Danh ngôn

Trong mọi cộng đồng, chúng ta cần một nhóm thiên thần gây rối.

We need, in every community, a group of angelic troublemakers.

(Bayard Rustin – trích bài phát biểu tại New York City 1963)

Trong mọi trường hợp, chắc chắn rằng sự thiếu hiểu biết, đi kèm với quyền lực, là kẻ thù tàn bạo nhất có thể có của công lý.

It is certain, in any case, that ignorance, allied with power, is the most ferocious enemy justice can have.

(James Baldwin - No Name in the Street 1972)

Các cuộc cách mạng và các cá nhân có thể bị giết hại, nhưng bạn không thể giết chết các ý tưởng.

While revolutionaries and individuals can be murdered, you cannot kill ideas.

(Thomas Sankara, một tuần trước khi bị ám sát, 1987)

Không có cảm giác nào cô đơn hơn việc bị chính đất nước mình trục xuất.

There's not a more lonely feeling than to be banished by my own country.

(Kiyo Sato – Kiyo’s Story 2009)

Ban Biên tập

Địa chỉ liên lạc:

1. Thơ

tho.vanviet.vd@gmail.com

2. Văn

vanviet.van14@gmail.com

3. Nghiên cứu Phê Bình

vanviet.ncpb@gmail.com

4. Vấn đề hôm nay

vanviet.vdhn1@gmail.com

5. Thư bạn đọc

vanviet.tbd14@gmail.com

6. Tư liệu

vanviet.tulieu@gmail.com

7. Văn học Miền Nam 54-75

vanhocmiennam5475@gmail.com

Tra cứu theo tên tác giả

Thứ Hai, 10 tháng 2, 2020

Văn Hải ngoại sau 1975 (211): Mùa biển động (12)

Tiểu thuyết của Nguyễn Mộng Giác


Image result for "Mùa biển động"



MÙA BIỂN ĐỘNG TẬP 2: BÃO NỔI

Chương 22

Sau hơn một tuần nằm nhà để chờ thời cuộc lắng dịu, sáng nay ông Thanh Tuyến, Lãng, và Mân trở vào Đà nẵng. Mân dùng chiếc xe Jeep của mình chở hai người bạn thầu, vì theo ý Mân, dùng chiếc Toyota trắng sang trọng của ông Thanh Tuyến trong tình thế này thật không thức thời. Chưa nói những nguy hiểm bất ngờ khác. Ông Thanh Tuyến thấy ý kiến của Mân hợp lý, nên bằng lòng.

Mân còn bảo Lãng nên mặc đồ lính như mình. Họ hẹn nhau ở nhà ông Thanh Tuyến lúc sáu giờ sáng. Bà Thanh Tuyến dậy sớm để sửa soạn bữa ăn sáng cho ba người. Sau khi bưng ba dĩa trứng rán và bánh mì phết bơ lên trịnh trọng đặt trước mặt Mân trước, rồi tới Lãng, cuối cùng đặt trước mặt chồng, bà Thanh Tuyến ngồi ghé lên chiếc ghế đối diện Lãng hỏi nhỏ:

– Mấy bữa nay Nam nó có đau yếu gì không, cháu?

Lãng đáp:

– Thưa bác chị ấy vẫn thường.

– Sao không thấy ghé lại đây?

Lãng cười:

– Bữa nay chị ấy hăng lắm, bác! Sáng nào anh Tường cũng xuống chở chị ấy đi tới tối mịt mới về. Bác không dùng sáng à?

Bà Thanh Tuyến trả lời chung cho cả Mân:

– Thưa không, mời anh tự nhiên. Buổi sáng tôi chỉ uống một cốc Cacao thôi. Nhưng phải tới chín giờ cơ!

Mân bưng tách cà phê sữa lên uống một ngụm, khen lấy lòng bà chủ:

– Chị cho uống cà phê Việt nam để bù những lúc chúng tôi phải uống cà phê chua lè nhạt thếch của Mỹ. Riết rồi cũng quen đi, bây giờ uống thức uống của tụi Mỹ thấy không đến nỗi tệ lắm.

Mân ngừng lại, liếc về phía cầu thang lên lầu, hỏi bà Thanh Tuyến:

– Anh Tường đâu không mời xuống xơi sáng luôn, hở chị?

Ông Thanh Tuyến đáp. thay vợ:

– Nó có về đâu. Bấy lâu nay ăn ngủ luôn bên đó!

Bà Thanh Tuyến sợ chưa rõ, liếc nhìn Lãng, tiếp lời chồng:

– Bên khu đại học, đó anh!

Mân yên tâm hơn quay về phía ông Thanh Tuyến nói:

– Tình hình có vẻ găng lắm! Nhất là vụ tướng Chiểu bị sỉ nhục. Tôi nghe anh em bên Tiểu khu nói Sài gòn họ tức giận lắm.

Ông Thanh Tuyến nhận ra trong câu nói bình thường của Mân, hình như có giọng trách móc, nếu không phải là lời cảnh cáo. Ông cúi xuống ăn, không đáp ngay. Trước mặt vợ và Lãng, ông không muốn nói với Mân rằng ông không hề dính dáng gì đến công việc Tường làm. Nói như vậy, theo ông nghĩ, là tự hạ quá đáng trước mặt một người bạn thầu trẻ tuổi và ít vốn hơn ông, mặc dù nhờ Mân mà ông phất mạnh trong hơn một năm nay. Ông uống cạn tách cà phê, rồi nói với Mân:

– Tình hình còn gay go, chúng ta vào liệu đã tiếp tục việc làm ăn được chưa?

Mân đáp:

– Chắc chắn là chưa. Nhưng phải vào ngay. Mật ít mồi nhiều, tụi mình ở ngoài này lâu, chắc chắn phe chúng nó sẽ tìm cách giật hết mối thầu. Hồi hôm, có tin ra là…

Ông Thanh Tuyến nháy mắt ra hiệu cho Mân. Mân hiểu, liếc về phía bà Thanh Tuyến, nói lạc đi một chút:

– Có tin cho biết là Mỹ đã mở cửa trại trở lại. Chắc là rác ngập đến cổ rồi, chúng nó chịu không nỗi. Chị biết không, rác Mỹ hôi cái mùi quái dị lắm, mình sống nghèo nàn quen chịu còn không được huống chi chúng nó.

Lãng hỏi Mân:

– Sao hôm qua anh bảo tụi Mỹ trí súng ở cửa các doanh trại không cho ai ra vào gì cả!

Bà Thanh Tuyến hết nhìn chồng đến nhìn Mân, ngờ ngợ, có cái gì không ổn mà chồng giấu mình. Bà sợ hãi hỏi nhỏ:

– Còn rắc rối quá thế, sao không chờ yên hãy hay?

Mân cười lớn, nói với bà Thanh Tuyến:

– Chị đừng lo trời sập! Lính Mỹ đóng dày chung quanh Đà nẵng, họ đã đổ biết bao nhiêu tiền của vào đây, họ còn lo gấp mấy mình nữa. Các ông tướng ông tá Việt nam kình cãi nhau, họ để mặc, để xem anh nào khá thì giúp. Thế thôi. Cũng như đá gà để thử sức rồi còn lựa gà đi dự giải vô địch thế giới vậy mà!

Quả nhiên cách giải thích đó khiến bà Thanh Tuyến bớt lo âu. Bà cười tự nhiên hơn, bảo Mân:

– Theo anh thì gà nào cứng cựa hơn?

Mân đặt cả muỗng nỉa xuống, ngồi ngay người nghiêm trang đáp:

– Ông Kỳ! Tôi cho là ông Kỳ cứng cựa hơn.

Cả Lãng lẫn ông Thanh Tuyến đều hỏi:

– Anh căn cứ vào đâu bảo vậy?

– Sao lại ông Kỳ?

Mân chậm rãi đáp:

– Đơn giản thôi. Vì ông Kỳ ưa đá gà. Người đã bỏ nhiều thì giờ để đá gà thì chắc chắn phải học được của gà nhiều cú đá ác.

Ông Thanh Tuyến cười lớn. Cười xong gật gù mãi. Bà Thanh Tuyến chau mày, nghĩ đến Tường. Bà nói:

– Anh nói thế sao được. Chuyện đời đâu có đơn giản như vậy. Với lại, sao tôi ghét những người chơi trò đá gà thế. Man dã độc ác thế nào! Ai đời người ta lấy dao chuốt cựa gà nhọn hoắt để gà mình đâm lòi cổ gà địch. Đã thế còn cột cả lưỡi lam vào chân gà. Mới đá hiệp đầu, máu đã đổ rồi. Chưa nói tới cảnh mỗi lần xong một hiệp, chủ gà kê miệng vào mỏ gà hút ra cả ngụm máu, nhổ toẹt xuống đất, rồi lại hút thêm ngụm khác. Vừa bẩn thỉu vừa dã man. Khiếp chết được!

Ông Thanh Tuyến sợ lời vợ làm mất lòng Mân, cố lấy giọng bông đùa:

– Này này. Tôi bắt quả tang mình ghiền đi xem đá gà rồi nhé! Không ghiền, tại sao biết kỹ như vậy?

Bà Thanh Tuyến chống chế:

– Đâu phải thế. Tại hồi em còn nhỏ, bố em mê đá gà lắm. Ði đâu bố em cũng dắt em theo cả. Mỗi lần gà đá bố em bị chết, em khóc cả ngày.

Ông Thanh Tuyến hỏi liền:

– Hồi xưa làm gì có dao lam mà cột vào chân gà?

Bà Thanh Tuyến cãi lại:

– Dao gì chẳng được. Không phải loại dao lam cạo râu bây giờ, mà là một lưỡi dao mỏng nhỏ hơn đầu đũa, bén lắm.

Vừa lúc đó, Quỳnh Như mắt nhắm mắt mở từ trong phòng ngủ đi ra. Thấy có khách ở phòng ăn, nàng khựng lại, sợ bị bắt gặp đang bù xù xốc xếch sau giấc ngủ vùi. Bà Thanh Tuyến quên hẳn chuyện đá gà, quay về phía con gái út âu yếm gọi:

– Quỳnh Như hả con! Lại đây điểm tâm với thầy và các anh!

Quỳnh Như bối rối nhìn Mân, hai bàn tay kéo thẳng vạt áo ngủ, lí nhí nói:

– Cảm ơn me. Con chưa kịp rửa mặt. Xin thầy me và các anh cứ tự nhiên.

Nói xong, Quỳnh Như nhận ra “một anh” khách là Lãng. Mắt nàng sáng lên tinh nghịch, định nói đùa một câu, nhưng thôi. Quỳnh như đi nhanh về phía phòng tắm. Bà Thanh Tuyến nhìn theo, hãnh diện nói với Mân:

– Cháu nó sắp xong cái tú tài hai đấy. Trông con nít thế, nhưng…

Lãng cười, nói với bà Thanh Tuyến:

– Không con nít đâu, bác ơi! Quỳnh Như mà lên nói trước micro, bác sợ ngay! Ăn nói đanh thép, đầu đuôi chặt chẽ lắm. Chị Nam cháu phục lăn, cứ bảo cháu: “Không biết tại sao ở nhà nó lanh chanh thế, mà ra trước công chúng, nó khác hẳn”.

Tiếng Quỳnh Như từ trong phòng tắm vọng ra:

– Nói xấu gì “chị” đó, ông mãnh!

Mọi người đều cười. Có lẽ nhờ thế mà cuộc khởi hành vào Ðà nẵng của ông Thanh Tuyến, Mân và Lãng bớt có vẻ bất thường, mạo hiểm. Bà Thanh Tuyến cũng yên tâm tiễn chồng ra xe.

***

Xe vừa qua khỏi An cựu, Mân đã hỏi ông Thanh Tuyến:

– Anh biết tin rồi chứ ?

Ông Thanh Tuyến nhìn gương chiếu hậu để e dè dò xét Lãng. Mân hiểu, nói ngay:

– Sẵn đây cũng nên cho chú Lãng biết luôn.

Ông Thanh Tuyến gật đầu, hỏi Mân:

– Anh đã nghĩ biện pháp gì chưa?

Mân ngạc nhiên đến nỗi vô tình đưa chân đạp thắng xe. Chiếc Jeep ngưng lại đột ngột, bánh xe cọ xát lên mặt đường kêu rít lên.

Lãng lo sợ hỏi:

– Cái gì thế?

Mân biết mình vô ý, sang số để bắt đầu cho xe chạy lại bình thường, rồi mới đáp:

– Không có gì đâu Lãng. Tại anh vô ý!

Rồi quay sang ông Thanh Tuyến, Mân hỏi:

– Anh hỏi biện pháp là thế nào? Chuyện các ông lớn sắp đánh nhau to, mình làm gì được mà biện với pháp!

Ông Thanh Tuyến trố mắt hỏi:

– Anh nói gì thế, không phải chuyện hồi hôm anh cho tôi hay…

Mân hiểu ra, vội cắt lời ông Thanh Tuyến:

– Không. Tin radio nói sáng sớm nay cơ. Tin ông Kỳ tuyên bố Đà nẵng coi như đã bị Việt cộng chiếm, và Trung ương sẽ gửi quân ra “giải phóng” Ðà nẵng.

Ông Thanh Tuyến kinh ngạc quay ngoắc về phía trái hỏi Mân:

– Thật à? Chính anh nghe radio hay nghe nói lại?

– Chính tôi nghe. Sau đó còn nghe cả đài VOA nữa.

– Đài VOA nói gì?

– Đài VOA không nói ẩu như ông Kỳ. Đại sứ Cabot Lodge tuyên bố mập mờ hơn, bảo rằng chính phủ Việt nam Cộng hòa cần tái lập kiểm soát tình hình tại Đà nẵng và Huế, và trong tình thế hỗn loạn này, chính phủ có thể sử dụng bất cứ phương cách nào, kể cả biện pháp quân sự.

Ông Thanh Tuyến hô hoán:

– Vậy là sắp đánh nhau to rồi. Đến khổ! Đã thế chúng ta còn vào đó làm gì nữa!

Mân nhấn mạnh ga cho xe chạy mau hơn, rồi đáp lời:

– Chính vì sắp đánh nhau to mà ta phải vào Đà nẵng. Mình phải nắm trước thời cơ, ngay khi thời cơ chưa tới. Anh thấy đấy, bây giờ hai năm rõ mười là người Mỹ ủng hộ ông Kỳ làm mạnh. Tụi chó đẻ toan giành mối thầu của mình dựa thế đại tá Y. Chúng cứ tưởng có ông đại tá và phe tranh đấu Phật giáo ở sau lưng là ăn chắc, nên mới bắn tiếng dọa dẫm như tôi nói với anh tối hôm qua. Chúng nó ngu như con bò. À này, anh biết chuyện này chưa?

– Chuyện gì nữa?

-Anh đừng hớt hải. Khổ quá. Làm ăn mà anh yếu bóng vía quá, đâu được. Đáng lý tôi nói với anh chuyện này từ lâu, nhưng chưa chắc chắn nên thôi. Bây giờ thì chắc đến tám mươi, à không, đến chín mươi phần trăm rồi. Ông Tôn Thất Đính nhà tôi sắp ra nắm quân đoàn Một.

Ông Thanh Tuyến nghe hết tin quan trọng này đến tin quan trọng khác, ngộp thở, ù tai, không dám tin ở mình nữa. Ông hỏi lại:

– Thật à? Chính tướng Đính tin ra hay lại tin đồn?

– Chính ông ấy điện thoại ra Huế cho ba tôi hay. Ông ấy còn hỏi thăm thật kỹ tình hình trên chùa, tình hình sinh viên, tình hình Ðà nẵng. Tôi được dịp nói rõ vụ Ðà nẵng cho “anh ấy” hay!

– Anh nói chuyện trực tiếp với tướng Đính sao?

Giọng Mân hãnh diện tự mãn:

– Chứ sao! Tôi nói rõ cả chuyện bác sĩ Mẫn đến từng ty sở hô hào chống chính phủ Sài gòn nữa.

– Rồi tướng Đính có nói gì không?

– Anh ấy chỉ ậm ừ, nói “thế à, thế à”. Xưa nay anh ấy vẫn khôn khéo kín đáo lắm, nhiều người lầm tưởng anh ấy phổi bò. Không đâu. Anh có nhớ vụ anh ấy lừa được cả ông Nhu không?

Cả Lãng lẫn ông Thanh Tuyến đều hỏi:

– Có chuyện đó thật à?

– Chuyện sờ sờ ai cũng biết, anh quên rồi! Vụ anh ấy giả vờ trung thành với anh em họ Ngô khéo đến nỗi ông Nhu đem giao cả quân trấn Sài gòn – Gia định cho anh ấy. Rồi ông tổng trấn trẻ tuổi họp báo chửi bới tụi phản loạn, hết dạ trung thành với Ngô Tổng thống. Hà hà! Không làm thế thì làm sao quật được một người mưu lược đa nghi như ông Nhu. Anh thấy đấy, năm 1963 anh ấy chỉ quật ngược một cái, là nhà Ngô đổ sụm.

Ông Thanh Tuyến yên tâm về chuyện đường xa, nên quay sang hỏi chuyện trước mặt:

– Trưa nay vào, chúng ta ghé đâu trước?

Mân hơi khựng, vì không được khoe khoang về ông tướng bà con nữa, nhưng cũng vui vẻ đáp:

– Không nên ghé chỗ cũ. À, sẵn đây tin cho Lãng biết là cách đây ba hôm, trong đó nhận được thư nặc danh dọa mình phải bỏ mấy chỗ thầu ấy, không nghe sẽ ăn lựu đạn.

Lãng cau mày, chồm người ra phía trước hỏi:

– Bọn nào lớn gan vậy?

Mân đáp chậm cho Lãng ở phía sau nghe rõ hơn:

– Có thể là bọn cũ dưới Thanh bình. Cũng có thể là bọn chợ Cồn. Vào tới nơi, ghé khách sạn tắm rửa xong, em lên ngay chợ Cồn liên lạc với anh em mình. Rán tìm hiểu cho đích xác bọn nào. Nếu vẫn là bọn cũ, mình không ngại.

Lãng nói:

– Em còn để quần áo đồ đạc ở chỗ cũ. Anh ghé lại cho em lấy được không? Cả mấy thứ lặt vặt của chị Quế nữa!

Mân suy nghĩ một lúc, mới đáp:

– Tốt hơn hết mình nên cẩn thận. Chúng nó gửi thư đến đó, thì chắc là biết rõ mình. Chúng nó đứng trong tối, mình ở ngoài sáng bất lợi hơn. Cần lấy gì tối hãy lại.

Lãng băn khoăn hỏi:

– Cả chiếc Honda 90 em cũng để ở đó nữa, làm sao lấy?

– Thì tìm chiếc khác. Nếu cần mua luôn một chiếc mới. Hôm nay chúng ta không đi chiếc Toyota của bác Thanh Tuyến, em đủ thấy anh cẩn thận đến mức nào.

Xe bắt đầu leo đèo Hải vân. Đường đèo vắng vẻ hơn thường lệ, nhất là xe từ Đà nẵng ra Huế từ trạm nghỉ trên đỉnh xuôi xuống Lăng cô dường như không có chiếc nào cả. Ông Thanh Tuyến nói với Mân:

– Hình như trong Ðà nẵng giới nghiêm thì phải.

Mân không nói gì, chú ý lái xe cẩn thận. Lãng muốn hỏi nhiều chuyện nữa, nhưng sợ Mân phân trí lúc phải lái xe trên đoạn đường nguy hiểm, nên ngồi im, ngửa người dựa hẳn vào lưng ghế. Biển xanh phía dưới. Trời xanh bên trên, nắng tháng tư bắt đầu oi ả. Sự vắng vẻ mênh mông của thiên nhiên như tăng thêm. Lãng buồn ngủ vì phải dậy sớm lên nhà ông Thanh Tuyến, bắt đầu ngủ gật.

Lãng không nghe hai người lớn trên xe nói với nhau điều gì nữa!

***

Tối hôm đó Lãng lo liên lạc với băng Sáu Thẹo trên chợ Cồn và băng Hùng Sùi bên Thanh bình. Ông Thanh Tuyến ngồi nói chuyện với Mân trong căn phòng rộng rãi của một khách sạn hạng sang của Ðà nẵng tới khuya. Chỉ còn có hai người, nên ông Thanh Tuyến bớt e ngại khi nói thật tâm sự của mình. Câu chuyện ban đầu loanh quanh lan man toàn việc làm ăn, rồi như mọi câu chuyện giữa đàn ông với nhau, cuối cùng họ quay sang chuyện chính trị.

Bao giờ cũng vậy, hễ có hai người đàn ông trở lên ngồi với nhau là không trước thì sau họ cũng bàn đến chính trị. Bất kể trình độ văn hóa họ thế nào, bất kể tuổi tác hoặc nghề nghiệp. Trước đó họ có thể hăng say bàn chuyện làm ăn, chuyện nhậu nhẹt, chuyện trời mưa trời nắng , chuyện ái tình lẻ hay chẵn, nhưng những chuyện đó chỉ là phụ. Mỗi người chỉ góp chuyện một cách nửa vời, dè dặt. Chuyện làm ăn, họ nghiêm nghị nhưng lạnh nhạt cảnh giác. Chuyện ăn chơi, họ ngả ngớn cười cợt. Chuyện ái tình, họ ba hoa khoe khoang. Chỉ khi nào bắt đầu vào chuyện chính trị, họ mới lao hết vào cuộc với tất cả nghiêm chỉnh lẫn đam mê. Chỉ trong môi trường chính trị, họ mới tìm thấy những đề tài, những cơ hội thỏa mãn khát vọng quyền lực lâu nay vùi giấu thầm kín trong lòng họ. Lúc đó họ mới thực là họ, từ ông nhà tu suốt đời kinh kệ gác bỏ trần tục cho đến anh nhà buôn lúc nào cũng nghĩ tới lời lỗ, từ những nghệ sĩ khinh thế ngạo vật cho đến những cậu học trò hiền lành chăm chỉ. Cuộc sống của họ có vẻ bình thường. Tuy vậy, trong lòng mỗi người đàn ông đều có một khát vọng ngàn đời: khát vọng quyền thế. Khát vọng ấy còn mạnh hơn cả tiền bạc hay sắc đẹp. Cho nên khi câu chuyện đưa đẩy đến vấn đề chính trị, tức là biểu hiện trước mắt của một thứ quyền lực cụ thể, thì đôi mắt mọi người đàn ông đều sáng rực. Nhà tu hành quên ngay kinh kệ. Người nghệ sĩ quên ngay nghệ thuật. Nhà buôn quên ngay các con số, vì dù buôn bán lớn đến đâu, nghĩ cho cùng, cũng thua xa lối buôn vua của Lã Bát Vì.

Không có gì đáng ngạc nhiên khi tối hôm đó, trong một khách sạn lạ hoắc, từ cửa sổ căn phòng trên cao nhìn xuống ánh đèn nhấp nháy của một thành phố cảng quan trọng thứ nhì của Việt nam, một nhà buôn chuyên nghiệp và một anh con buôn cơ hội nghiêm chỉnh bàn luận với nhau về đủ đề tài thời sự, từ cuộc đối đầu chưa phân thắng bại giữa cộng sản và tư bản cho tới cuộc leo thang oanh tạc Bắc Việt, từ mâu thuẫn giữa thành thị và nông thôn cho tới vấn đề kỳ thị nam bắc, rồi sự khác biệt giữa Phật giáo và Công giáo trước cuộc đấu tranh giành độc lập, rồi chủ trương của phe Phật giáo tranh đấu… dần dần lan man tới những khác biệt giữa thượng tọa Trí Quang và thượng tọa Tâm Châu, giữa phương thức hành động của nhà chùa và sinh viên tranh đấu. Bao nhiêu đề tài nghiêm trọng mà một viện nghiên cứu khoa học xã hội mài miệt tìm hiểu nghìn năm vẫn chưa hết, tối hôm đó, hai người “xơi tái” trong vòng vài tiếng đồng hồ. Vào phút chót, khi cả hai đều thỏa mãn vì tự thấy mình cao lớn y như tầm cao lịch sử, Mân mới hạ giọng “khuyên nhủ” ông Thanh Tuyến:

– Anh đừng áy náy chuyện anh Tường. Anh lo nếu thời thế biến chuyển, chuyện làm ăn của mình sẽ bị liên lụy chứ gì? Chỉ sợ Tường không phải là tay cứng, không dám đi tới cùng. Chứ nếu sừng sỏ, leo lên tới chỗ chóp bu, thì không ai dám động tới lông chân đâu. Để rồi anh coi, giả sử sau này vụ tranh đấu tranh điếc ở đây thất bại, ông Kỳ dẹp được hết, lúc đó ông Trí Quang vẫn chẳng hề gì. Ðến cái vạt áo nâu cũng không bị lấm chứ đừng nói chuyện bắt bớ ông ta. Bị tù đày, chỉ có hạng tôm tép. Nếu anh Tường cho tới lúc đó vẫn chỉ là hạng tôm tép, thì phiền đấy. Còn nếu…

Ông Thanh Tuyến hãnh diện lớn tiếng:

– Còn lâu! Nó cừ lắm! Con tôi, chứ đâu phải ai!

Mân hớp một ngụm rượu Cognac, rồi nói:

– Nếu thế thì anh nên yên tâm. Riêng anh với tôi thì rán làm Lã Bất Vi cũng thú lắm. Thằng nào không ham tiền, miễn là mình biết đưa cho khéo, biết đưa thế nào để thằng nhận tiền thấy mình được nâng cao lên chứ không bị hạ thấp xuống sau khi lấy tiền của mình. Chẳng hạn bảo chúng nó rằng phải có món tiền này để giúp vào công cuộc xây dựng dân chủ hoặc bảo vệ đất nước. Hà hà… nói khéo như thế, chúng nó phải gật thôi. Vừa có tiền, vừa có danh. Còn đòi gì nữa.

__________________________________________

Chương 23

Tối hôm đó, hai người chờ đến mười hai giờ khuya vẫn chưa thấy Lãng trở lại. Chiều hôm ấy Lãng hẹn sẽ tìm ông Thanh Tuyến và Mân tại khách sạn chậm nhất là mười giờ đêm để cho biết kết quả vụ liên lạc với băng Sáu Thẹo và Hùng Sùi. Vì mãi lo nói chuyện thời sự, họ quên mất Lãng. Ông Thanh Tuyến lo lắng hỏi Mân:

– Liệu có việc gì không? Anh biết chỗ hai băng Sáu Thẹo, Hùng Sùi không?

Mân phác tay bảo:

– Không sao đâu. Hai băng đó lâu nay được mình chia chác nhiều, Lãng nó đi nhậu với bọn đó quên mất chuyện về, thế thôi.

Ông Thanh Tuyến nóng ruột đi ra đi vào, trong khi Mân tiếp tục ngồi uống hết chai Cognac. Ðến lúc không kiên nhẫn được nữa, ông Thanh tuyến đề nghị:

– Hay anh với tôi lấy xe lại chỗ đó xem sao?

Mân không đứng dậy, uể oải đặt mạnh ly rượu xuống, ngoái cổ hỏi:

– Chỗ đó là chỗ nào?

– Chỗ cũ trước đây mình vẫn ghé. Lại đó hỏi xem Lãng có đến lấy cái Honda không.

Thấy nét mặt ông Thanh Tuyến hốt hoảng quá, Mân e sự lạnh nhạt của mình không hợp tình. Mân đứng dậy, giọng nghiêm chỉnh hơn:

– Anh muốn đi thì đi. Cho anh yên tâm!

Hai người xuống bãi đậu xe của khách sạn lấy chiếc xe Jeep đi tìm Lãng. Xuống đến nơi, Mân mới nhớ đã quên chìa khóa trên phòng khách sạn, Mân lầm bầm trước khi đi lấy chìa khóa:

– Thật rắc rối. Biết thế này cứ nghỉ đã, đến mai hãy hay.

Ông Thanh Tuyến cảm thấy mình có tội, cái tội quá lo xa, quá cẩn thận trong một dịch vụ mà muốn thành công, phải liều lĩnh dám đi ra ngoài luật pháp, từ việc móc nối với những người lính Mỹ để ăn cắp hàng PX cho đến việc giấu những món hàng đó trong xe rác để chuyển ra khỏi khu doanh trại Mỹ. Chưa hết. Hàng ra ngòai, lại phải tìm mối để nhanh chóng tiêu thụ những hàng ăn cắp được, với sự làm ngơ hoặc a tòng của cảnh sát, quan thuế, quân cảnh, quân trấn… Có tham dự vào cuộc làm ăn nguy hiểm và béo bở này, ông Thanh Tuyến mới thấy mình già. Cho nên càng ngày ông càng khâm phục Mân hơn Ông cảm thấy thấp bé trước Mân, cảm thấy mình vụng về ngây thơ trước thế hệ trẻ. Trước đây, ông đâu có chịu đựng được những lời cằn nhằn hoặc thái độ vô lễ của những người đồng trang lứa. Kể cả ông thầu khoán Tôn Thất Tòan cha Mân. Ông xem họ vô học, họ thiếu óc tính toán có kế hoạch. Cả đến cách tiêu tiền, cũng không biết tiêu cho đúng lúc đúng chỗ, vung phá ở những chỗ chơi bời rẻ tiền và bủn xỉn bần tiện vào những lúc cần vung tiền không tiếc. Thời gian làm ăn chung với Mân đã thay đổi hẳn ông Thanh Tuyến. Ông thiếu hẳn tự tin, ông chới với lẩm cẩm trong một cuộc chơi mà ông tự thấy quá sức mình. Nhiều hôm ông muốn bỏ hết, trở về giúp vợ lo trở lại cửa hàng buôn bán radio và máy thâu băng. Nhưng lần nào cũng vậy, vừa định bỏ cuộc ông nhớ ngay những món tiền kếch xù ông được chia. Chỉ cần làm một con tính đơn giản, ông đã thấy bỏ cuộc là dại. Ai lại bỏ một cơ hội nghìn năm một thuở như vậy. Thế là ông tiếp tục đi theo Mân, tiếp tục chịu đựng những lời cằn nhằn cùng những cử chỉ xấc láo khinh thường của Mân…

Mân trở xuống, không nói gì, mở cửa xe bắt đầu đề máy. Ông Thanh Tuyến vội tự tay mở tấm bạt cửa phía bên phải leo len ngồi vào xe. Mân lùi xe thật nhanh, rồi nhấn ga phóng ra cửa sau sân khách sạn. Xe ngoặc một vòng gắt, đầu ông Thanh Tuyến va vào tấm bạt phía bên phải. Mân không xin lỗi xin phải gì cả tiếp tục phóng xe ra đường Độc lập, rẽ phải để chạy về phía chợ Cồn. Họ đi được một đoạn thì bị một toán lính súng ống đầy người chận lại tại một ngã tư.

Bấy giờ, hai người mới nhận thấy phố xá có vẻ bất thường. Đêm khuya, hàng phố đã kéo kín cửa sắt. Phố xá vắng vẻ, điều ấy bình thường. Nhưng điều khác thường là dọc theo những con đường chính, từng toán lính đứng chia nhau canh gác thật cẩn mật y như khung cảnh một thành phố đang có đảo chính.

Hai quân nhân chận xe Mân lăm lăm khẩu Carbine trên tay, lớn tiếng ra lệnh cho Mân tấp xe vào gần lề, tắt máy xe, rồi hỏi giấy tờ. Một người khác cũng ra lệnh cho ông Thanh Tuyến rời xe vào đứng gần cột đèn cho họ khám xét. Hai quân nhân khác từ chỗ gần đó chạy đến, như để đề phòng tất cả bất trắc có thể xảy ra cho hai người đồng ngũ.

Người lính lo khám giấy tờ của Mân hỏi:

– Trung úy ở tiểu khu Thừa thiên vào sao không có sự vụ lệnh?

Mân bình tĩnh đáp:

– Chúng tôi định đi mua bao thuốc lá, nên sự vụ lệnh không mang theo. Nếu cần, tôi về lấy để đưa các anh coi.

Người lính phụ trách khám giấy tờ ông Thanh Tuyến nói lớn cho bạn nghe rõ:

– Ông bác này cũng ở Huế. Không phải quân nhân.

Mân nói nhỏ với người lính đang cầm căn cước quân nhân của mình:

– Ông già vợ tương lai của tôi đấy. Không nói giấu gì anh, tôi chở ông cụ vào để xếp đặt vụ đám cưới. Sẵn tiện mua ít đồ nữ trang để ngày mốt rước dâu.

Người lính có vẻ thích thú, cười lớn, rồi lễ phép nói:

– Mừng trung úy!

Rồi anh ta nói lớn với ba người bạn:

– Họ Huế vào. Không có gì khả nghi cả. Trung úy với bác nên quay về, vì đường bị cấm cả rồi. Giấy tờ của trung úy đây!

Mân bỏ thẻ căn cước quân nhân vào bóp, thân mật hỏi người lính:

– Có chuyện gì thế “cậu”?

Người lính đáp:

– Tôi cũng chẳng hiểu. Chỉ được lệnh chia nhau chận hết các ngả đường lớn, nhất là những đường dẫn vào thành phố. Lúc nãy thấy cả ông thị trưởng lẫn quân trấn trưởng lái xe đi kiểm tra. Sắp lộn xộn gì đây rồi!

Mân không muốn hỏi gì thêm, trở về chỗ đậu xe. Ông Thanh Tuyến đã lên xe ngồi chờ, giọng ông lạc đi vì sợ:

– Mình về nhanh lên. Không lại lạc đạn chết lảng nhách.

Mân điềm tĩnh rút bao Winston châm lửa hút, quên hẳn lời nói dối lúc nãy. Bốn người lính đã bỏ đi, tụm lại gần chỗ cột đèn xầm xì nói chuyện. Hút xong hai hơi thuốc, Mân mới đề máy xe, rồi quay về khách sạn. Ông Thanh Tuyến thắc mắc:

– Chắc Sài gòn lại có đảo chánh. Ông tướng nào lên đây?

Mân không đáp, tiếp tục lái xe. Lên trở lại phòng khách sạn, Mân mới nói với ông Thanh Tuyến:

– Có lẽ không phải đảo chánh đâu. Cabot Lodge công khai bênh vực ông Kỳ thì còn lâu mới có đảo chánh. Tôi nghĩ ông Kỳ sắp ra tay rồi đó!

***

Sáng sớm sáu giờ Lãng mới về khách sạn. Ông Thanh Tuyến thao thúc cả đêm không chợp mắt nổi nên Lãng vừa gõ cửa phòng, ông đã choàng dậy chạy ra mở cửa. Thấy Lãng, ông ôm chầm, mừng quá không nói được câu nào. Lãng cũng cảm động vì thấy ông Thanh Tuyến lo lắng cho mình, định kể chuyện đêm qua nhưng liếc vào bên trong thấy Mân còn ngủ, Lãng thấp giọng hỏi ông Thanh Tuyến:

– Có phải hồi hôm bác lo cho con nhiều lắm phải không?

Ông Thanh Tuyến dắt Lãng ra hành lang, khép nhẹ cửa phòng lại một cách kính cẩn, rồi mới dám nói lớn:

– Phải. Chúng tôi chờ Lãng cả đêm. Có chuyện gì thế?

Lãng cười:

– Mọi sự êm đẹp cả. Hai băng đều hứa sẽ dằn mặt tụi mất dạy một trận. Tiền nong sẽ tính sau. Xong việc con đi nhậu với băng chợ Cồn, lúc ra khỏi quán, lính tráng đóng chốt khắp ngả đường không đi được.

Ông Thanh Tuyến vồ vập hỏi:

– Lãng có biết chuyện gì xảy ra không? Có phải Sài gòn đảo chính không? Làm sao sáng nay cháu tới đây được?

Lãng trỏ mảnh vải vàng kẹp trên túi áo:

– Nhờ cái này. Con thấy người nào cũng đeo miếng vải vàng, biết liền là phe nhà chùa. Con chỉ việc tìm một mảnh vải vàng đeo vào, là đi đâu cũng lọt.

– Cháu đến đây bằng gì?

– Bằng Honda. Cháu đã lại chỗ cũ rồi. Họ bảo tuần qua có người lại hỏi anh Mân, nhưng là chỗ quen biết. Cái ông mua năm mươi cái radio Sony dạo trước, bác nhớ không? Cái ông nói tiếng Quảng trị đó!

Vừa lúc ấy, Mân cũng thức dậy. Nghe Lãng kể chuyện ngoài phố, Mân bảo ông Thanh Tuyến:

– Đó, anh thấy tôi nói có sao đâu. Chắc chắn là ông Kỳ sắp ra tay. Mình phải xuống phi trường xem thử tụi Mỹ làm gì, để còn tính trước việc làm ăn. Nhưng hãy tìm cái gì ăn sáng đã!

Họ xuống cái quán nhỏ ở tầng dưới khách sạn, gọi ba tô phở. Người quản lý đến xin lỗi vì sáng nay giới nghiêm không đi lấy thịt bò và bánh phở được, nhà hàng chỉ còn trứng ốp-la bánh mì. Mân gật đầu, gọi thêm một tách cà phê sữa nóng cho mình rồi quay sang hỏi ông Thanh Tuyến:

– Anh uống gì không?

Ông Thanh Tuyến ngáp dài, nói với người quản lý:

– Cho tôi một tách cà phê đậm, cà phê phin. Bỏ ít đường thôi.

Người quản lý trỏ hộp đường thẻ lễ phép thưa:

– Có đường thẻ ở đây, tùy ý ông cho hai hay ba viên là vừa. Còn cậu?

Lãng hỏi:

– Nhà hàng có bia ngon không?

Người quản lý nhìn vào trong quầy:

– Có bia Budweiser, Heineken và San Miguel.

Lãng thành thạo hỏi:

– San Miguel chai cổ lùn chứ gì? Ðược. Cho tôi một chai.

Ông Thanh Tuyến can:

– Mới sáng uống bia làm gì?

Mân cười, bảo:

– Nó thành sâu rượu rồi. