Danh ngôn

Trong mọi cộng đồng, chúng ta cần một nhóm thiên thần gây rối.

We need, in every community, a group of angelic troublemakers.

(Bayard Rustin – trích bài phát biểu tại New York City 1963)

Trong mọi trường hợp, chắc chắn rằng sự thiếu hiểu biết, đi kèm với quyền lực, là kẻ thù tàn bạo nhất có thể có của công lý.

It is certain, in any case, that ignorance, allied with power, is the most ferocious enemy justice can have.

(James Baldwin - No Name in the Street 1972)

Các cuộc cách mạng và các cá nhân có thể bị giết hại, nhưng bạn không thể giết chết các ý tưởng.

While revolutionaries and individuals can be murdered, you cannot kill ideas.

(Thomas Sankara, một tuần trước khi bị ám sát, 1987)

Không có cảm giác nào cô đơn hơn việc bị chính đất nước mình trục xuất.

There's not a more lonely feeling than to be banished by my own country.

(Kiyo Sato – Kiyo’s Story 2009)

Ban Biên tập

Địa chỉ liên lạc:

1. Thơ

tho.vanviet.vd@gmail.com

2. Văn

vanviet.van14@gmail.com

3. Nghiên cứu Phê Bình

vanviet.ncpb@gmail.com

4. Vấn đề hôm nay

vanviet.vdhn1@gmail.com

5. Thư bạn đọc

vanviet.tbd14@gmail.com

6. Tư liệu

vanviet.tulieu@gmail.com

7. Văn học Miền Nam 54-75

vanhocmiennam5475@gmail.com

Tra cứu theo tên tác giả

Chủ Nhật, 17 tháng 5, 2020

Tra tấn và thí nghiệm Milgram

GS Nguyễn Văn Tuấn
Vụ án Hồ Duy Hải đặt ra nhiều câu hỏi khoa học. Tại sao người sẵn sàng tra tấn người? Tại sao hội đồng 17 người trong phiên toà ‘giám đốc thẩm’ đồng thuận tuyệt đối? Tại sao 17 người đó không chú ý đến chi tiết quan trọng trong vụ án? Vân vân.  Những câu hỏi này có thể trả lời bằng tâm lí học. Đã có nhiều nghiên cứu tâm lí học trả lời câu hỏi về động cơ tra tấn người.
Nguyễn Văn Tuấn
Trong vụ án Hồ Duy Hải, gia đình anh ta và chính anh ta báo cáo rằng từng bị tra tấn. Vì bị tra tấn nên anh ta phải khai tội giết người theo kịch bản của công an viên. Bên phía công an thì bác bỏ cáo buộc này và nói là không có tra tấn. Nhưng trong các vụ án trước (như Huỳnh Văn Nén và Nguyễn Thanh Chấn) thì tra tấn đã xảy ra.
Tra tấn nghi can trong lúc tạm giam hay trong tù là một vấn đề đạo đức được thế giới quan tâm. Ở nước ngoài cũng thỉnh thoảng có nạn cảnh sát tra tấn nghi can, nhưng khi sự việc được phát giác, kẻ tra tấn bị phạt rất nặng. Riêng ở Việt Nam, tình trạng tra tấn tù nhân hay nghi can là mối quan tâm của Liên hiệp quốc. Theo thống kê của nhóm CAT (Coalition Against Torture), tính từ 2010 đến 2018, có 169 trường hợp là nạn nhân của tra tấn trong đồng công an hay nhà tù; trong số này có 139 người chết và 30 người bị thương tích nặng [1].
TPHCM đứng đầu bảng thống kê tra tấn (14 ca) và theo sau là Hà Nội (11 ca). Vấn đề này (tra tấn, sách nhiễu ở Việt Nam) được cả Liên hiệp quốc đề cập trong một báo cáo về chống tra tấn [2].
Số người bị kết án tử hình và tỉ lệ (phần trăm) số bị cáo bị kết án tử hình tính trên số bị cáo ở toà án sơ thẩm tại Việt Nam trong thời gian 1992 - 2002
Câu hỏi đặt ra là tại sao người tra tấn người?
Một trong những công trình tâm lí học thuộc hàng kinh điển và nổi tiếng nhứt trong thế kỉ 20 nhằm trả lời câu hỏi đó là thí nghiệm Milgram. Thí nghiệm này do Stanley Milgram (là người gốc Do Thái), một nhà tâm lí học thuộc Đại học Yale, thực hiện vào năm 1961, một năm sau khi phiên toà xử Adolf Eichmann ở Jerusalem.
Thí nghiệm Milgram
Bối cảnh của thí nghiệm là Thế Chiến Thứ II và những tội phạm về diệt chủng, đặc biệt xảy ra ở người Do Thái.  Trong phiên toà Nuremberg, khi được hỏi tại sao những kẻ phạm tội ác làm cái việc tày trời đó, họ thường nói rằng phải tuân thủ lệnh cấp trên. Câu hỏi Milgram đặt ra là: “Có phải Eichmann và hàng triệu kẻ đồng phạm trong vụ án Holocaust chỉ tuân thủ theo lệnh cấp trên, và có thể nào gọi họ là những kẻ tòng phạm?”
Cách Milgram làm nghiên cứu khá đơn giản. Ông đăng báo quảng cáo tìm tình nguyện viên. Kết quả có tất cả 40 nam tình nguyện viên, tuổi 20-50, và họ chủ yếu là những công nhân trong vùng New Haven. Họ được trả 4.50 USD cho việc tham gia vào thí nghiệm. Họ được phân nhóm một cách ngẫu nhiên về vai trò của họ trong thí nghiệm. Vai trò là “learner” (học trò) hay “teacher” (thầy). Ngoài ra, còn có một nhà nghiên cứu được cho mặc áo choàng như trong phòng thí nghiệm đóng vai trò ‘actor’ (diễn viên).
Tình nguyện viên được cho ngồi trong hai phòng khác nhau: một phòng dành cho học trò và một phòng cho thầy và nhà nghiên cứu. Phòng của thầy và nhà nghiên cứu có công cụ giật điện. Người ‘học trò’ được trói vào một cái ghế với điện cực (electrodes). Sau khi học trò được học một số cặp chữ, thầy kiểm tra kiến thức của trò. Nếu trò sai một chữ thì bị giật điện, sai càng nhiều bị giật điện với cường độ càng cao. Học trò được hướng dẫn trả lời sai (với chủ đích). Khi thầy không chịu giật điện trò, thì nhà nghiên cứu ra lệnh cho thầy phải làm. Có 4 lệnh: (1) hãy tiếp tục; (2) tôi yêu cầu anh phải tiếp tục; (3) phải tiếp tục vì sự việc rất quan trọng; và (4) anh không có lựa chọn nào khác là phải tiếp tục.
Kết quả cho thấy 65% thầy tuân thủ theo lệnh của nhà nghiên cứu, và tiếp tục ‘tra tấn’ (phạt) trò liên tiếp đến độ cao nhứt. Milgram viết báo cáo và công bố trên [tập san] Journal of Abnormal and Social Psychology năm 1963 [3]. Bạn đọc có thể tìm đọc bài báo này miễn phí. Bài báo trở thành một công trình có ảnh hưởng lớn đến chuyên ngành, và cho đến nay đã có hơn 6700 trích dẫn!
Sau này, Milgram và vài nhà nghiên cứu khác thực hiện hàng loạt (23) thí nghiệm khác, với vài thay đổi về điều kiện và nhân sự. Vài kết quả (chọn lọc) từ các nghiên cứu đó như sau:
  • Thay đổi nhân sự: khi nhân vật nhà nghiên cứu trong thí nghiệm gốc được thay thế bằng một thường dân với cách trang phục bình thường (không có áo choàng) thì tỉ lệ tuân thủ còn 20%;
  • Thay đổi địa điểm: khi địa điểm là những phòng ốc bị xuống cấp (thay vì ở ĐH Yale), tỉ lệ tuân thủ là ~47%;
  • Nhà nghiên cứu vắng mặt: khi nhà nghiên cứu vắng mặt trong văn phòng, và ra lệnh qua điện thoại, tỉ lệ tuân thủ giảm xuống còn chừng 20%
Dựa vào những kết quả trên, Milgram kết luận rằng người bình thường sẽ tuân theo lệnh của một người có thẩm quyền, và họ sẵn sàng giết người vô tội.
Ý nghĩa của tuân lệnh
Milgram giải thích kết quả thí nghiệm rằng có hai trạng thái hành vi của con người trong điều kiện xã hội. Trạng thái thứ nhứt là ‘tự chủ‘ (autonomous state), tức người ta hành động theo ý của họ và chịu trách nhiệm cho hành động của mình. Trạng thái thứ hai là ‘tay sai‘ (agentic state), tức người ta hành động vì ý tưởng của người khác, và giao trách nhiệm cũng như hậu  quả của hành động cho người đã ra lệnh.
Milgram giải thích thêm rằng trạng thái ‘tay sai’ (làm theo lệnh của kẻ có thẩm quyền) ăn sâu vào tâm não chúng ta trong lúc chúng ta trưởng thành trong gia đình, trường học, và nơi làm việc. Có hai trường hợp xảy ra: một là người hành động cảm thấy rằng kẻ có thẩm quyền có đạo đức hay được một cơ chế luật pháp bổ nhiệm; hai là họ hành động theo lệnh nhưng nghĩ rằng người chịu trách nhiệm là kẻ ra lệnh.
Milgram gọi đó là ‘Agency Theory’, có lẽ dịch là ‘Giả thuyết đại diện’ hay ‘Giả thuyết tay sai’.  Giả thuyết đại diện tiên đoán rằng người ta sẽ tuân lệnh người có thẩm quyền, vì họ tin rằng kẻ có thẩm quyền sẽ chịu trách nhiệm cho những hậu quả xảy ra. Có nhiều kết quả nghiên cứu nhứt quán với giả thuyết này. Chẳng hạn như khi người tham gia thí nghiệm được nhắc nhở rằng họ phải chịu trách nhiệm cho hành động của họ, thì gần như tất cả tình nguyện viên không tuân thủ theo lệnh. Ngược lại, khi tình nguyện viên không tuân lệnh và được nhắc nhở rằng kẻ ra lệnh sẽ chịu trách nhiệm, thì hầu hết họ đều hành động.
Đứng trên phương diện phương pháp học ngày nay, thí nghiệm Milgram có nhiều thiếu sót. Nhiều nhà khoa học chỉ ra những thiếu sót về cách chọn tình nguyện viên (không có nữ), về cách ra ‘chỉ thị’, về thiên lệch (biases) trong điều kiện thí nghiệm, v.v. Về mặt y đức, thí nghiệ của Milgram có thể xem là vi phạm qui ước về đạo đức khoa học. Một phân tích khác đặt nghi vấn rằng Milgram đã ‘vặn vẹo’ số liệu. Tuy nhiên, chẳng có thí nghiệm nào hoàn hảo vào thập niên 1960s, và cho đến nay kết quả của thí nghiệm Milgram đã được lặp lại bởi một số nghiên cứu độc lập, kể cả nghiên cứu ở Ba Lan.
Thí nghiệm nhà tù Stanford
Trong một thí nghiệm cũng nổi tiếng không kém được biết đến như là “Thí nghiệm nhà tù Stanford” do Giáo sư Philip Zimbardo thực hiện. Kết quả thí nghiệm này cũng có thể giải thích tại sao các quản giáo trong các nhà tù hành xử một cách độc ác với các tù nhân ở trại giam.
Zimbardo tuyển chọn 24 sinh viên, và chia thành 2 nhóm một cách ngẫu nhiên: nhóm 1 gồm 12 người được cho đóng vai quản giáo, và nhóm còn lại đóng vai tù nhân. Một nhà tù được thiết kế phía dưới ở tầng trệt của khoa tâm lí thuộc Đại học Stanford. Quản giáo được trao toàn quyền, muốn làm gì thì làm với ‘tù nhân’, nhưng không được huấn luyện cách hành xử thế nào là đúng. Còn tù nhân, khi vào nhà tù, bị quản giáo khám xét, “bắt rận”, thậm chí bắt cởi truồng.
Nhưng thí nghiệm phải ngưng trước thời hạn vì những hành xử tàn bạo của quản giáo và rối loạn tâm thần của tù nhân. Thời gian thí nghiệm dự kiến là 2 tuần, nhưng đến ngày thứ 6 thì phải ngưng. Thật ra, chỉ sau một ngày rưỡi, một tù nhân có triệu chứng rối loạn cảm xúc, như la khóc, tỏ ra mất bình tĩnh, và suy nghĩ bất thường. Tất cả tù nhân đều tỏ ra ngoan ngoãn tuân theo lệnh của quản giáo. Trong khi đó, các quản giáo càng ngày càng tỏ ra hung dữ, tàn ác, và có hành động sadistic (tức tỏ ra thích thú với những đòn tra tấn tàn ác). Đến ngày thứ 5 thì gia đình của các tình nguyện viên đặt vấn đề với GS Zimbardo, và Luật sư cũng dọạ sẽ kiện ra toà, thì công trình nghiên cứu phải ngưng. Phần lớn những đối tượng tham gia nghiên cứu, quản giáo cũng như tù nhân, đều tỏ ra có vấn đề về tâm lí và tâm thần sau khi tham gia thí nghiệm.
Kết quả nghiên cứu này cho thấy một người bình thường có thể trở nên ác ôn vì môi trường chứ không phải vì bẩm sinh. Con người có xu hướng tuân thủ, ngay cả sẵn sàng tuân thủ làm những việc ác ôn. Các nhà nghiên cứu diễn giải kết quả nghiên cứu rằng người bình thường có thể trở nên những kẻ ác ôn nếu được trang bị bằng một ý thức hệ hay giáo điều nào đó. Họ kết luận rằng tình huống và môi trường là nguyên nhân làm cho người tốt trở nên người ác. Kết quả nghiên cứu này không bao giờ được công bố trên một tập san khoa học nào cả, vì nhiều người chỉ ra rằng nghiên cứu có vấn đề về y đức. Mà, không tập san nào dám công bố kết quả nếu nghiên cứu không đáp ứng những tiêu chuẩn về y đức.
Trong những năm cuối đời, Zimbardo cố gắng làm một thí nghiệm khác có ý nghĩa tích cực hơn. Ông muốn biến người bình thường thành những anh hùng. Ông lập ra dự án có tên là Heroic Imagination Project (HIP), với khung khái niệm rằng anh hùng không phải là những người phi thường; họ chỉ là những người bình thường nhưng làm một việc phi thường, họ bước ra khỏi cái bình thường để làm điều có ích cho xã hội. Ông lập một lớp học để dạy những đức tính anh hùng (hay chủ nghĩa anh hùng – heroism) cho học sinh. Trong lớp học này, ông muốn dạy học sinh tách ra khỏi những đám đông hành xử ác ôn.
Tra tấn người khác là một hành động ác ôn, một tội ác chống nhân loại. Động cơ tra tấn người khác, qua thí nghiệm nhà tù Stanford, có thể xuất phát từ suy nghĩ rằng họ được trao cho một quyền lực và được trang bị bằng một ý thức hệ. Nếu không có quyền lực, động cơ tra tấn, theo ‘giả thuyết tay sai’ của Milgram, cũng có thể là người tra tấn nghĩ rằng họ làm theo lệnh của cấp trên, và cấp trên — chớ không phải họ — chịu trách nhiệm cho hậu quả của tra tấn. Trong vụ án Hồ Duy Hải, hậu quả là hơn 10 năm tù và có thể là cái chết oan cho một thanh niên.
===
[3] Milgram S. Behavioral Study of obedience. The Journal of Abnormal and Social Psychology 1963;67(4):371–378. https://doi.org/10.1037/h0040525