Biên tập:
Sergio Bitar và
Abraham F. Lowenthal, Viện Quốc tế Hỗ trợ Bầu cử và Dân chủ (IDEA), Stockholm
Dịch:
Phạm Nguyên Trường
Chương 1
Brazil
Công cuộc chuyển hóa của Brazil: Từ tự do hóa có giới hạn
tới chế độ dân chủ đầy sức sống
Frances Hagopian
Giới quân sự đã cầm quyền ở Brazil từ năm 1964 đến năm 1985; suốt nửa thời gian đó, phe đối lập kiên nhẫn theo những quy tắc của chế độ trong một quá trình chuyển hóa chậm sang chế độ dân chủ. Kinh nghiệm của Brazil với quá trình dân chủ hóa rất đáng học tập, vì phong trào này cung cấp bài học về những quyết định mang tính chiến lược do cả các nhà độc tài và dân chủ thực hiện, có thể dẫn tới quá trình chuyển hóa một cách hòa bình – và làm thế nào để vượt qua được, dù lâu dài, những hạn chế, do những thỏa hiệp về cả thiết chế lẫn thực hành, áp đặt lên nền quản trị dân chủ.
Chế độ dân chủ và chế độ độc tài
Brazil đã thành lập được hệ thống chính trị có tính cạnh tranh từ cuối thế kỷ XIX, nhưng trong những thập kỉ nằm dưới chế độ chính trị đầu sỏ, đa số người Brazil không có quyền công dân thực sự. Ngay cả sau Thế chiến II, khi hệ thống chính trị mở cửa cho sự tham gia và cạnh tranh chính trị rộng lớn hơn, các giai cấp thấp hơn ở thành thị vẫn bị kiểm soát gắt gao, còn người lao động ở nông thôn thì không được phép thành lập tổ chức công đoàn, và người mù chữ thì không có quyền bầu cử. Cuối những năm 1950, mặc dù đất nước phát triển thịnh vượng với những khoản đầu tư vào cơ sở hạ tầng, nền công nghiệp thay thế cho nhập khẩu và công cuộc xây dựng thủ đô mới ở Brasilia, nhưng hệ thống chính trị bắt đầu rạn nứt. Sự yếu kém của các thiết chế - thể hiện bằng hệ thống đảng phái chính trị quá manh mún và quốc hội (trong tác phẩm này Congress được dịch là quốc hội, còn Parliament thì dịch là nghị viện – ND) thiếu hiệu quả - làm được rất ít việc nhằm xoa dịu những nỗi sợ hãi của giới tinh hoa đang lo ngại trước phong trào vận động của các liên đoàn nông dân, sự thăng tiến trong các cuộc bầu cử của đảng lao động theo đường lối dân túy, và diễn ngôn thiên tả của vị tổng thống.
Tháng 4 năm 1964, đúng cao điểm của Chiến tranh Lạnh, quân đội Brazil - với nỗi lo sợ trên lý thuyết về những cuộc nổi dậy của những người theo cộng sản và nội chiến - đã phản ứng lại cơn bão chính trị với sự cộng hưởng của nạn lạm phát và cạn kiệt dự trữ ngoại tệ, những đòi hỏi về cải cách ruộng đất, sự bất lực quá rõ ràng của các nhà lãnh đạo dân sự và tình trạng bất ổn trong giới lao động và sinh viên đang gia tăng – bằng một cuộc đảo chính và lập ra chế độ độc tài quân sự. Các nhà cầm quyền quân sự lúc đó đã ổn định nền kinh tế, củng cố chính quyền và mở rộng vai trò của mình đối với nền kinh tế, xoá sổ các đảng chính trị hiện có và chuyển sang đàn áp dữ dội, đình chỉ điều khoản habeas corpus – tức quyền được phóng thích nếu bị bắt giam trái pháp luật và không bị giam giữ trong thời gian dài khi chưa có văn bản khởi tố chính thức - và áp đặt chế độ kiểm duyệt báo chí và tình trạng đặc biệt. Tương tự như các chế độ quân sự khác ở Mỹ Latinh trong giai đoạn này, kẻ thù – cả có thật lẫn tưởng tượng - của chế độ ở Brazil bị giam giữ một cách tùy tiện, bị tra tấn, bị lưu đày, và thậm chí bị giết. Tuy nhiên, ngay cả những lúc đàn áp khốc liệt nhất, nó vẫn chưa tàn bạo bằng các lân bang. Tòa án quân sự thường đưa ra những bản án “vô tội”, chỉ có khoảng 500 chính trị gia bị tước quyền chính trị, trong đó có quyền giữ chức vụ (trong khi ở Uruguay là 15.000 người) - và chính phủ phải chịu trách nhiệm về cái chết của “chỉ có” 333 người, một tỷ lệ bình quân trên đầu người thấp hơn 50 lần so với Chile và thấp hơn 100 lần so với Argentina.
Một điều hết sức quan trọng là, như chính Fernando Henrique Cardoso nhấn mạnh, chế độ quân sự Brazil cố giữ tấm màn che của tính hợp pháp, nên thường xuyên tổ chức các cuộc bầu cử vào cơ quan lập pháp và các cuộc bầu cử ở địa phương, và cho phép các thiết chế đại diện (trong đó có quốc hội và đảng đối lập ủng hộ chính phủ) hoạt động. Mặc dù chế độ đã hủy bỏ các cuộc bầu cử thống đốc bang và thị trưởng thủ đô các bang, thao túng luật bầu cử, và tước bỏ những quyền hiến định quan trọng của các đại biểu dân cử, cuối cùng, các cuộc bầu cử mang tính cạnh tranh đã mở ra con đường dân chủ hóa đặc thù của Brazil.
Chuyển hóa chính trị
Quá trình chuyển hóa của Brazil sang chế độ dân chủ diễn ra từng bước một, từ trên xuống, và có thái độ khoan dung trước sự vận động của các đảng phái và xã hội dân sự bị cấm đoán. Sự chia rẽ giữa các sĩ quan quân sự “theo đường lối cứng rắn” (những người tin rằng Brazil nhất định phải cần chính quyền quân sự thì mới phát huy được tiềm năng của nó) và “những người theo đường lối mềm dẻo” (những người coi chính quyền quân sự chỉ là lâm thời và tình thế, và sợ sẽ mất sự ủng hộ của dân chúng nếu không kiềm chế quyền lực mang tính đàn áp của những người cứng rắn) đã mở cửa cho tự do hóa về chính trị. Đầu năm 1974, tổng thống mới, theo đường lối mềm dẻo, tướng Ernesto Geisel, đưa ra tín hiệu nói rằng ông sẽ “nới lỏng” chính quyền quân sự, giảm bớt kiểm duyệt báo chí và cho phép thể hiện tư tưởng và tiến hành các cuộc bầu cử một cách tự do hơn. Tăng trưởng kinh tế với mức hai con số trong suốt bảy năm liền, xã hội và chính trị ổn định, phe đối lập mất tinh thần đến mức đã tính chuyện giải tán vào năm 1972, khiến Geisel tin tưởng rằng chế độ của mình có thể giành chiến thắng trong cuộc bầu cử mang tính cạnh tranh.
Phe đối lập gặp tình thế khó xử quen thuộc: Tẩy chay cuộc bầu cử, có thể không đưa tới kết quả là chuyển giao quyền lực vô điều kiện, hay là sử dụng không gian được chế độ dành cho để tổ chức, tuyên truyền quan điểm và huy động lực lượng ủng hộ cho mở cửa dân chủ. Họ đã chọn phương án sau. Trước những cáo buộc nói rằng họ đã đã cung cấp cho chế độ độc tài tính chính danh, Cardoso và những người khác đã lập luận một cách thuyết phục rằng tham gia trong hệ thống - và trên thực tế là vận dụng hệ thống một cách có lợi - là con đường chắc chắn nhất dẫn tới thay đổi dân chủ. Thực tế đã chứng minh cách làm đó là đúng. Phe đối lập giành ngay được 16 trong số 22 ghế của thượng viện được bầu vào năm 1974, số ghế của phe đối lập trong hạ viện tăng từ 28% lên 44%, và họ nắm quyền kiểm soát thêm 5 cơ quan lập pháp bang. Kết quả này là thất bại cay đắng đối với chính phủ; Cardoso nhấn mạnh rằng đấy không phải là kết quả của lòng khát khao dân chủ của người dân nói chung, mà thực ra là kết quả của chiến dịch vận động hữu hiệu của phe đối lập về những vấn đề kinh tế thiết yếu - đặc biệt là sức mua so với tiền lương của người lao động bị giảm sút ngay trong giai đoạn bùng nổ kinh tế. Về lâu dài, những cuộc bầu cử mang tính cạnh tranh củng cố khả năng của phe đối lập trong việc huy động cử tri và gây áp lực buộc chính phủ tiếp tục đường lối cởi mở về mặt chính trị. Kiên trì với logic do Cardoso đưa ra - quá trình chuyển đổi sẽ không xảy ra bằng cách tấn công trực diện vào pháo đài của chế độ mà bằng cuộc bao vây cho đến khi những người bên trong sẵn sàng thương lượng - phe đối lập giữ vững đường lối này ngay cả khi chế độ tìm cách sửa đi sửa lại luật lệ nhằm lèo lái tiến trình chính trị theo hướng có lợi cho mình trong các cuộc bầu cử hội đồng thành phố (1976), quốc hội (1978), và cuối cùng, là cuộc bầu cử thống đốc (1982). Phe đối lập cũng hiểu rằng quá trình thay đổi cơ cấu và thời gian đứng về phía họ. Quá trình phát triển kinh tế và công nghiệp hóa đã đưa hàng triệu người Brazil vào các thành phố, tạo ra một tầng lớp trung lưu mạnh, có khả năng tiêu thụ các loại hàng hóa lâu bền, từ tủ lạnh đến ô tô, và mở rộng qui mô giai cấp công nhânlên gần 30% dân số cả nước.
Xã hội dân sự sôi động cũng xuất hiện trong không gian được tạo ra bởi sự cởi mở về chính trị. Nhóm tinh hoa có ảnh hưởng là những người đầu tiên thể hiện sự bất mãn với chế độ độc tài. Các chức sắc của Giáo hội Công giáo La Mã lên án mạnh mẽ việc đàn áp, họ ghi chép tài liệu về những vụ giết người và bạo hành do nhà nước hậu thuẫn trong các vùng nông thôn, họ tìm chỗ cho công nhân đình công nương náu, họ ủng hộ dân chủ và thúc đẩy các nhóm ở cơ sở, qua đó thúc đẩy sự tham gia của quần chúng. Cái chết vào tháng 10 năm 1975 của nhà báo nổi tiếng, gốc Do Thái, Vladimir Herzog trong trại tạm giam của đơn vị tình báo của quân đoàn II ở Sao Paulo đã làm cho Hiệp hội luật sư Brazil, vốn dễ bảo, đưa ra tuyên bố buộc tội chính phủ tra tấn, và buổi lễ chung của người Công giáo và người Do Thái giáo, cầu nguyện cho Herzog, do Hồng y Evaristo Arns dũng cảm tổ chức trong nhà thờ Sao Paulo đã biến thành cuộc biểu tình quần chúng chống lại chế độ quân sự, lần đầu tiên được tổ chức ở nước này. Năm 1974, một nhóm các doanh nhân nổi tiếng cũng can đảm tiến hành chiến dịch chống chính sách quản lý tập trung, và vài năm sau đó đã tìm ra mối liên kết trực tiếp giữa tình trạng nhà nước can thiệp quá mức với các luật lệ tùy tiện, và kêu gọi xây dựng chế độ dân chủ như là giải pháp duy nhất khi nhà nước kiểm soát xã hội, chứ không còn giải pháp nào khác.
Khi không gian chính trị đã mở ra, các nhóm tôn giáo ở cơ sở, các hiệp hội địa phương và phong trào phụ nữ đầy sức mạnh gây áp lực đòi những quyền lợi cụ thể, cũng như đòi nhiều tự do chính trị hơn. Cuối những năm 1970, Luiz Inacio (Lula) da Silva dẫn đầu phong trào công đoàn mới, tỏ ra nghi ngờ sự can thiệp nhà nước và có sức mạnh nhờ liên kết với giai cấp công nhân chứ không phải từ nhà nước; phong trào này đã huy động hàng nghìn người ở các trung tâm công nghiệp của Sao Paulo đình công đòi tăng lương và đòi quyền thương lượng tập thể. Cuộc vận động về xã hội dân sự trong giới tinh hoa, trên các đường phố, trong nhà máy, và các cuộc bầu cử đã tăng cường khả năng thương lượng của phe đối lập chính trị. Đối mặt với một quân đội chưa từng thất bại trong chiến tranh hay trong các cuộc trưng cầu dân ý và đồng ý thương lượng để rút khỏi vị trí cầm quyền, làn sóng dân chủ không thể đảo ngược đã khiến phe đối lập dân chủ có thêm sức mạnh.
