyện, bắt được một ý thú vị, ông bật cười thật hồn nhiên, sảng khoái, nụ cười của một người đã nhìn thấy nhiều, quá nhiều điều trong cuộc đời. Có người bảo ông khôn, có lẽ là do nụ cười này đây. Chúng cuốn hút người ta, tưởng như đã bộc bạch tất cả mà lại thật kín đáo...

“Tôi là người tự học” – ông bảo tôi vậy. Học tất cả các thứ. Lấy sách vở, cuộc sống, lấy tất cả những gì diễn ra xung quanh mình làm chất liệu để học. Ông đã tự học tiếng Pháp, cũng không có ai ở Hội Nhà văn đã đi học Trường Đảng cao cấp ba năm như ông. Và hơn hết là học cách viết văn.

Ông bảo: “Tôi luôn chống lại cái chuyện làm việc theo hứng! Theo tôi thì người ta có thể hứng đi chơi, hứng ăn uống chứ chẳng ai hứng làm việc cả. Bởi vì làm việc quả thực là vô cùng nặng nhọc. Viết văn cũng là một công việc nặng nhọc. Chính vì thế mà tôi phải tự bắt buộc mình ngồi viết, lâu dần thành thói quen. Ngày nào tôi cũng viết một cái gì đó. Có thể là vài ba hôm sau, những cái tôi viết mấy hôm trước tôi đem vứt đi, thế nhưng những cái còn lại thì có thể trở thành một cái gì đấy. Tôi thích viết văn, viết cả báo nữa, liên miên đủ thể loại, như lấy từ những ngăn riêng ở trong đầu mình ra vậy. Cũng vì vậy mà tôi viết khá dễ dàng, không phải lấy hơi lấy sức gì đâu!”.

Vậy cứ chăm chỉ viết từ ngày này qua ngày khác là có thể yên tâm để trở thành một nhà văn – tôi hỏi ông. “Dĩ nhiên là không phải như thế rồi! Đơn giản chỉ là vì như thế này: có những chuyện đêm nằm nghĩ thấy thích lắm, sáng dậy ngồi vào bàn viết, chữ như đi đâu mất cả. Rõ là vẫn chuyện ấy đấy mà khi viết ra rồi thì chẳng thấy hồn vía đâu nữa. Khoảng cách giữa cái trong đầu mình nghĩ cho đến những con chữ trên trang giấy xa lắm! Nếu vượt qua được cái khoảng cách ấy thì mới thành người viết văn được” – ông điềm đạm giải thích, không thèm để ý đến vẻ ngựa non háu đá của tôi.

***

Người ta thường bảo văn ông Nguyễn Tuân khệnh khạng, văn ông Nguyên Hồng khắc khổ... Còn văn Tô Hoài thì sao? Một chút hóm hỉnh pha chút giễu cợt của con người ngoại ô biết hết những thói đời của dân thị thành; một chút ngu ngơ của người miền núi xuống đồng bằng, hồn nhiên, thấy cái gì cũng lạ, tin đấy mà cũng ngờ đấy...

Ít ai chăm chút câu văn như ông (ông dẫn lời Hemingway: nhà văn có thể nghĩ ra chủ đề, nghĩ ra cốt truyện, tạo ra nhân vật, nhưng chi tiết thì phải sống mới có được). Chi tiết trong văn ông cầu kỳ, rất đắt, chỉ những người đọc tinh mới biết rằng chủ nhân của chúng đã phải dụng công như thế nào. Cũng như câu văn của Hemingway, câu văn của ông thường thô, gọn (tôi ghét dùng chữ và vì nó bắt nguồn từ cách diễn đạt của tiếng Pháp – ông bảo thế).

Lối tổ chức làm việc và ghi chép của ông cũng riêng. Làm chủ nhiệm soạn thảo Đề cương văn hoá mới, một công trình lớn, ông chỉ có thêm trong biên chế ba người chính thức, còn lại là hợp đồng nghiên cứu. Ông là người có sức đọc ghê gớm, thượng vàng hạ cám cái gì cũng đọc, nhưng ghi không bao nhiêu. Đọc Kinh Dịch vài trăm trang, ông chỉ ghi lại một câu; đi thực tế vài ba tháng, ông ghi lại đôi ba dòng những điều ông cho là cốt lõi và cần thiết. Ra đường phố, trong hàng quán, ông thường thu mình lại, quan sát, ghi nhớ. Đó là cách học của ông từ cuộc sống.

“Các nhà văn tuyệt đối phải học. Trên thế giới, hầu như chỉ có trường hợp Henri Charrière (tác giả Papillon – Người tù khổ sai) là một ngoại lệ mà thôi” – ông nói thêm.

***

Trong những cuộc trò chuyện với tôi, ông thường có những nhận xét tinh tế về các nhà văn cùng thời.