Quá trình chuyển hóa tăng tốc cùng với các cuộc bầu cử thống đốc bang năm 1982. Trong khi tìm cách đảo ngược chất lượng các cuộc tổng tuyển cử, mà những cuộc bầu cử từ năm 1974 đã cho thấy - bằng cách chia rẽ phe đối lập - từ năm 1979, chế độ đã cho phép thành lập các đảng phái mới. Phe đối lập chia thành năm đảng, từ Đảng Lao Động của Lula (Partido dos Trabalhadores hay PT) bên cánh tả đến đảng ôn hòa thiên hữu, chỉ tồn tại trong một thời gian ngắn (tự giải tán vào năm 1981, sau khi chính phủ áp đặt thêm một quy định cấm các đảng liên minh với nhau trong bầu cử), nhưng quyết định của phe đối lập tham gia tranh cử, trước sự thao túng trắng trợn các luật lệ bầu cử một lần nữa đã mang lại kết quả. Với tỉ lệ lạm phát hơn 200% và nền kinh tế rơi vào suy thoái trầm trọng, do phải trả những món nợ nước ngoài quá lớn, các đảng đối lập giành được chức thống đốc 10 bang có mức độ công nghiệp hóa cao nhất và phát triển nhất ở Brazil, tức là những bang chiếm ba phần năm cử tri cả nước và ba phần tư GDP, trong đó có Sao Paulo, Minas Gerais và Rio de Janeiro. Sau đó, phe đối lập chiếm đa số không đáng kể ở hạ viện đã buộc chính phủ phải đàm phán những dự luật gây nhiều tranh cãi, và thậm chí cả các thống đốc thuộc đảng của chế độ cũng dần phải chịu trách nhiệm trước cử tri của mình hơn là với chính phủ quân sự.
Ngay cả sau những thất bại trong bầu cử như thế, quân đội, tin rằng những cử ứng cử viên của chế độ sẽ giữ thế thượng phong trong Đại Cử tri Đoàn gồm hàng ngàn thị trưởng và nghị sĩ hội đồng ủng hộ nhà nước, tiếp tục theo đuổi đường lối giao quyền lực cho tổng thống dân sự vào năm 1985. Năm 1984, với mục tiêu thông qua tu chính hiến pháp nhằm buộc phải tiến hành bầu cử tổng thống trực tiếp, phe đối lập đã huy động chiến dịch Bầu cử Trực tiếp Ngay Bây giờ, lôi kéo được hàng triệu người biểu tình vừa đi vừa hô “Bầu cử Trực tiếp Ngay Bây giờ” trong các cuộc biểu tình đông người trên đường phố luân phiên diễn ra ở trung tâm các bang trên khắp Brazil, khởi đầu từ Sao Paulo vào tháng 1 năm đó. Quân đội không can thiệp. Mặc dù phe đối lập suýt thất bại, suýt nữa thì không giành được đa số là hai phần ba nghị sĩ, đủ để thay đổi hiến pháp, phe này vẫn quyết cạnh tranh trong cuộc bầu cử gián tiếp. Đảng của chính quyền quân sự đề cử ứng cử viên tổng thống gây nhiều tranh cãi, khiến tầng lớp chính trị đổi ý hàng loạt, giúp ứng cử viên đối lập Tancredo Neves (thống đốc ôn hòa của bang quan trọng là Minas Gerais và là chính trị gia có năng lực, tạo được sự đồng thuận,) giành chiến thắng trong cuộc bầu cử.
Xây dựng chế độ dân chủ: Vai trò của Fernando Henrique Cardoso
Công cuộc chuyển hóa sang dân chủ của Brazil tiếp tục sau khi quân đội trao quyền lực cho vị tổng thống dân sự vào năm 1985 và nhân dân Brazil phải đối mặt với những thách thức đầy khó khăn trong việc xây dựng chế độ dân chủ. Thách thức đầu tiên là thiết lập quyền kiểm soát của các quan chức dân sự đối với quân đội mà không gây ra phản ứng ngược từ phía quân đội.
Quân đội muốn không bị truy tố vì những vi phạm nhân quyền (sau khi chính phủ Argentina đưa các sĩ quan cao cấp nhất ra tòa, tất cả các quân nhân Mỹ Latin đều sợ như thế), duy trì quyền kiểm soát các vấn đề quân sự (thăng chức, ngân sách và mua sắm vũ khí), và tiếp tục đóng vai trò hiến định trong việc “bảo đảm trật tự nội bộ”. Mặc dù không có sĩ quan quân đội nào bị truy tố, dần dần chính phủ dân sự đã mở kho lưu trữ về những vụ đàn áp của quân đội và bồi thường cho gia đình 265 nạn nhân đã chết hoặc mất tích dưới thời các chính phủ quân sự. Các chính phủ dân sự cũng kiềm chế tham vọng về an ninh quốc gia của quân đội trong vùng Amazon, hạn chế những bình luận về chính trị của các sĩ quan đang tại ngũ, ngừng mua chiến đấu cơ phản lực và ngưng chương trình làm giàu hạt nhân của nước này. Đáng chú ý nhất là, vào cuối nhiệm kỳ tổng thống đầu tiên, trong những bước đi cực kì thông minh được trình bày trong bài phỏng vấn, Cardoso dứt khoát giảm bớt quyền lực của các sĩ quan quân đội trong nội các bằng cách xóa bỏ hẳn ba Bộ khác nhau, và cử một quan chức dân sự lãnh đạo Bộ Quốc phòng mới.
Các nhà lãnh đạo dân chủ cũng phải cân bằng những đòi hỏi về tái phân phối kinh tế và công lý với nhu cầu phải thiết lập quyền sở hữu và làm dịu bớt nỗi sợ hãi của giới tinh hoa kinh tế. Cải cách ruộng đất và quyền sở hữu là các vấn đề về rất nóng, vì giới tinh hoa trong lĩnh vực nông nghiệp và chủ trang trại gia súc thường đáp trả những vụ tịch thu đất đai được tiến hành bởi Phong trào Những người không có Đất (Movimento dos Trabalhadores Rurais Sem Terra) bằng bạo lực rất tàn nhẫn. Cuối cùng, các các vấn đề tái phân phối và quyền đã được giải quyết ở Quốc hội, cơ quan này (đóng vai trò Hội đồng lập hiến) đưa ra dự thảo, tranh cãi, và cuối cùng, đã ban hành hiến pháp dân chủ mới vào năm 1988. Cánh hữu đã xoay chuyển được tình thế về đòi hỏi cải cách ruộng đất trong quốc hội, nhưng các quyền khác đã được đưa vào hiến pháp – trong đó có quyền lao động, quyền của người bản địa, và quyền phổ quát của tất cả các công dân được chăm sóc sức khỏe - đã trở thành cam kết vĩnh viễn của chế độ dân chủ Brazil. Cuối cùng, năm 1989, tổng thống đã được bầu theo lối phổ thông đầu phiếu.
Trong suốt những năm chuyển tiếp, Fernando Henrique Cardoso là lãnh đạo trí tuệ của phe đối lập và một trong những người phê phán chế độ quân sự thẳng thắn nhất và có ảnh hưởng nhất. Với lập trường đứng giữa phía cực đoan và phía ôn hòa, Cardoso đã giúp ngăn ngừa tình trạng phân hóa nội bộ trong phe đối lập. Ông hỗ trợ tổ chức các cuộc đình công và đòi đưa Lula ra khỏi nhà tù, nhưng đồng thời cũng kiềm chế phe đối lập, không để xảy ra tình trạng nóng vội. Ông ngưỡng mộ mô hình Tây Ban Nha. Cardoso là nhân vật nổi bật trong chiến dịch đòi Bầu cử Trực tiếp Ngay Bây giờ (ông thay mặt phe đối lập trình bày bài phát biểu quan trọng tại thượng viện, ủng hộ tu chính hiến pháp). Cardoso tin rằng bất chấp những trở ngại, vẫn có đầy đủ cơ hội đánh bại ứng cử viên của chính phủ, vì vậy mà ông thuyết phục phe đối lập không rút lui và động viên Ulysses Guimaraes, nhà lãnh đạo chủ chốt của phe đối lập, đồng ý giúp điều phối chiến dịch của Tancredo Neves. Cardoso cũng đóng vai trò quan trọng trong quá trình soạn thảo bản hiến pháp dân chủ vào năm 1988 – ông là đại diện của Ủy ban Luật lệ Nội bộ và Ủy ban Hệ thống hóa. Năm 1993, với tư cách bộ trưởng tài chính, ông đã cộng tác với một nhóm các nhà kinh tế học trong quá trình soạn thảo Kế hoạch Thực tiễn (Real Plan) nhằm kiềm chế lạm phát và sau đó sử dụng tài năng thuyết phục của mình để làm cho kế hoạch này được phê chuẩn, triển khai và chấp nhận ngay tại thời điểm, theo như lời ông nói, khi Quốc hội còn yếu. Năm 1994, thể hiện lòng biết ơn vì đã khắc phục được nạn lạm pháp, nhân dân đã bầu Cardoso lên làm tổng thống. Những cuộc cải cách do chính phủ của ông tiến hành đã đặt nền móng cho sự ổn định kinh tế và chế độ dân chủ.
Xét chung cuộc, công cuộc chuyển hóa của Brazil sang nền quản trị dân chủ thực sự đã diễn ra một cách khó khăn hơn so với những nước khác, ví dụ như, Argentina, việc quân đội nước này thua (chiến tranh Falkland, kéo dài mười tuần giữa Argentina và Anh Quốc, năm 1982, Argentina thua – ND) đã làm dân chúng mất tín nhiệm đối với lực lượng vũ trang. Nhưng cơ cấu xã hội phức tạp của Brazil, mức độ đô thị hóa cao và văn hóa chính trị được hình thành bởi lịch sử bầu cử của đất nước đã tạo áp lực làm cho quá trình dân chủ hóa từng bước một, thông qua tiền trình bầu cử trở nên hoàn toàn khả thi. Phe đối lập dân chủ chấp nhận luật lệ và nhịp độ do chế độ đưa ra và đã có vô số thỏa hiệp trên suốt lộ trình. Chúng ta không thể biết chắc rằng, những thỏa hiệp này có làm cho quá trình chuyển tiếp kéo dài quá mức cần thiết, như một số người khẳng định vào thời điểm đó hay không. Nhưng tại thời điểm này nhìn lại, rõ ràng là những thỏa hiệp đó không vĩnh viễn kìm hãm chế độ dân chủ. Quân đội hiển nhiên đã nằm dưới quyền quản trị dân sự, các quy định về an sinh xã hội đã được mở rộng đáng kể, đã đạt được tăng trưởng kinh tế công bằng hơn, và hiện nay Brazil có chế độ dân chủ đầy sức sống, sáng tạo và đã bám rễ rất vững chắc.
Tiểu sử Fernando Henrique Cardoso, Tổng thống Brasil (1995-2003)
Fernando Henrique Cardoso khởi nghiệp là một nhà nghiên cứu xã hội học; luận án và tác phẩm đầu tiên của ông viết về chủng tộc ở Brazil. Chẳng bao lâu sau ông đã thể hiện được tài năng về chính trị và hành chính của mình trong quá trình quản lí Trường Đại học Sao Paulo. Bị chế độ quân sự bãi chức, Cardoso đành sống lưu vong ở Chile và cùng viết chung với người khác một tác phẩm dấu ấn về sự phụ thuộc và phát triển. Ông đã từ chối những vị trí hấp dẫn trong giới hàn lâm quốc tế để trở về Brazil vào năm 1968. Với sự giúp đỡ của Quỹ Ford, ông cùng với những người khác đứng ra thành lập CEBRAP (Centro Brasileiro de Analise e Planejamento - Trung tâm Phân tích và Kế hoạch hóa Brazil) - một trung tâm nghiên cứu khoa học xã hội độc lập. Ỏ đó, Cardoso đã hướng dẫn công trình nghiên cứu về vùng đô thị Sao Paulo, tập trung vào phân phối thu nhập và các chủ đề khác với hàm ý thách thức chế độ quân sự về chính sách. Cardoso tham gia chính trường bầu cử trong cuộc bầu cử quốc hội tương đối tự do vào năm 1978, sau đó là nghị sĩ đối lập có vai trò ngày càng quan trọng trong quốc hội và là đồng sáng lập của Đảng Dân chủ Xã hội Brazil.
Với tư cách một nhà lãnh đạo phe đối lập trong quá trình chuyển hóa từng bước của Brazil, Cardoso thiết lập cầu nối giữa các đối thủ của chế độ quân sự và tiếp đó là giữa các chính phủ dân chủ nối tiếp nhau của đất nước này. Ông là đại diện của các Ủy ban của quốc hội soạn thảo ra bản hiến pháp năm 1988 của Brazil. Trong vai trò bộ trưởng tài chính, bắt đầu từ năm 1993, ông đã cộng tác với một nhóm các nhà kinh tế học để lập ra Kế hoạch Thực tiễn nhằm kiềm chế lạm phát và giành được sự ủng hộ của dân chúng bằng cách trình bày cách tiếp cận mới đối với các vấn đề kinh tế với nhiều thành phần công chúng. Sự thành công của Kế hoạch Thực tiễn là nguồn trợ giúp đắc lực, giúp ông thắng cử trong cuộc bầu cử tổng thống năm 1994. Tiếp đó, Cardoso sử dụng kĩ năng cá nhân và kĩ năng xây dựng quan hệ của mình để tạo lập liên minh cầm quyền. Ông cũng dựa vào mối quan hệ họ hàng với rất đông người thuộc thành phần quân đội trong gia đình mình để tìm hiểu các tập tục của giới sĩ quan Brazil và giành được sự ủng hộ của họ đối với nhiều cuộc cải cách quan trọng – trong đó có việc thành lập Bộ Quốc phòng với tư cách pháp nhân dân sự. Ông làm tổng thống hai nhiệm kỳ, ông giám sát cải cách kinh tế nhằm mở cửa thị trường và nền ngoại giao quốc tế năng động, và sau đó lãnh đạo quá trình chuyển giao êm thấm sang cho Luiz Inacio (Lula) da Silva, một người cánh tả và đã lãnh đạo phong trào lao động suốt nhiều năm liền. Luiz Inacio (Lula) da Silva, được bầu làm tổng thống năm 2002, đã tiếp tục duy trì và mở rộng nhiều chính sách kinh tế và xã hội của Cardoso.
Phỏng vấn tổng thống Fernando Henrique Cardoso
Những tác nhân quan trọng nào đóng góp vào quá trình chuyển hóa từ chế độ quân sự sang chế độ dân chủ ở Brazil?
Trước hết, phải nhớ rằng quá trình chuyển hóa ở Brazil được thực hiện trong thời kỳ Chiến tranh Lạnh, thế giới chia làm hai phe. Không thể giải thích cuộc đảo chính quân sự ngày 31 tháng 3 năm 1964 theo cách khác được. Sau đó, tình hình Chiến tranh Lạnh dịu dần lên lại giúp cho quá trình chuyển hóa. Nói cách khác, hoàn cảnh quốc tế có vai trò quan trọng - mặc dù không phải thiết yếu.
Các yếu tố bên trong là quan trọng nhất. Kinh nghiệm của Brazil cho thấy tầm quan trọng của việc kết hợp áp lực xã hội và chiếm lĩnh không gian hiến định, ngay cả vào thời điểm ban đầu vào thời điểm ban đầu, khi không gian này còn hạn hẹp. Lực lượng quân sự ở Brazil duy trì hoạt động của quốc hội, ngoại trừ một giai đoạn ngắn. Họ không cấm các đảng phái chính trị; họ đàn áp các đảng phái chính trị được thành lập trước đó, nhưng lại thành lập hai đảng mới đúng vào lúc họ lập ra những cơ chế đặc trưng của chính quyền độc tài. Do yêu cầu an ninh quốc gia, quân đội không thể (và không muốn) xóa bỏ sự hiện diện của các thiết chế tự do. Sự tồn tại của các thiết chế này là nền tảng cho sự năng động của quá trình chuyển tiếp. Áp lực xã hội có thể tìm được cách biểu đạt trong các cuộc bầu cử. Mỗi thắng lợi từng bước, lần lượt, lại làm gia tăng áp lực của xã hội lên chế độ.
Trong quá trình này, một xã hội mới dần dần xuất hiện và tìm được những hình thức đấu tranh bất bạo động mới. Đấu tranh vũ trang là thảm họa và trở thành lý do biện hộ cho chính sách đàn áp chính trị tồi tệ nhất của chế độ quân sự, diễn ra trong giai đoạn từ năm 1968 đến năm 1973.
Huy động xã hội
Ông tham gia vào chính trị như thế nào?
Tôi lao vào cuộc đấu tranh này với rủi ro rất lớn. Con đường của tôi là từ xã hội sang chính trị. Năm 1973, tôi bắt đầu có những phát ngôn công khai và mạnh mẽ. Hội người Brazil vì Tiến bộ Khoa học, là một kiểu tập đoàn những người đối lập độc lập – các giáo sư, các nhà khoa học và nhà trí thức độc lập khác, đều là những người chỉ trích chế độ - là diễn đàn để thảo luận và chỉ trích, là tác nhân quan trọng để làm suy yếu chế độ.
CEBRAP Trung tâm Phân tích và Kế hoạch hóa Brazil (CEBRAP) cũng là một công cụ quan trọng nữa để vận động trí thức. Chúng tôi lập ra trung tâm này với sự hỗ trợ của Quỹ Ford (Ford Foundation), việc đó đã gây ra một cuộc tranh luận nội bộ khá ồn ào vì Ford Foundation là tổ chức của Mỹ. Mọi người đã nghi ngờ là liệu quỹ của Mỹ giúp đỡ thì có hợp pháp hay không, nhưng tôi đã làm việc ở Ủy ban Kinh tế của Liên hợp quốc về Mỹ Latin (United Nations Economic Commission for Latin America - ECLA) ) và tôi thấy lo như thế là vô lí. CEBRAP đã trở thành trung tâm quan trọng, và rất nhiều người sau này có vai trò quan trọng trong đời sống trí thức của Brazil đã từng tham gia tổ chức này, trong đó có Pedro Malan, Jose Serra và Luciano Coutinho [Pedro Malan sau này trở thành bộ trưởng tài chính, Jose Serra trở thống đốc Sao Paulo và ứng cử viên tổng thống, còn Luciano Coutinho thì trở thành chủ tịch Ngân hàng Phát triển Quốc gia]. Chúng tôi không thuộc về bất cứ đảng phái nào, nhưng chúng tôi chấp nhận những người vừa ra khỏi nhà tù với điều kiện là họ chấm dứt liên kết với cuộc đấu tranh vũ trang. Chúng tôi đã làm việc với Giáo hội, đặc biệt là với Hồng y của Sao Paulo, Cha Dom Paulo Evaristo Arns. Tôi đã có nhiều bài phát biểu ở các tu viện, và năm 1975 tôi cùng với các với các nhà nghiên cứu khác của CEBRAP chấp bút tác phẩm nhan đề Sao Paulo: Tăng trưởng và nghèo đói (Sao Paulo: Growth and Poverty), lên án tình hình xã hội của Brazil lúc đó.
Mặc dù mức tăng trưởng kinh tế là 7% một năm, nhưng tình hình xã hội xấu đi do tình trạng di dân trong nước và mức gia tăng dân số quá lớn. Nhà nước không có đủ nguồn lực để cung cấp thêm dịch vụ y tế, giáo dục, giao thông. Ngoài ra, lúc đó đang có chính sách cứng rắn để khống chế tiền công ở mức thấp.
Làm sao đánh thức được ý thức về tự do và liên kết với các phong trào xã hội? Các lực lượng chính trị bắt đầu tổ chức như thế nào?
Có không gian chính trị cho tiếng nói phê phán xã hội – ví dụ, phản đối tra tấn - và Giáo hội Công Giáo đã làm được rất nhiều việc. Hồng y giáo phận Sao Paulo, Cha Dom Paulo Evaristo Arns, là người hoạt động rất tích cực và phản đối tra tấn. Năm 1975, khi người ta giết giám đốc TV Cultura, Vladimir Herzog, chúng tôi đã tổ chức một cuộc biểu tình rất lớn. Dom Paulo đã rất dũng cảm khi ông cùng với Giáo sĩ đạo Do Thái, Henry Sobel, và Mục sư của Giáo hội trưởng lão, James Wright, quyết định tổ chức một cuộc tuần hành để phản đối. Thống đốc Sao Paulo (do tổng thống Ernesto Geisel nhiệm kỳ 1964-1979 bổ nhiệm), Paulo Egidio Martins, là bạn của chúng tôi, ông này có quan điểm tự do bảo thủ. Dom Paulo đã gửi sứ giả đến nói chuyện với thư kí phụ trách công việc nội trị, và ông này trả lời: “Các vị biết đấy, các vị có thể gây ra một vụ thảm sát”, và Dom Paulo gọi điện cho tôi và chúng tôi nói chuyện. Cuối cùng, ông vẫn quyết định tổ chức tuần hành, là lần đầu tiên có cuộc vận động quần chúng phản đối chế độ. Ông đã có một bài thuyết pháp cứng rắn, Hồng y Helder Camara phụ tá và tôi đứng cạnh bàn thờ cùng với các tu sĩ.
Xây dựng liên minh
Năm 1974, có sự thay đổi lớn trong phe đối lập. Lãnh đạo phe đối lập là nghị sĩ Ulysses Guimaraes, một người xuất chúng thuộc đảng Đảng Dân chủ Xã hội (Partido Social Democratico) () đã bị giải tán, đây là đảng chính ủng hộ chính phủ trước khi xảy ra đảo chính quân sự. Ulysses vốn là người bảo thủ và rồi từng bước một, ông trở thành một người lãnh đạo những nỗ lực tái dân chủ hóa. Ông muốn thổi sức sống mới vào Phong trào Dân chủ Brazil (Movimento Democratico Brasiliero - MDB)), đảng đối lập với chế độ độc tài hợp pháp duy nhất vào lúc đó. Năm 1974, có các cuộc bầu cử, và ông cùng với người bạn, cũng là nghị sĩ, đến gặp tôi ở CEBRAP. Ulysses đã đọc những bài báo của tôi, trong đó tôi nói rằng nó đã đến lúc cánh tả nên sát cánh chặt chẽ hơn với MDB. Lúc đó, nhiều người coi đề nghị như thế là tội lỗi. Các đồng nghiệp của tôi khẳng định rằng chúng tôi phải thuần khiết - rằng phe đối lập chính cống không được tiếp xúc với đảng đối lập được chế độ chấp thuận. Trong bài báo đó, tôi khẳng định rằng nếu không có liên minh giữa các thành phần khác nhau thì sẽ không thể nào phá vỡ được sự thống trị của giới quân sự. Ulysses Guimaraes đến văn phòng tôi mà không biết CEBRAP là gì, chúng tôi chỉ là một trung tâm nghiên cứu, chứ không phải là tổ chức chính trị. Để chúng tôi, có hành động chính trị, cần phải hỏi ai đã sẵn sàng và ai có nguyện vọng hành động. Một số đồng nghiệp của tôi đã đồng ý chuẩn bị chương trình cho chiến dịch của MDB trong năm 1974. Trong số những người làm việc cùng nhau, có Francisco Weffort và Francisco de Oliveira, một năm sau đó, cả hai người người đều tham gia Đảng Lao động (PT hay Partido dos Trabalhadores); Bolivar Lamounier; Giáo sư Maria Herminia Tavares de Almeida; và Paulo Singer, người hiện vẫn là đảng viên PT. Chương trình trình đó là khuôn khổ cho những chương trình trong tương lai. Nó chưa đủ mạnh để có thể lên án bạo lực và tra tấn và thảo luận về dân chủ; cũng còn phải nói về phụ nữ, về người da đen, về người dân bản địa, xã hội dân sự, và các tổ chức công đoàn, và đáp ứng các áp lực mãnh liệt của xã hội nhằm tìm cách giải quyết những nỗi bất bình trong xã hội. Đấy là chương trình dân chủ mở rộng.
Tạo sự đồng thuận để thay đổi
Lúc đó, một số người trong nhóm của chúng tôi nghĩ rằng dân chủ mở rộng là sự phản bội. Tuy nhiên, trên thực tế, tôi không còn nghĩ như vậy nữa. Ulysses Guimaraes mời Chico Oliveira và tôi đến Brasilia để trình bày chương trình cho các nhà lãnh đạo của MDB – những nhà lãnh đạo chính trị lão luyện, đã từng chiến đấu với chính phủ quân sự, trong đó có Tancredo Neves và Andre Franco Montoro, và những người khác. Chúng tôi không nghĩ rằng họ sẽ chấp nhận chương trình này, nhưng điều làm chúng tôi ngạc nhiên là, tất cả đều tán thành chương trình. Đối với họ, quan trọng nhất là đưa nhiều người hơn nữa đứng vào hàng ngũ đối lập - trừ Ulysses Guimaraes ra, chẳng có mấy người quá quan tâm tới chương trình.
Rồi đến cuộc bầu cử năm 1974. Phe đối lập đã giành được 16 trong số 22 ghế được mang ra tranh cử ở thượng viện (hiện nay, thượng viện Brazil có 81 nghị sĩ – ND) và 161 thành viên hạ viện - ít hơn đảng của chính phủ, nhưng nhiều hơn hẳn so với cuộc bầu cử năm 1970. Kết quả này làm cho chế độ hoàn toàn bất ngờ. Phe đối lập giành được kết quả như thế là vì tình hình kinh tế của quần chúng quá khó khăn, chứ không phải vì họ chống đối chế độ. Tiến trình mở cửa bắt đầu như thế đấy. Golbery do Couto e Silva là bộ trưởng chính trị hàng đầu của Geisel (tổng thống Brazil từ năm 1974 đến năm 1979 – ND) mặc dù ông là một quân nhân. Năm 1964, ông thành lập Vụ Thông tin Quốc gia, đóng một vai trò quan trọng trong bộ máy đàn áp. Nhưng lần này, Golbery trở lại chính phủ với mối quan tâm về việc hạn chế quyền lực của phe cực hữu và bộ máy đàn áp.
Geisel có thái độ không rõ ràng. Một lần, cảnh sát tới CEBRAP và bắt giữ một số nhà nghiên cứu. Các nhà nghiên cứu này không tham gia vào bất kỳ phong trào lật đổ nào, nhưng họ đã bị tra tấn ở các đồn cảnh sát ở Sao Paulo. Khi họ được thả, tôi đưa họ đến nhà của một người bạn của tôi, Severo Gomes, lúc đó là một trong những bộ trưởng của Geisel; sau này ông trở thành thượng nghị sĩ của đảng đối lập. Severo đề nghị tôi viết thư cho Geisel về những sự kiện đã xảy ra, và mang tới cho ông ta. Geisel nói với Severo rằng tôi cũng là cộng sản. “Ngài nói cộng sản là ý gì?” Severo đáp lại. Geisel là một người cứng rắn, nhưng ông bị ảnh hưởng bởi Golbery do Couto e Silva. Chế độ đã có một số nới lỏng, nên báo chí bắt đầu chấp nhận nhiều rủi ro hơn. Tờ báo hàng ngày, Gazeta Mercantil, chịu ảnh hưởng của những người từng là cộng sản; một số là những trí thức lớn. Khoảng năm 1977, theo trí nhớ của tôi, họ lập ra diễn đàn của 10 nhà lãnh đạo doanh nghiệp quan trọng nhất của Brazil. Họ bắt đầu chỉ trích sự bành trướng quá mức của “doanh nghiệp nhà nước”. Đó là điều phi thường, vì chính báo chí đã sáng tạo ra một ban lãnh đạo mà trên thực tế, rất phân tán. Đấy không phải là vấn đề về lãnh đạo các hiệp hội doanh nghiệp, mà là của các nhà lãnh đạo doanh nghiệp lớn, những người rất mạnh về kinh tế.