Ông nói: “Tôi có biết hai người là Vũ Trọng Phụng và Vũ Bằng. Đó là hai người mà cuộc sống thực tế của họ hầu như trái ngược hẳn với những gì mà người ta thấy họ thể hiện ra trên trang viết. Văn của Vũ Bằng nhẹ nhàng, man mác, thế nhưng ông sống rất giang hồ. Nhà của Vũ Bằng là nhà đại phú, còn ông đã từng học Albert Sarraut, sau ông bị gia đình từ. Vũ Trọng Phụng nhà lại rất nghèo. Đọc những trang viết của ông, những nhân vật của ông, thấy như ông từng trải, lăn lộn lắm. Kỳ thực ra, Vũ Trọng Phụng là người sống rất hiền lành, nho nhã. Ông có một cách rèn luyện viết văn mà ít người biết, ấy là qua báo. Ông Phụng đọc rất nhiều báo, cả báo Tây báo ta và rất nhiều chi tiết, cốt chuyện trong các tác phẩm của ông là từ báo chí. Cả Vũ Trọng Phụng lẫn Vũ Bằng đều được trời phú cho một tài năng rất lớn, ấy là sức tưởng tượng ghê gớm. Tưởng tượng nhưng không có chi tiết nào là không xuất phát từ thực tế. Như chuyện hai anh lính cảnh sát Min Đơ và Min Toa trong tiểu thuyết Số đỏ, đúng là trước kia mấy ông cảnh binh phải đi xe đạp rảo quanh khu vực mình chịu trách nhhiệm về an ninh suốt ngày đêm, chỉ có cái phần trở thành cua rơ đoạt nhiều danh hiệu là Vũ Trọng Phụng thêm vào thôi. Hay cái tiệm của Xuân Tóc Đỏ tôi cũng biết, nó là cái tiệm Cánh buồm gì đó ở gần Bờ Hồ...”

Những nhà văn ấy, nhiều người trở thành nhân vật của Tô Hoài, như trong Chiều chiều.

Ông kể: “Đó là những nhân vật có thực mà cuộc đời trôi giạt ghê lắm. Như Vũ Bằng chẳng hạn. Tôi có đọc một số báo, thấy nói ông có thể là người trong một đường dây hoạt động tình báo của ta. Tôi nghĩ là có thể lắm chứ. Tôi cũng chỉ suy đoán rằng có thể ông không phải là nhân viên tình báo mà là một cơ sở tình báo của ta. Rồi những người phụ trách, có thể đã chuyển sang đường dây khác, hoặc bị bắt hoặc bị chết, mà theo nguyên tắc hoạt động đơn tuyến, chỉ có người nào phụ trách thì mới biết được thôi... Hồi mới giải phóng, tôi vào Sài Gòn, có gặp Vũ Bằng. Ông sống khổ và nghèo túng lắm. Nhiều người biết rằng ông là nguyên mẫu của nhân vật Hoàng trong truyện ngắn của Nam Cao, đâm ra thành kiến với ông, cứ nghĩ rằng đã là nguyên mẫu của những nhân vật như thế thì không thể tốt được! Đấy, cuộc đời nó buồn cười thế đấy. Tôi thì vẫn nghĩ rằng Nam Cao và tôi đều chịu sự ảnh hưởng trực tiếp của Vũ Bằng...”

Tôi hỏi ông về hiện tượng có những nhà văn lớp sau này chỉ viết được một vài cuốn sách gây được sự chú ý cuả công chúng rồi thôi, cứ như là bị “rút ruột” hết cả rồi, trong khi nhiều nhà văn lớp trước như ông viết khoẻ và thu hút được bạn đọc...

Ông giải thích: “Các nhà văn sau này nhiều hơn, đông hơn nhưng sống lại rời rạc hơn. Tôi nghĩ những người viết văn có khả năng sau này có nhiều, nhưng cứ bị nhạt đi như thế nào đó. Vả lại, theo tôi, cái chuyện ăn lương để viết văn cũng làm hại người ta tợn lắm. Tôi không nói thay cho người khác, chỉ nói chuyện của tôi thôi. Trong cuộc sống, có những cái lớn lao và cả những cái cụ thể, nhỏ bé, ai không để ý thì không thấy. Cũng chẳng có gì lặp lại cả. Nhiều khi về hình thức thì lặp lại đấy, nhưng nội dung khác rồi. Khi viết văn, tôi luôn trò chuyện, đọc sách báo, nghe ngóng để học cái ngôn ngữ của ngày hôm nay. Như trong Chiều chiều là cái ngôn ngữ của ngày hôm nay đấy chứ. Có nhiều người đọc, chê tôi viết sai ngữ pháp hoặc có những câu không có nghĩa gì cả. Nhưng đấy là tôi viết theo kiểu của tôi. Nhà văn viết hay có thể sáng tạo ra ngữ pháp. Chữ Việt của mình đơn âm, muốn làm giàu phải làm giàu bằng tiếng. Có nhiều người viết như ngựa chạy nhưng mà ít chữ lắm. Ngay từ hồi còn trẻ, tôi đã chủ trương không phân biệt tiếng Trung Nam Bắc, cứ hay là có thể đưa vào văn học được. Tôi đã từng đặt hẳn tên của một cuốn sách là O chuột. O ở đây không phải là cô mà là “dịch”, theo tiếng miền Nam... Nhưng đấy chỉ là cái cách của tôi thôi. Mỗi người có cái cách riêng của mình để thu hút bạn đọc. Như của Vũ Trọng Phụng thì câu kém, nhưng “hơi” văn thật tuyệt. Cái quan trọng hơn cả là phải chịu khó thu nhặt và chuyển hoá vào trong ngôn ngữ...”

Thế giới Dế mèn phiêu lưu ký:

Con dế mèn, khởi đầu cho Dế mèn phiêu lưu ký.

Chữ ký Tô Hoài ở Dế mèn.

 

Nguồn: https://www.facebook.com/groups/conghoasach/permalink/3475198839228645/