Tiếng nói của báo chí đã gây được ảnh hưởng đối với chính phủ. Hai tờ báo ra hằng ngày có nhiều độc giả nhất của Sao Paulo có vai trò trong việc này. Ngay từ khi có Đạo luật 5 (AI-5)
[1] ban hành năm 1968, tờ
O Estado de Sao Paulo đã phản đối kiểm duyệt báo chí bằng cách xuất bản mấy bài thơ của nhà thơ Luis de Camoes đúng vào chỗ những bài viết bị chính phủ kiểm duyệt. Sẵn đà đó, cuộc vận động phản đối kiểm duyệt (và ủng hộ việc bãi bỏ Đạo luật AI-5) ngày càng sôi nổi hơn. Chủ yếu là Golbery, ông này đã nhận thức được nhu cầu tiến lên theo hướng tự do hóa chế độ. Ý tưởng là tiến hành tự do hóa với khẩu hiệu “chậm, từng bước một và chắc chắn”. Nhưng chúng tôi phản đối; chúng tôi muốn tiến nhanh hơn, ngay cả khi không chắc chắn lắm. Quá trình chuyển hóa không diễn ra theo một đường thẳng đều đặn; có những giai đoạn, Geisel bị áp lực khá mạnh và có những giai đoạn ông được tự do hơn trong việc tiến hành tự do hoá.
Năm 1977, có những sự kiện thú vị khác. Ulysses từng là ứng cử viên tranh cử tổng thống với Geisel trong Cử tri đoàn, do chế độ độc tài kiểm soát. Đúng lúc này, phong trào công nhân tham gia công đoàn bắt đầu xuất hiện, không liên kết với Đảng Cộng sản hay bất kỳ nhánh nào của đảng cánh tả đang tồn tại từ trước. Rồi đến lúc Lula xuất hiện; ông từng là tổng thư kí của công đoàn Sao Bernardo (công đoàn công nhân luyện kim – ND), và sau đó làm chủ tịch công đoàn này. Ông không có mạng lưới quan hệ chính trị và phản đối ý tưởng thành lập đảng phái chính trị, nhưng ông là diễn giả khá hoạt ngôn. Vì không xuất thân từ cánh tả, cách nhìn sự vật của ông không giống như những người khác. Với sự hỗ trợ của các công đoàn người Đức, đây là những công đoàn rất mạnh trong lĩnh vực sản xuất ô tô, công đoàn mới bắt đầu tổ chức các cuộc đình công với các đòi hỏi kinh tế mà không kèm theo chương trình chính trị rộng lớn hơn. Nhưng những bất bình về kinh tế rồi sẽ biến thành những đòi hỏi về quyền. Một nhóm luật sư liên kết với các công đoàn - trong đó Almir Pazzianotto, sau này trở thành bộ trưởng lao động trong chính phủ của tổng thống Sarney – có vai trò quan trọng trong vấn đề này. Các công đoàn lớn mạnh thêm với cách tiếp cận mới như thế.
Năm 1977, tôi tham gia MDB. Năm sau, lần đầu tiên tôi tiếp xúc với công đoàn của Lula, trong vai người chuẩn bị làm ứng viên thượng nghị sĩ. Lula gửi cho tôi bức thư nói rằng ông muốn ủng hộ tôi. Tôi đã rất ấn tượng vì ông có bộ máy đầy sức mạnh. Các công đoàn bắt đầu được chính trị hóa. Một số cuộc đình công của Lula, nhất là trong các năm 1978-1979, đã huy động được nhân dân, Giáo hội, các nhà trí thức, và một số thành phần của MDB.
Đánh bại hệ thống độc tài ngay từ bên trong
Năm 1978, có các cuộc bầu cử quốc hội mới. Phe đối lập không giành được đa số trong cả hạ viện lẫn thượng viện [năm 1977, chính phủ đã áp dụng cái mà sau này được gọi là thượng nghị sĩ bionic (mỗi bang được bầu 3 thượng nghị sĩ: 2 người được bầu trực tiếp, 1 người được bầu gián tiếp, người này bị gọi là bionic, có thể hiểu là con rối – ND), để đảm bảo rằng chính phủ sẽ nắm được đa số tại Thượng viện]. Tuy nhiên, phe đối lập thu được khá nhiều phiếu, nhất là trong những bang và địa phương năng động về xã hội và kinh tế. Tư tưởng này sau đó đã được một người bất đồng chính kiến trong quân đội áp dụng trong các cuộc bầu cử để thay thế Geisel. Chúng tôi biết rằng khả năng chiến thắng trong Cử tri đoàn là rất ít. Mặc cho sự phát triển của phe đối lập trong quốc hội, đặc biệt là trong hạ viện, chế độ vẫn kiểm soát Cử tri đoàn, trong đó có những người đại diện cho cho hội đồng lập pháp các tỉnh và những người khác nữa. Mục tiêu của chúng tôi không phải là giành chiến thắng, mà là thể hiện sức mạnh khi đối đầu trực tiếp với chế độ ngay trên sân nhà của họ.
Tôi ở Rio cùng với Severo Gomes, ông này đã li khai với chính phủ và chạy sang phe đối lập, và ông đề nghị chúng tôi tới nhà tướng Euller Bentes Monteiro, người hình như đã lên tiếng phản đối ứng cử viên của chính phủ, tướng Joao Batista de Figueiredo. Tại buổi gặp đầu tiên, tướng Euller Bentes nói với chúng tôi rằng ông ta sẽ ủng hộ ứng cử viên đối lập, còn Severo thì nói chúng tôi nên bàn với Ulysses Guimaraes. Ulysses phản ứng lạnh nhạt, vì ông đang ủng hộ ứng viên dân sự - đấy là cựu thống đốc bang Minas Gerais, Magalhaes Pinto, ông này cũng đã li khai với chế độ và bắt đầu chấp nhận quan điểm mới. Ulysses muốn Magalhaes trở thành ứng cử viên vì ông là thường dân, và, mặc dù ông đã từng là người gần gũi với chế độ, nhưng ông đại diện cho phe chống đối trong nội bộ chính phủ. Có một lần, khi tôi còn là thượng nghị sĩ, Magalhaes gọi điện cho tôi. Ông hỏi tôi có biết rằng con của chúng tôi đã hẹn hò với nhau, và nói thêm rằng ông không muốn chúng biết là ông biết. Sau này, con trai tôi đã kết hôn với con gái ông. Chúng đã ly dị, nhưng các cháu của tôi cũng là cháu của ông.
Ulysses nghĩ cần phải mở tung lỗ thủng ngay trong lòng chế độ, bằng cách sử dụng Magalhaes, và bây giờ vị tướng Lục quân này cũng muốn trở thành ứng cử viên. Tôi thích vị tướng này vì ông sẽ khiến chế độ rạn nứt ở vị trí xung yếu hơn. Một thời gian trôi qua, nhưng Ulysses vẫn chưa quyết định. Ông gọi điện cho tôi và hỏi: “Ông thực sự nghĩ về ông tướng này như thế nào?” Tôi trả lời, “Tôi nghĩ là ông còn đang dè dặt chưa ủng hộ hết mình”. Ông hoàn toàn không thích câu trả lời của tôi và nói với tôi, “Nhưng ông cũng biết rằng Sao Paulo theo xu hướng dân sự”. “Tôi biết”, tôi đáp, “Nhưng đây là chế độ quân sự và đây là lần đầu tiên tướng bốn sao đang tại ngũ chuyển phe, và chúng tôi sẽ không thể chiến thắng mà không phá vỡ họ ngay từ bên trong”.
Tôi luôn luôn quan niệm rằng quá trình chuyển hóa không thể xảy ra mà không có đối đầu trực tiếp. Tôi luôn luôn sử dụng hình ảnh sau đây: Họ là một pháo đài; chúng ta phải bao vây pháo đài, và nếu chúng ta xiết chặt được vòng vây vững chắc thì những người bên trong sẽ bị đói và sẽ phải tìm chúng ta. Lúc đó, quá trình chuyển hóa sẽ xảy ra như là kết quả của sự hợp lưu của các lực lượng đã rời bỏ chính phủ để tham gia phe đối lập. Đấy không chỉ là phe đối lập. Nhưng nhiều người coi quan điểm của tôi có thể bị chế độ lợi dụng.
Tôi tin rằng quan điểm của tôi cuối cùng sẽ chiến thắng. Euller là ứng cử viên, nhưng ông ta đã thua – đấy là cuộc bầu cử mà chắc chắn là thua – không có cách nào thắng được, nhưng lỗ thủng thì vẫn còn đó.
Chiến lược của giới quân sự là gì và họ đối phó như thế nào trước phe đối lập đang ngày càng gia tăng?
Ban đầu, Golbery muốn có quá trình chuyển hóa chậm. Số phiếu mà phe đối lập giành được trong các cuộc bầu cử năm 1974 và 1978 làm người ta kinh ngạc. Chính phủ phản ứng bằng cách trì hoãn việc bàn giao cho chính quyền dân cử của các bang, được dự định vào năm 1978. Kết quả là hệ thống chính trị lưỡng đảng chấm dứt vào năm 1979. Mục đích là chia rẽ phe đối lập. PT nổi lên trong bối cảnh như thế. Giai đoạn đầu, phong trào công đoàn mới được chính phủ ưu ái; trước Lula, chưa có nhà lãnh đạo công đoàn nào được đăng trên trang nhất của các tờ tạp chí. Vì Lula là nhân vật mới, ông không liên quan với Chiến tranh Lạnh hay với các đảng cánh tả trước đây; ông đại diện cho xu hướng mới. Các nhóm ôn hòa trong MDB, được chính phủ khuyến khích, cũng tìm cách thành lập một đảng khác gọi là Đảng Nhân dân (Partido Popular - PP) - dưới sự lãnh đạo của Tancredo Neves. Olavo Setubal, người được Geisel bổ nhiệm làm thị trưởng thành phố Sao Paulo và là một chủ ngân hàng lớn, tham gia đảng này. Nhưng, PP chẳng tồn tại được lâu; đa số cán bộ của đảng này quay về với MDB, sau này được gọi là Đảng của Phong trào Dân chủ Brazil (Partido do Movimento Democratico Brasileiro – PMDB)).
Trong giai đoạn mới của quá trình chuyển hóa, cuộc đấu tranh vì dân chủ được kích hoạt như thế nào?
Lúc đó, các phong trào khác cũng xuất hiện: Phong trào đòi ân xá rất mạnh, thậm chí ngay khi chính quyền Geisel chuẩn bị chấm dứt, cộng với các cuộc đình công do Lula tổ chức. Điều thú vị là, Lula không ủng hộ ân xá vì ông nói rằng ân xá thực sự cho người lao động sẽ đưa luật lao động mang tên Vargas - liên kết nhà nước với cấp công đoàn – đến chỗ cáo chung. Các nhà lãnh đạo công đoàn mới có quan điểm độc lập hơn, chịu ảnh hưởng nhiều của Công giáo chứ ít chịu ảnh hưởng của nhà nước. Chủ nghĩa công đoàn mới tìm cách phá vỡ các mối quan hệ với chính phủ. Họ đấu tranh vì công đoàn tự chủ. Chúng tôi tham gia vào cuộc đấu tranh đòi ân xá cho các chính trị phạm. Nhân vật chính trong cuộc đấu tranh này là thượng nghị sĩ Teotonio Vilela, họ hàng bên đằng mẹ tôi. Ông ta cũng từng là người ủng hộ chế độ, nhưng cuối cùng đã thay đổi quan điểm. Mọi người bắt đầu thay đổi quan điểm. Teotonio trở thành người anh hùng của phe đối lập; tên của cơ sở đảng của tôi là Teotonio Vilela, mặc dù ông ta vẫn là thành viên của Đảng Liên minh Đổi mới Quốc gia (Alianca Renovadora Nacional – ARENA) ), đảng của chính phủ trong hệ thống lưỡng đảng.
Luật Ân xá đã được thông qua vào thời điểm đó. Việc những người từng sống lưu vong hồi hương có ảnh hưởng mạnh đến sự hình thành các đảng mới, đặc biệt là PT và Đảng Lao động Dân chủ (Partido Democratico Trabalhista – PDT), do Leonel Brizola thành lập. [Quân đội đã giành được từ tay ông đảng PTB hay Partido Trabalhista của Brasil, đảng này được trao vào tay Ivete Vargas, cháu gái họ của Tổng thống Getulio Vargas.] Golbery và Chính phủ đã dùng thủ đoạn để bà này chứ không phải Brizola được mang ngọn cờ có tính biểu tượng của đảng PTB.
Kinh nghiệm lưu vong
Trong nhiều cuộc chuyển hóa thường có sự căng thẳng giữa những người sống lưu vong và những nhà lãnh đạo phe đối lập ở trong nước. Kinh nghiệm Brazil cung cấp những bài học gì về vấn đề này?
Luôn luôn có sự căng thẳng giữa những người ở trong nước, đang đấu tranh chống lại chế độ và những người ở bên ngoài, tức là những người lưu vong. Tôi đã ở cả bên ngoài lẫn bên trong, trong những giai đoạn khác nhau. Những người bên trong, tức là những người thấy tình hình mỗi ngày, có nhiều khả năng hơn trong việc nắm bắt những hiện tượng đang xảy ra trong các giai đoạn khác nhau của quá trình này, nhưng đồng thời, họ lại coi thường những người ở bên ngoài.
Tôi còn nhớ rõ buổi nói chuyện với Brizola, ở Paris. Ông ta nhấn mạnh rằng ngay sau khi ông trở về Brazil, MDB sẽ trở thành PTB, đây là đảng của của ông và của Getulio Vargas. Ông không tin vào tính liên tục của MDB và nghĩ rằng PTB sẽ trở lại mạnh mẽ như xưa. Thời gian tiếp tục trôi, sau khi được ân xá, ông trở về Brazil. Chúng tôi cùng với Brizola đến nhà một nhà báo, tên là Claudio Abramo, đấy là cuộc họp của những người trẻ và cả những người không còn trẻ. Bất ngờ, một người đứng lên và sửa lại nhiều ý kiến của Brizola về phong trào công đoàn. Brizola tức giận và thách thức: “Ông biết gì về chuyện này? Ông là ai?” Hóa ra đấy là Almir Pazzianotto, luật sư của công đoàn của Lula. Brizola đã nhắc lại phong trào công đoàn thời ông, mà không nhận ra rằng chúng tôi đã ở trong một giai đoạn khác; ông nghĩ rằng khi trở về, ông sẽ giành lại được tất cả mọi thứ. Ông đã giành lại được một số thứ, nhưng tất cả không còn như xưa và MDB mạnh hơn rất nhiều so với đảng của Brizola.
Tôi nhớ rằng Ulysses Guimaraes, nhà lãnh đạo lớn của phong trào tái dân chủ hóa, nhìn Brizola và Arraes với cặp mắt coi thường, vì họ là các chính trị gia trường phái cũ, những người đã phải sống lưu vong. Ulysses đã tới châu Âu, nhưng không muốn nói chuyện với hai ông này. Có một sự căng thẳng nhất định giữa các lãnh đạo đối lập ở đây và những người lưu vong, và vì tôi đã tiếp xúc với cả hai bên, cho nên trong chừng mực nào đó, tôi là cầu nối. Có lần Ulysses gọi điện cho tôi và nói rằng Arraes, , người lãnh đạo Đảng Cộng sản (theo Ulysses), đang chuẩn bị trở về. Luôn có nguy cơ không tìm được chỗ đứng chung và khó mà đưa được hai nhóm làm việc cùng với nhau.
Đánh bại hệ thống độc tài ngay từ bên trong
Ông trở thành thượng nghị sĩ, còn Franco Montoro thì trở thành thống đốc như thế nào?
Tôi tranh cử thượng nghị sĩ trong cuộc bầu cử năm 1978. Nhiều người nghi ngờ là liệu cơ quan bầu cử có cho tôi ứng cử hay không. Luật AI-5 đã đẩy tôi ra khỏi trường đại học vào năm 1969. Tôi đã buộc phải nghỉ hưu; tôi đã 37 tuổi và là Giáo sư ở Đại học Sao Paulo. Luật pháp không cho phép chấp nhận tôi là ứng cử viên. Điều đó cho phép tôi thuyết phục vợ tôi rằng, đối với tôi, trở thành ứng cử viên chỉ để phản đối chứ không phải là khởi đầu của nghề chính trị.
Lúc đó, đã có hệ thống sát nhập các cuộc bầu cử nội bộ đảng với tổng tuyển cử, gọi là hệ thống lemas. Như ở Uruguay, mỗi đảng phái chính trị có thể đề cử ba ứng viên thượng viện, và phiếu mà các ứng cử viên nhận được sẽ được cộng lại để quyết định đảng nào thắng; ứng viên nào có số phiếu cao nhất sẽ trở thành thượng nghị sĩ. Mục tiêu ứng cử của tôi là tăng số phiếu bầu cho MDB, bằng cách dựa vào thanh niên, trí thức, nghệ sĩ..v.v.. Vì vậy mà chúng tôi đã tổ chức một buổi họp mặt ở nhà người bạn của tôi, Jose Gregori, ông này sau đó trở thành bộ trưởng tư pháp trong chính quyền của tôi; còn lúc đó ông là thành viên của Ủy ban Công lý và Hòa bình của Giáo hội Công giáo. Những người dự họp kết luận rằng tôi là người duy nhất có uy tín nhất định trong xã hội, mặc dù không nổi bật lắm, vì tôi không phải nghị sĩ và tôi chưa tham gia hoạt động chính trị. Các tòa án của Sao Paulo bác bỏ, không chấp nhận cho tôi ứng cử, tòa phúc thẩm cũng bác bỏ. Thế mà chỉ hai tuần trước khi bầu cử, tòa án Tối cao Liên bang lại chấp nhận. Một vị thẩm phán đã đồng ý với lập luận rằng học hàm Giáo sư đại học là suốt đời, và không ai có thể bị tước quyền chính trị suốt đời.
Tôi được 1.300.000 phiếu, nhiều hơn ứng cử viên của ARENA, nhưng ít hơn Montoro. Vì vậy, từ năm 1978 họ phát minh ra khái niệm: tôi là thượng nghị sĩ thay thế. Trước đó không có chức như vậy. Khi họ đưa chúng tôi vào, phiếu của Montoro có một người thay thế, tôi có một người khác, tôi đã được Lula lựa chọn. Người thay thế tôi là Mauricio Soares, có liên hệ với công đoàn công nhân luyện kim. Montoro là thị trưởng thành phố Campinas.
Năm 1982, Montoro trở thành thống đốc và tôi thay ông, giữ chức thượng nghị sĩ. Lúc đó tôi đang ở Berkeley, là Giáo sư thỉnh giảng, Giáo sư Robert Bellah gọi điện cho tôi để đề nghị cho tôi chức vụ cố định trong trường đại học này. Tôi từ chối, vì tôi đã quyết định trở về Brazil để làm thượng nghị sĩ.
Chiến dịch đòi bầu cử trực tiếp tổng thống
Thời điểm quan trọng trong cuộc đấu tranh vì công cuộc tái dân chủ hóa bắt đầu, đây là cuộc đấu tranh trên các đường phố: Chiến dịch đòi Bầu cử Trực tiếp Ngay Bây giờ (Diretas Já). Chuyện đó xảy ra vì, trong cuộc bầu cử năm 1982 (đây là lần đầu tiên, kể từ năm 1965, còn có cuộc bầu cử thống đốc bang), phe đối lập đã giành được Sao Paulo với Montoro làm thống đốc, Tancredo làm thống đốc Minas, còn Brizola thì làm thống đốc Rio.
Phong trào đòi Bầu cử Trực tiếp Ngay Bây giờ xuất hiện trong bối cảnh sau: Chế độ được điều hành từ các khu quân sự của Brasilia, họ liên minh với các thống đốc ở những bang ít năng động về mặt xã hội và kém năng động về kinh tế, trong khi phe đối lập đã giành được những căn cứ quyền lực mới: Thống đốc ba bang đứng đầu Brazil. Andre Franco Montoro, thống đốc Sao Paulo, có vai trò quyết định trong chiến dịch Diretas Já.
Năm 1982, khi Montoro được bầu làm thống đốc bang Sao Paulo, thì tôi cũng nhậm chức thượng nghị sĩ. Tôi cũng trở thành chủ tịch của PMDB ở Sao Paulo vì chủ tịch đương nhiệm, Mario Covas, được Montoro bổ nhiệm làm thị trưởng thành phố Sao Paulo (bầu cử trực tiếp chính quyền bang diễn ra trước cuộc bầu cử trực tiếp thị trưởng thủ đô các bang). Tôi là chủ tịch của MDB trong giai đoạn vận động đòi bầu cử trực tiếp, và tôi nói với bạn như thế để nhắc lại vai trò quan trọng của Montoro lúc đó. Cuối năm 1983, Montoro gọi điện cho tôi và nói với tôi rằng đã đến lúc tổ chức một cuộc mít tinh lớn để ủng hộ bầu cử trực tiếp chức vụ tổng thống của nước cộng hòa. Tôi nói với ông rằng tôi không nghĩ là đã có đủ điều kiện. Tôi tham khảo ý kiến của đảng; Ban Chấp hành nhất trí tuyệt đối với quyết định rằng đấy là hành động điên rồ, rằng chúng ta sẽ tự đưa mình vào tình thế nguy hiểm. Vì vậy, tôi đề nghị với Montoro rằng chúng tôi nói chuyện với các đảng khác; tôi tìm được PT, nhưng PT muốn hành động một mình, vì lúc đó họ phản đối liên minh.
PT đã tổ chức một cuộc biểu tình ủng hộ bầu cử trực tiếp vào tháng 10 hay tháng 11 năm 1983, tôi tham gia. Họ không chế nhạo khi tôi đề nghị một phút im lặng để mặc niệm Teotonio Vilela. Đấy là một cuộc biểu tình rất nhỏ, mang tính giáo phái của PT. Montoro muốn làm lớn hơn nhiều, với sự tham gia của Brizola, Lula, Ulysses, và tất cả các nhà lãnh đạo của các đáng phái đối lập với chính phủ. Và vì vậy, ông kêu gọi tổ chức cuộc biểu tình của các nhóm đối lập khác vào ngày 25 tháng 1 năm 1984, tại quảng trường trước Đại Giáo Đường của Sao Paulo.
25 tháng 1 là ngày thành lập thành phố Sao Paulo và trường Đại học Tổng hợp Sao Paulo, cho nên tôi tham gia buổi lễ kỉ niệm của trường này như một giáo sư. Chúng tôi ở đó khi Jose Gregori (nghị sĩ), đang đứng trên quảng trường trước nhà thờ, gọi điện cho tôi và nói, “Đến đây, có một đám khá đông”. Không phải tất cả mọi người đều nghe được loa phóng thanh, đám đông tiếp tục kéo tới, mặc dù trời đang mưa. Cho nên chúng tôi đi, chúng tôi đã rất ngạc nhiên vì đông người quá. Đó là cuộc biểu tình lớn đầu tiên, tiếp theo là những cuộc biều tình khác. Mọi người cùng nhau đến đây: Lula, Montoro, Tancredo. Dân chúng cản trở xe của hãng truyền hình Globo; phải mất một thời gian Globo mới phủ sóng được toàn bộ chiến dịch, với đầy đủ qui mô và ý nghĩa của nó. Sau đó là chiến dịch lớn ủng hộ tu chính hiến pháp nhằm tái lập bầu cử trực tiếp tổng thống, được gọi là tu chính Dante de Oliveira, đấy là tên của nghị sĩ đảng PMDB, bang Mato Grosso, người đưa ra dự thảo tu chính án này.
Tháng 4 năm 1984, tu chính được đưa ra bỏ phiếu tại quốc hội. Nó giành được đa số tại hạ viện, nhưng không đủ số phiếu cần thiết để có thể sửa đổi hiến pháp. Vì vậy, câu hỏi lúc đó là: Làm gì đây? Vài tuần trôi qua.
Sau khi thất bại trong việc kêu gọi bầu cử tổng thống trực tiếp, các ông phản ứng như thế nào?
Tôi tới thượng viện và đọc bài diễn văn với thông điệp “thay đổi ngay bây giờ”, nghĩa là chúng ta sẽ chiến đấu trong quốc hội để bầu vị tổng thống mới. Chúng tôi chấp nhận một lần nữa rằng cuộc bầu cử có thể là gián tiếp. Đó không phải là quyết định dễ dàng. Chúng tôi dự định sử dụng các công cụ của chế độ để làm cho nó thay đổi, nhưng nếu chúng tôi không thành công, chúng tôi có thể chấm dứt việc giúp chế độ giành được tính hợp pháp. Bữa ăn tối hôm đó, có bốn hay năm người chúng tôi, trong đó có Ulysses, tôi nói với ông rằng trong số những người có mặt, tôi là người trả giá cao nhất vì tôi phải lưu vong, mất chức trong trường đại học, bị tù, và là đối tượng mà họ đang đe dọa. Trong số những người có mặt không ai phải chịu tất cả những chuyện đó. Tôi nói rằng tôi không muốn thấy tình hình như thế này ở Brazil kéo dài thêm nữa, tôi tin rằng có cơ hội giành chiến thắng thông qua bầu cử gián tiếp và đem lại thay đổi. Ulysses, người mà tôi rất ngưỡng mộ, nói với tôi rằng chúng tôi phải quyết định nhưng ông sẽ không làm theo cách đó - ông tiếp tục tin rằng chúng tôi phải tiếp tục huy động dân chúng ủng hộ bầu cử trực tiếp.
Đánh bại hệ thống độc tài ngay từ bên trong
Ứng cử viên của chúng tôi cho cuộc bầu cử trực tiếp là Ulysses, nhưng ông không tham gia tranh cử gián tiếp, bởi vì ông đã chiến đấu kiên cường với giới quân nhân, ông là người chỉ trích gay gắt và có ít phiếu hơn trong quốc hội. Montoro hoặc Tancredo có thể được quốc hội chấp thuận. Chúng tôi muốn bầu cử trực tiếp, nhưng khi chúng tôi thua, chúng tôi quyết định tiến hành cuộc chiến ngay bên trong quốc hội. Giai đoạn mới bắt đầu như thế đấy: Làm sao để ứng cử viên đối lập có thể giành chiến thắng trong cử tri đoàn? Ai sẽ là ứng cử viên? Có hai lựa chọn khả dĩ: Montoro và Tancredo.
Montoro là thống đốc Sao Paulo và nhận được nhiều phiếu phổ thông hơn Tancredo, nhưng trong quốc hội thì Tancredo lại có khả năng nhận được nhiều phiếu hơn. Quan điểm của ông được nhiều người, trong đó có giới quân nhân chấp nhận hơn, ông còn là người dễ thỏa hiệp hơn Ulysses. Một lần, khi tôi làm chủ tịch đảng ở Sao Paulo, Ulysses đến gặp tôi tại trụ sở chính, tọa lạc trong một biệt thự. Chúng tôi đến gần cửa sổ, cạnh một cái cây to. Ông hỏi tôi nghĩ gì về sự kiện là thư kí đối nội của Montoro đã trả lời phỏng vấn tạp chí Veja, trong đó ông ta nói rằng có thể ủng hộ Tancredo. “Ông tin rằng Montoro cũng ủng hộ Tancredo?”, ông hỏi. “Vâng”, tôi nói, “Tôi nghĩ vậy; muốn giành chiến thắng, thì phải là Tancredo”. Ông không thích câu trả lời của tôi, nhưng ông là một người tuyệt vời. Ông lại hỏi tôi, “Ông nghĩ, tôi phải làm gì?” Tôi nói rằng ông phải ủng hộ Tancredo và tiến hành chiến dịch tranh cử. Ông bảo rằng muốn nghe Montoro trực tiếp nói như thế.
Chúng tôi đã có một bữa ăn tối quá nặng nề ở ngay tòa lâu đài đó - có Montoro, thư kí đối nội của ông này, tên là Roberto Gusmao, Ulysses, và tôi - Ulysses đề nghị mọi người có mặt quanh bàn ăn nói ra ý nghĩ thực của mình. Ulysses nhận ra rằng đây là thời điểm của Tancredo. Ông là một người ghê gớm, và ông đồng ý nắm toàn bộ chiến dịch tranh của cử Tancredo. Muốn chiến thắng trong quốc hội thì cần phải có sự ủng rộng hơn, từ các phe phái khác, tức là của những người vốn vẫn ủng hộ chính phủ. Vì vậy, chúng tôi lập ra nhóm, gọi là Mặt trận Tự do (Frente Liberal), gồm những người tách ra khỏi đảng của chính phủ. Nhóm này đã đổi tên khi nền chính trị đa đảng được thiết lập. Trước đây nó có tên ARENA, sau này gọi là Đảng Dân chủ Xã hội (Partido Democratico Social PDS), rồi sau này là Đảng Mặt trận Tự do (Partido del Frente Lberal - PFL ), thoát thai từ PDS.
Chúng tôi muốn Aureliano Chaves hay Marco Maciel làm ứng viên phó tổng thống, nhưng PFL quyết định đưa Jose Sarney lên làm ứng viên. Sarney vừa mới thôi chức chủ tịch PDS. Ông không phải là lựa chọn đầu tiên của chúng tôi. Tuy nhiên, quyết định đã được thông qua rồi. Nếu chúng tôi muốn Frente Liberal ủng hộ thì phải là Sarney, vì vậy phiếu bầu là Tancredo-Sarney. Cặp này rất khó được đảng PMDB của chúng tôi ủng hộ. Hơn 100 trong số 500 đại biểu có quyền biểu quyết tại đại hội phê duyệt cặp ứng viên Tancredo-Sarney đã bỏ phiếu chống. Tháng 1 năm 1985, Tancredo được bầu làm tổng thống trong cử tri đoàn.
Ulysses có ảnh hưởng đáng kể trong việc lựa chọn các bộ trưởng trong nội cách của tổng thống Tancredo vừa đắc cử. Tôi có quan hệ rất tốt với cả hai người. Một hôm, khoảng giữa tháng 1 và tháng 3, là lúc tổng thống mới nhậm chức, Tancredo đưa tôi đến văn phòng của ông ở Fundacao Getulio Vargas trong thành phố Brasilia và nói với tôi, theo cách của ông: “Tôi muốn mời ông làm bộ trưởng, nhưng tôi có bốn bộ trưởng người Sao Paulo, và nếu tôi bổ nhiệm ông, thì ông là người thứ năm”. Tôi trả lời rằng tôi không tha thiết chức vụ trong nội các. Tôi sẽ khó từ bỏ chức thượng nghị sĩ, vả lại, tôi muốn trở thành người lãnh đạo của PMDB ở thượng viện, nếu việc bổ nhiệm ứng cử viên khác làm lãnh đạo ở thượng viện, Pedro Simon, được thông qua. Simon đã được Tancredo bổ nhiệm, và người thay mặt đảng tôi tìm cách trở thành chủ tịch thượng viện, Humberto Lucena, đã thất cử, nhưng muốn tiếp tục nắm vị trí lãnh đạo trong đảng. Đó là lý do vì sao Tancredo đề nghị tôi từ bỏ.
Hai hoặc ba ngày trước khi chuyển quyền lãnh đạo đảng, Ulysses gọi điện cho tôi và nói rằng Tancredo vừa bổ nhiệm tôi làm lãnh đạo lực lượng thân chính phủ trong quốc hội. Tôi ngạc nhiên, vì không có chức như thế. Tôi gặp Tancredo để nói chuyện. Ông ở trang trại của mình cùng với Miguel Arraes. Ông ngừng thảo luận với Arraes và sau đó đi đến với tôi. Tôi hỏi ông việc bổ nhiệm là như thế nào. Ông bảo: “Đừng lo, tôi đã gọi điện cho thượng viện và nói với họ bỏ mấy bức tường để văn phòng của ông sẽ là văn phòng lớn nhất ở thượng viện. Thế là mọi người sẽ biết rằng ông đang có chức. Hơn nữa, làm nhà lãnh đạo quan trọng hơn làm bộ trưởng”. Rồi chúng tôi đi ăn trưa: Tancredo, vợ ông, Arraes, và tôi. Arraes là nhà lãnh đạo của phái tả, nhưng là người bạn rất thân của tôi và cũng là người bạn tốt của Tancredo.
Những bước thụt lùi
Việc tổng thống mới đắc cử Tancredo Neves bị bệnh và chết một cách đột ngột chắc chắn là một cú sốc đối với quá trình chuyển hóa dân chủ. Đã xảy ra những chuyện gì khi cần phải thay thế vị tổng thống dân cử đầu tiên sau khi bãi bỏ chế độ quân sự?
Đêm trước lễ nhậm chức, tôi ở đại sứ quán Bồ Đào Nha cùng với Mario Soares, Ulysses Guimaraes và các nhà lãnh đạo chính trị khác thì được thông báo qua điện thoại rằng Tancredo đã được đưa vào bệnh viện. Một số người trong chúng tôi đến bệnh viện để hỏi thăm tình hình. Đấy là phòng chờ. Vị bác sĩ đi ngang qua để làm phẫu thuật, không ai biết sẽ như thế nào. Lúc đó mọi người thảo luận ai sẽ tạm thời thay thế Tancredo. Sarney, một người rất khéo léo, nói rằng người đó không phải là ông, và đề xuất Ulysses, vì cho rằng ông vẫn chưa tuyên thệ nhậm chức phó tổng thống và trên nguyên tắc, người thay thế tiếp theo là chủ tịch hạ viện, mà Ulysses lại đang là chủ tịch hạ viện. Nhưng Ulysses khẳng định rằng Sarney phải giữ chức tổng thống cho đến khi Tancredo khỏe hẳn. Cuộc thảo luận diễn ra ngay ở bệnh viện. Rồi họ quyết định đi tới nhà của chánh văn phòng phủ tổng thống, Leitao de Abreu. Ông này là luật gia cực kì bảo thủ, quê ở miền nam Brazil, nhưng là một người cực kì tử tế. Chính ông, khi làm thẩm phán ở Tòa án Tối cao, đã thông qua phán quyết cho phép tôi ứng cử thượng nghị sĩ vào năm 1978.
Ulysses, Jose Fragelli (chủ tịch thượng viện), tướng Leonidas (được bổ nhiệm làm bộ trưởng lục quân) và tôi, tất cả đều đến vào lúc một giờ sáng. Leitao de Abreu đang ngủ. Ông dậy và mặc quần áo, thậm chí đeo cả cà vạt, rất trịnh trọng, và mọi người bắt đầu thảo luận. Ông này cũng tin rằng Ulysses phải trở thành tổng thống lâm thời. Tôi nhắc lại trường hợp tổng thống mới đắc cử, Rodrigues Alves, từ trần trước khi nhậm chức và phó tổng thống lên thay vào năm 1918, nhưng tôi không biết rõ hoàn cảnh. Quyết định, về cơ bản do Ulysses và Leitao de Abreu đưa ra, với sự đồng ý của chủ tịch thượng viện, là dứt khoát: Jose Sarney sẽ lên thay Tancredo Neves.
Chúng tôi ra khỏi nhà Leitao de Abreu và đi đến quốc hội. Chúng tôi gặp nhau trong văn phòng chủ tịch thượng viện. Các nghị sĩ và các chính trị gia khác cũng tới. Đảng tôi rất tức giận vì họ muốn Ulysses chứ không phải Sarney làm tổng thống. Tôi nhớ rằng bài diễn văn của Afonso Arinos mang tính quyết định. Arinos là học giả về hiến pháp nổi tiếng, ngoài ra, ông còn là người viết tiểu sử của Rodrigues Alves. Ông nói rằng đấy phải là Sarney. Tôi không biết vì sao Ulysses lại muốn Sarney trở thành tổng thống. Có người nói rằng đó là vì ông đã tính rằng nếu ông nhận chức tổng thống, ông sẽ không thể làm ứng cử viên cho nhiệm kì tiếp theo. Sự thật là không ai biết rằng Tancredo sẽ chết: chúng tôi nghĩ chỉ cần thu xếp vấn đề tạm thời trong quãng một tuần lễ. Chúng tôi không bàn ai sẽ là tổng thống tương lai của Brazil; chúng tôi chỉ thảo luận ai có thể giữ chức vụ tạm thời, vàngăn ngừa được thiệt hại ở mức tối đa. Vì vậy, trên thực tế, Ulysses không lo về cuộc bầu cử tiếp theo, mà ông sợ gây ra phản ứng rất mạnh mẽ từ phía quân đội. Ulysses mâu thuẫn gay gắt với quân đội; ông là một người tầm cỡ, cho nên những vấn đề đang được tranh luận không bao giờ là những vấn đề nhỏ.
Điều đó cho thấy sự không chắc chắn của quá trình chuyển hóa. Chúng tôi đang giải quyết vấn đề kế thừa chính phủ quân sự, và chúng tôi rất thận trọng. Quá trình chuyển hóa rất phức tạp; phải suy tính rất nhiều vì không bao giờ biết chuyện gì sẽ xảy ra vào ngày hôm sau. Phải có quan điểm tổng quát, nhưng phải luôn luôn nghĩ tới mục tiêu chính. Mục tiêu chính là giành được quyền lực, nhưng bằng cách nào? Trong những điều kiện nào? Khi nào? Điều kiện tiên quyết để có thể cai trị là gì? Liên minh với ai thì được chấp nhận, với ai thì không được chấp nhận? Và biện pháp thực hiện điều đó? Không bao giờ có sự chắc chắn nào hết. Trong trường hợp của chúng tôi, Tancredo chết và Sarney đã trở thành tổng thống dân sự đầu tiên, mà ông lại từng là một trong những nhà lãnh đạo chính trị của chế độ độc tài quân sự! Tình hình cực kỳ tế nhị và tiếp tục như thế trong suốt thời gian Sarney tại chức; Sarney thừa kế nội các do Tancredo cùng với Ulysses tạo ra. Ulysses là một nhà lãnh đạo lớn, còn Sarney thì không có đủ sức mạnh trong quốc hội, chí ít là ở đầu nhiệm kỳ.
Những quyết định quan trọng nhất mà Sarney đã làm, và làm sao duy trì được sự gắn kết của các lực lượng dân chủ?
Một lần, sau khi Sarney đã là tổng thống, Ulysses tổ chức một bữa ăn tối tại nhà ông với tất cả các vị bộ trưởng, chỉ thiếu bộ trưởng tài chính, Francisco Dornelles, vì ông này không phải đảng viên PMDB. Tôi tới nhà Dornelles để giải thích cho ông ta biết rằng bữa ăn tối không phải là cuộc họp nhằm chống lại ông. Ulysses mời tất cả các vị bộ trưởng tới, do đó, đây gần như là thách thức đối với Sarney. Có lúc Sarney không biết phải làm gì và trong khi Tancredo còn sống thì đấy là điều rất khó khăn. Sarney là – nhưng đồng thời chưa là – người nắm quyền, và đến lúc chúng tôi nói ông phải bắt đầu cai trị, bởi vì Tancredo không khỏi được. Nhưng ông lại do dự, và chúng tôi sợ. Sarney là người rất khéo léo. Tôi từ chức lãnh đạo hữu danh vô thực ở quốc hội, nhưng Sarney đề nghị tôi không từ chức vì dường như ông sẽ mất người, trước hết là vì ông cần người để đối thoại với cánh tả. Vì vậy, tôi ở lại làm người lãnh đạo của Sarney trong quốc hội trong vòng một năm. Đấy là giai đoạn rất khó khăn do những căng thẳng về chính trị giữa Sarney và Ulysses. Mỗi lần xảy ra khủng hoảng là Sarney lại tìm kiếm sự hỗ trợ của quân đội. Ông là người rất gần gũi với quân đội; ông biết rõ các tướng lĩnh.
Hiến pháp và hệ thống chính phủ mới
Bị áp lực, nhưng Sarney đã tự mình triệu tập Hội đồng Lập hiến. Đây là một trong những đòi hỏi của của phe đối lập: Thực sự thay đổi chế độ cũ và thay đổi hiến pháp do quân đội ban hành. Đó là thời điểm cực kì quan trọng đối với đất nước. Hội đồng Lập hiến tồn tại trong gần hai năm, từ đầu năm 1987 đến cuối năm 1988. Hầu hết phe đối lập cũ muốn có bản hiến pháp thực sự mang tính dân chủ xã hội, trong đó, tất cả các quyền và quyền tự do sẽ được đảm bảo và quyền xã hội sẽ được mở rộng. Sarney lập ra một nhóm bảo thủ hơn.
Trong số các vấn đề chính trị, các chủ đề lớn được đem ra tranh luận là có nên thay hệ thống tổng thống bằng hệ thống đại nghị hay không. Một số thành viên của PMDB là những người ủng hộ hệ thống đại nghị - đấy là những người mà sau này đứng ra thành lập đảng PSDB. Ulysses cũng như Sarney, tương tự như giới quân sự, là những người ủng hộ hệ thống tổng thống; tôi phải tìm họ để giải thích cách hoạt động của hệ thống đại nghị. (Tôi còn nhớ cuộc tranh luận gay go với bộ trưởng Lục quân). Cuộc thảo luận về hệ thống của chính phủ kết hợp với cuộc tranh luận về thời hạn cầm quyền của Sarney. Thời hạn kế thừa từ bản hiến pháp trước là sáu năm. Sarney không muốn quốc hội thay đổi thời gian cầm quyền của ông, nhưng hầu hết phe đối lập bảo vệ nhiệm kì bốn năm. Sarney đủ sức tập hợp đủ số người ủng hộ bảo đảm nhiệm kì kéo dài năm năm. Bộ trưởng thông tin trong nội các của ông, Antonio Carlos Magalhaes, có vai trò quan trọng trong công việc này. Tương tự như Sarney, Antonio Carlos Magalhaes, chúng tôi gọi là Magalhaes là nhân vật chính trị lớn thời chế độ quân sự.
Vai trò của giới quân nhân trong công cuộc cải cách hiến pháp
Tôi tin rằng giới quân nhân là những người biết suy nghĩ; họ đã bổ nhiệm một số cố vấn về quá trình cải cách hiến pháp. Đọc bản hiến pháp ta chỉ thấy có một điểm nói về quân đội mà thôi. Đã diễn ra cuộc thảo luận kéo dài nhằm xác định liệu các lực lượng vũ trang nên được giới hạn trong công tác bảo vệ lãnh thổ và biên giới quốc gia, hay còn có vai trò trong việc duy trì trật tự ở trong nước. Văn bản được Hội đồng Lập hiến thông qua qui định rằng, các lực lượng vũ trang có trách nhiệm bảo vệ đất nước và các cơ quan được thành lập phù hợp với hiến pháp và có trách nhiệm, theo yêu cầu của các cơ quan này, duy trì trật tự nội bộ. Ví dụ, chỉ được tuyên bố tình trạnh bị bao vây, theo yêu cầu của tổng thống, sau khi đã tham khảo ý kiến của hội đồng cộng hòa, và được sự uỷ quyền của Quốc hội.
Các quyền chính trị và xã hội
Chúng tôi có tiến bộ cả trong lĩnh vực các quyền chính trị lẫn quyền xã hội. Kết quả là đã có một bản hiến pháp tốt, mặc dù từ quan điểm kinh tế thì nó có tính dân tộc và dựa vào nhà nước và do đó không quan tâm đến việc giữ cho ngân sách cân đối. Đã xảy ra nhiều chuyện điên rồ trong Hội đồng Lập hiến; người ta đã lập ra nhiều khoản trợ cấp mà không có cơ sở để chi trả. Do đó, hiến pháp đã được tu chính khi tôi lên cầm quyền. Nếu không có những tu chính như thế thì không thể ổn định hay hiện đại hoá được nền kinh tế. Dù nói thế nào thì bản hiến pháp năm 1988 cũng thể hiện những thành tích về chính trị và xã hội. Tôi không biết nếu Tancredo làm tổng thống thì có thể tạo ra được bản hiến pháp có tính dân chủ xã hội như thế hay không. Ông ta là người bảo thủ hơn. Sarney cũng thế, nhưng ông không có sức mạnh chính trị đủ sức đối đầu với phần lớn phe đối lập cũ trong những cố gắng của mình nhằm “giải quyết món nợ về mặt xã hội” của chế độ quân sự.
Cuộc bầu cử tổng thống trực tiếp đầu tiên
Các bầu cử trực tiếp tổng thống đầu tiên của nước cộng hòa được tổ chức năm 1989, trong điều kiện kinh tế khá bất lợi đối với chính phủ. Trong giai đoạn cuối của chính quyền Sarney, chúng tôi đã tiến đến bờ vực của nạn lạm phát phi mã. Chính phủ đã rất suy yếu về chính trị. Lula và đảng PT; Brizola và đảng PDT đứng lên chống lại chính phủ; những người còn lại trong đảng PMDB thì ủng hộ chính phủ. Franco Montoro, Mário Covas, José Serra (người được bầu làm hạ nghị sĩ năm 1986) và tôi đã bỏ PMDB cách đấy một năm để thành lập đảng PSDB.
Ngay khi còn là thành viên PMDB, chúng tôi đã chiến đấu cho chế độ đại nghị và nhiệm kì của Sarney chỉ kéo dài bốn năm mà thôi. Chúng tôi thấy PMDB ngày càng trở thành lực lượng chính trị truyền thống, ngày càng gần gũi hơn với nhà nước. Với PSDB, chúng tôi đặt mục tiêu là xây dựng đảng dân chủ xã hội kiểu khác. Serra và tôi đặc biệt quan tâm đến sự cô lập của đất nước trong quan hệ với những thay đổi trong nền kinh tế quốc tế. Vì thế, chúng tôi soạn một văn kiện có vai trò quan trọng trong chiến dịch của Mário Covas, ứng cử viên của chúng tôi trong cuộc bầu cử năm 1989. Văn kiện có tên là “Cú sốc tư bản chủ nghĩa” (The Capitalist Shock) và ủng hộ cho quan điểm nói rằng Brazil phải hợp nhất với thế giới.
Tuy nhiên, Collor de Melo đã thắng trong cuộc bầu cử này. Ông đã thắng trong vòng bầu cử thứ hai, ông đánh bại Lula. Đảng PSDB quyết định sẽ ủng hộ PT trong vòng bầu cử thứ hai. Tôi được giao nhiệm vụ đàm phán với PT. Họ đưa ra 13 điểm chính. Người đối thoại với tôi là Jose Dirceu và Plinio Sampaio, tôi biết rõ hai ông này. Họ ủng hộ cải cách ruộng đất không có sự can thiệp trực tiếp của chính phủ và đề nghị rằng báo chí cần được hội đồng biên tập viên định hướng. Đây là những đề nghị cấp tiến đến mức tôi quyết định thảo luận với nhà lãnh đạo cộng sản cũ là Joao Amazonas, chủ tịch của Đảng Cộng sản Brazil (Partido Comunista do Brasil) và là thành viên của liên minh ủng hộ Lula, để nói với ông rằng đây là cuộc bầu cử, chứ không phải là cuộc cách mạng. Chúng tôi không thỏa thuận được với nhau, vì vậy, đảng tôi quyết định bầu cho Lula, mặc dù chúng tôi không cam kết với chương trình này. Thật hồi hộp vì, nếu Lula thắng thì chúng tôi sẽ có chân trong thành phần chính phủ. Nhưng Collor đã thắng. Tất cả chúng tôi đều rất may mắn vì kết quả đó; Lula đã nói như vậy nhiều lần: May mà ông thua vì ông không thể cầm quyền với những tư tưởng mà ông có trong đầu vào lúc đó.
Hóa ra, đề tài chung trong quá trình chuyển hóa là có nhiều may mắn và bất ngờ?
Vâng. Khi những điều bất khả kháng ập đến, thì sẽ có những bất ngờ. Tôi luôn luôn nói như thế. Chính trị, tương tự như cuộc đời, là như thế. Collor là người rất thú vị. Ông đã từng tìm cách trở thành ứng cử viên phó tổng thống cho Covas. Bây giờ ông là người thận trọng hơn, nhưng lúc đó ông đã có những sai lầm rất lớn. Mới đây, Collor, hiện là thượng nghị sĩ, đã khuyên tổng thống hiện nay của chúng tôi, Dilma Rousseff: “Đứng làm những việc tôi đã làm, tôi coi thường Quốc hội”.
Collor muốn cai trị mà không cần các đảng phái. Ông đã đụng độ với người em trai, giữa năm 1992 ông này đã tung ra những cáo buộc nghiêm trọng về tham nhũng trong chính phủ. Tại quốc hội, một ủy ban được thành lập để xem xét những cáo buộc này. PT giữ vai trò đầu tầu trong ủy ban đó. Báo chí chống lại ông và vì không được sự ủng hộ của quốc hội, Collor bị đem ra luận tội. Đảng PSDB bỏ phiếu tán thành luận tội. Tôi không mong muốn kết quả như thế. Trong thời gian đó, có lần tôi đã nói rằng luận tội chẳng khác gì sử dụng bom nguyên tử: Tốt nhất là không sử dụng. Nhưng tình hình của Collor trở nên quá bất ổn.
Collor còn quá trẻ. Ông mở cửa kinh tế một cách vội vã và tiến hành một số thay đổi lớn mà không có bất kì cuộc thương lượng nào. Tất cả chúng tôi đều phê phán cách làm đó, nhưng tôi tin rằng nếu không có những thay đổi như thế thì nền kinh tế Brazil sẽ không bao giờ mở cửa ra với thế giới. Khi tôi làm bộ trưởng tài chính, sau khi Collor mất chức, các nhà công nghiệp và các nhà kinh tế học của Sao Paulo ủng hộ mạnh mẽ những biện pháp can thiệp nhiều hơn của nhà nước, bảo hộ nhiều hơn, trợ cấp nhiều hơn. Đấy là nền văn hóa giữ thế thượng phong, nhưng đấy không phải là hiện đại hóa. Collor đã tiến hành thay đổi và dỡ bỏ hoàn toàn bộ máy hành chính công. Ông có tư tưởng đầy sáng tạo, nhưng hành động lại không có ý nghĩa vì không tính đến những điều kiện thực tế. Thay đổi không xảy ra bằng những cú đột phá bất thình lình, phải tích lũy lực lượng thì mới giành được chiến thắng. Collor muốn thay đổi đất nước một cách đột ngột, nhưng không thành công. Ông đã đánh mất lực lượng ủng hộ trong quốc hội và bị bãi chức.
Vì vậy, Itamar Franco, phó tổng thống của Collor, trở thành tổng thống (1992-1995). Ông là nhân vật khác thường, ông từng là đối thủ của Tancredo ở bang Minas Gerais. Ông không muốn bầu cho Tancredo trong cử tri đoàn. Ông cũng từng là thành viên của PMDB nhưng không theo đường lối của đảng này; ông bầu theo cách của mình, và khi tất cả chúng tôi đều nghĩ rằng ông sẽ ủng hộ Covas thì ông lại ủng hộ Collor. Tuy nhiên, ông là người tốt và đã thành lập được chính phủ liên minh. Các đảng PFL và PT vẫn nằm bên phía đối lập. Một người phụ nữ nổi bật thuộc đảng PT đồng ý trở thành bộ trưởng, và vì thế mà bà bị khai trừ.
Itamar Franco, một người có quan điểm dân tộc chủ nghĩa, lúc đó đang ngưỡng mộ tôi và gọi tôi tới văn phòng của ông khi đã biết rõ là hạ viện sẽ tiến hành luận tội Collor. Kết quả là, tổng thống bị bãi chức và phó tổng thống lên thay. Itamar sợ Sao Paulo vì ông là người xuất thân từ bang Minas, và trong cuộc nói chuyện, ông hỏi tôi dân Sao Paulo nghĩ ông là người như thế nào. Tôi nói với ông rằng tôi nghĩ ông là người bướng bỉnh, nhất quán về tư tưởng, và rằng lúc nào ông cũng muốn được tham gia vào tất cả mọi việc. Ông hỏi tôi liệu tôi có nghĩ ông là người ngốc nghếch hay không. Tôi nói không, nhưng tôi nghĩ rằng ông là người bướng bỉnh. Chúng tôi bắt đầu câu chuyện như thế, và khi chúng tôi kết thúc, ông cho tôi quyền trả lời phỏng vấn một tờ báo ở Sao Paulo để thể hiện ý tưởng rằng ông sẽ là một vị tổng thống biết rõ điều hơn lẽ thiệt.
Đối phó với khủng hoảng kinh tế
Vị tổng thống đầu tiên bị chết, còn người thứ hai thì bị luận tội, chắc chắn là rất khó ổn định tình hình kinh tế và củng cố quá trình chuyển hóa. Vị tổng thống mới giải quyết các vấn đề kinh tế như thế nào?
Trước hết, ông bổ nhiệm tôi làm bộ trưởng ngoại giao và bảy tháng sau thì bổ nhiệm làm bộ trưởng tài chính – bộ trưởng tài chính thứ tư trong vòng bảy tháng. Tình hình khá phức tạp; lạm phát gia tăng, còn chính phủ thì không tìm được cách giải quyết. Mọi người lại hi vọng, khi tôi nhậm chức bộ trưởng tài chính. Tôi biết và nói rằng chống lạm phát là ưu tiên, nhưng tôi không muốn áp dụng gói bình ổn mới cùng với kiểm soát giá cả, đóng băng tiền lương ..v.v.. Chúng tôi phải xây dựng gói chính sách khác.
Tôi lập ra một nhóm nhỏ các nhà kinh tế học gần gũi với tôi. Nhiều người hoài nghi rằng chúng tôi sẽ không thể làm gì, ngoài việc kiềm chế tình hình. Họ không muốn lặp lại “sai lầm của quá khứ”, và họ sợ rằng Itamar sẽ không thể cưỡng lại sự cám dỗ, ông sẽ áp dụng liệu pháp sốc mới trong cuộc chiến chống lạm phát. Ngoài ra, Quốc hội cũng vừa trải qua cuộc khủng hoảng, vì giữa năm 1993 đã xảy ra vụ bê bối trong ủy ban ngân sách đầy quyền lực, liên quan tới nhiều đảng và nhiều nghị sĩ. Ví dụ, làm sao thông qua được những biện pháp điều chỉnh về mặt tài chính mà không có sự ủng hộ mạnh mẽ của tổng thống và của các nhà lãnh đạo đảng, những người đang lo phòng thủ trước vụ bê bối mà không ai biết nó sẽ kết thúc như thế nào (hay lúc nào)?
Tôi tìm cách thuyết phục các nhà kinh tế học rằng cuộc khủng hoảng đã cho chúng tôi cơ hội thông qua chương trình nghị sự với các biện pháp mà trong những tình huống bình thường thì quốc hội sẽ không chấp nhận. Nói về Itamar, ông là một chính trị gia khó lường, nhưng chúng tôi từng là đồng nghiệp ở thượng viện, chúng tôi khá hợp nhau, tôi biết tính ông và cách suy nghĩ của ông, còn ông thì tin tôi. Tôi cũng được đảng của mình ủng hộ, đặc biệt là Mário Covas và Tasso Jereissati, và đấy là nhân tố quyết định để thuyết phục các nhà kinh tế học làm việc với tôi về chương trình bình ổn kinh tế. Trong bối cảnh đó, đây không phải là ảo tưởng.
Tôi nhậm chức vào tháng 5, nhưng mãi đến tháng 12 năm 1993 chúng tôi mới công bố trước quốc dân chương trình điều chỉnh tài chính khẩn cấp và cơ chế tiền tệ đầy sáng tạo để chuyển sang đồng tiền mới. Điều sáng tạo là, đây là lần đầu tiên, có các nỗ lực ổn định nền kinh tế mà không có sự bất ngờ nào và hoàn toàn minh bạch về biện pháp thực hiện. Thành công phụ thuộc vào việc quốc hội thông qua chương trình điều chỉnh tài chính và sự tham gia một cách tự nguyện của các chủ thể kinh tế vào cơ chế tiền tệ, tức là những biện pháp sẽ dẫn tới việc phát hành đồng tiền mới.
Từ tháng 5 đến tháng 12 đã xảy ra rất nhiều vấn đề. Lạm pháp vẫn cao và có xu hướng gia tăng. Áp lực cả trong chính phủ lẫn từ xã hội đòi bộ Tài chính phải hành động ngay lập tức cũng luôn luôn gia tăng. Itamar tức giận trước một vấn đề khá nhỏ với thống đốc Ngân hàng Trung ương và bãi chức ông này. Tôi lợi dụng dịp đó để đưa thêm người vào nhóm của mình, và tôi đã thuyết phục được tổng thống bổ nhiệm Pedro Malan làm thống đốc Ngân hàng Trung ương. Itamar cũng gặp vấn đề với các chủ tịch ngân hàng Ngân hàng phát triển kinh tế và xã hội quốc gia (BNDES) và tôi đã thuyết phục ông bổ nhiệm Persio Arida thay ông này.
Persio được coi là một trong những người “cha” của Kế hoạch Cruzado, làm cho chính quyền Sarney thu phục được lòng dân trong suốt một năm, nhưng cuối cùng đã thất bại. Itamar có thể đã thấy Persio chính là tín hiệu là tôi có thể đã sẵn sàng tung ra kế hoạch tương tự như Kế hoạch Cruzado. Đó là lý do vì sao ông không phản đối việc bổ nhiệm Persio làm chủ tịch BNDES. Lúc đó tôi không biết rằng Persio kịch liệt phản đối Kế hoạch Cruzado, nhưng ông và Andre Lara Resende cùng với Edmar Bacha sẽ có vai trò quan trọng trong việc xây dựng lí thuyết cho cơ chế chuyển đổi sang đồng tiền được coi là thực tế. Tôi có trách nhiệm nói chuyện với quốc dân, để giải thích những việc chúng tôi dự định làm, để thuyết phục Itamar rằng có rủi ro, nhưng chúng tôi đang đi đúng hướng, và để đàm phán việc thông qua những biện pháp điều chỉnh tài chính với các đảng phái.
Chúng tôi thông qua các biện pháp điều chỉnh tài chính vào tháng 2, rồi chuyển sang việc đổi tiền. Chúng tôi chưa quyết định thời gian. Còn bỏ ngỏ và phụ thuộc vào mức độ tin tưởng của các chủ thể kinh tế vào đồng tiền Unidade Real de Valor (Unidade Real de Valor, tiếng Bồ Đào Nha: Đơn vị giá trị thực), -một loại tiền tệ (song hành với đồng cruzeiro, mà không phụ thuộc vào mức độ lạm phát của cruzeiro, với tỉ lệ lạm phát hơn 1.200% một năm – ND) không bị lạm phát. Giá hàng hóa và dịch vụ được tính theo URV nhưng thanh toán bằng cruzeiro, đồng tiền đang bị lạm phát, giá trị của cruzeiro được chúng tôi điều chỉnh mỗi ngày. Chúng tôi loại bỏ được lạm phát bằng những biện pháp riêng của mình. Nhưng chúng tôi không biết việc chấp nhận URV sẽ kéo dài bao lâu, và theo luật thì tôi phải rời khỏi bộ vào tháng 4 để trở lại văn phòng. Tôi sợ rằng việc mình đi sớm có thể làm một số người mất tin tưởng vào sự thành công của chương trình bình ổn.
Trong quá trình này, đã bắt đầu hình thành liên minh giữa PSDB và PFL, và liên mình sẽ có vai trò quan trọng nhất trong việc tôi ứng cử chức tổng thống. Itamar muốn tôi trở thành ứng cử viên. Ban đầu tôi rất phản đối. Nhưng ông nói đúng. Nếu chương trình bị bỏ rơi về mặt chính trị, thì đấy sẽ là tai họa cho toàn bộ cố gắng nhằm ổn định kinh tế. Lula, được mọi người yêu thích trong tất cả các cuộc thăm dò, phản đối trực diện chương trình này. Ông, đảng của ông, và công đoàn liên kết với CUT (Trung tâm công nhân hợp nhất) gọi Kế hoạch Thực (Real Plan) một cách giễu cợt là “bịp bợm mùa bầu cử”. Đây là một sai lầm nghiêm trọng, họ phải trả giá và bị thua trong kì bầu cử tổng thống vào tháng 10 năm 1994.
Các quan chức dân sự kiểm soát lực lượng vũ trang
Ông xử lí mối quan hệ với quân đội trước và trong giai đoạn cầm quyền như thế nào để buộc họ chấp hành chỉ đạo của các cơ quan dân sự?
Tôi có quan hệ tốt với các bộ trưởng thuộc lực lượng võ trang dưới thời Itamar. Xin nhắc đến một tình tiết để chứng tỏ điều này. Trong ngày hội vào tháng 2 năm 1994, Itamar đi Rio để tham dự cuộc diễu hành của trường dạy múa samba. Một nghị sĩ đê tiện đã bố trí một phụ nữ mặc sắc phục nữ cảnh sát một cách khêu gợi đi vào lô dành cho tổng thống, khi ông đang ngồi trong đó để xem chương trình. Đấy là âm mưu được sắp đặt trước. Các nhiếp ảnh gia, ngồi bên dưới lô dành cho tổng thống, chụp được hình ảnh người phụ nữ bên cạnh tổng thống. Itamar yêu bà ta. Ngày hôm sau ông chuẩn bị gọi điện cho bà ta ngay trước ống kính truyền hình.
Tôi ở Brasilia, còn tướng Cahim, bộ trưởng trong chính phủ, tìm tôi và nói rằng ông là đại diện cho các bạn đồng ngũ trong các lực lượng vũ trang. Họ cảm thấy bị xúc phạm trước hành vi của tổng thống, và ông ta nói với tôi rằng ông và các bạn đồng ngũ ủng hộ việc quốc hội thay thế. Họ nghĩ rằng có biện pháp hợp pháp để thay thế tổng thống bằng thượng nghị sĩ Jarbas Passarinho, một người đáng kính, một cựu đại tá quân đội và là người bảo thủ. Họ muốn biết tôi có đồng ý tiếp tục làm việc trong tình hình mới hay không. Tôi đã buộc họ dừng lại và không bao giờ nói với Itamar kế hoạch hạ bệ ông do các bộ trưởng quân sự đưa ra. Lúc đó, quân đội đã không còn sức mạnh như dưới thời Sarney, tức là lúc khởi đầu của quá trình trở về với chế độ dân chủ. Tôi đề nghị với Itamar rằng ông nên tìm hiểu thêm về những chuyện đang xảy ra trong giới quân nhân, rằng mấy thứ xấu xa do bức ảnh và cú điện thoại, cần phải điều tra xem liệu các sĩ quan quân đội có tham gia vào việc âm mưu đưa ông tới Rio hay không..v..v.. Ông đã không làm những việc đó, nhưng cũng không từ chức. Ông là một người tốt; cuối cùng, mọi người đều biết là ông ngây thơ, và ông đã không hành động với bất kì động cơ tiêu cực nào.
Khi được bầu làm tổng thống nước cộng hòa, tôi quyết định thành lập bộ Quốc phòng. Tôi gọi cho tất cả các sĩ quan quân đội mà tôi sẽ bổ nhiệm làm bộ trưởng Hải quân, bộ trưởng Không quân, bộ trưởng Lục quân, và chủ tịch Hội đồng Tham mưu trưởng liên quân, và nói với họ rằng tôi sẽ bổ nhiệm họ với điều kiện là họ phải hợp tác trong quá trình thành lập bộ Quốc phòng mới. Phải mất ba năm mới thành lập xong bộ này. Chỉ có một vấn đề cần phải giải quyết. Đấy là, tôi tin là thế, vào năm 1998, giai đoạn cuối cùng của quá trình thành lập bộ Quốc phòng, khi tôi đang cố gắng lựa chọn những người chỉ huy các bộ phận của lực lượng vũ trang sẽ phục vụ dưới quyền bộ trưởng quốc phòng, nhưng lại là quan chức dân sự. Bộ trưởng Hải quân xin nói chuyện với tôi tại dinh tổng thống; ông ta mặc quân phục. Ông muốn trở thành người đứng đầu lực lượng Hải quân. Tôi nói với ông ta rằng tôi không bổ nhiệm ông ta, mà muốn bổ nhiệm nhân vật số hai trong Hải quân, đô đốc Lacerda. Tướng Alberto Cardoso, một bộ trưởng trong nội các quân sự, thay mặt tôi mời Lacerda, nhưng ông ta nói rằng sẽ không nhận chức vụ này. Vì vậy, tôi gọi cho Cardoso một lần nữa và nói với ông ta: “Chúng ta sẽ bổ nhiệm vị đô đốc thứ ba, Sergio Chagastelles. Nếu ông ta cũng nói “không”, thì sẽ bỏ tù cả ba người, bởi vì đấy là bất phục tùng, chứ không phải là từ chối”. Ứng cử viên thứ ba chấp nhận chức vụ này.
Năm 1999, sau khi bộ Quốc phòng được thành lập, tôi đã buộc người chỉ huy lực lượng Không quân, thiếu tướng Walter Brauer, từ chức vì những lời tuyên bố với hãng truyền hình Globo làm cho người ta có ấn tượng rằng ông ta đang xem xét lại thẩm quyền của Bộ trưởng quốc phòng, nhưng lại là quan chức dân sự. Tôi gọi cho người đứng đầu bộ chỉ huy cao cấp của lực lượng không quân và nói với ông ta rằng tôi đã bãi chức Brauer vì những điều ông ta nói với các phóng viên. Không có gì xảy ra cả, các sĩ quan đang tại ngũ không có phản ứng gì. Một vài sĩ quan hồi hưu đã tổ chức buổi tiệc và mời ông này, như một cách thể hiện thái độ ủng hộ.
[1] Trao cho tổng thống quyền buộc các cơ quan lập pháp cấp quốc gia và cấp bang nghỉ họp, để nắm quyền lập pháp, quyền kiểm duyệt báo chí, và đình chỉ habeas corpus (lệnh buộc phải đem người bị bắt ra toà để xem nhà nước có quyền giam giữ người ấy hay không) đối với những tội “có động cơ chính trị”.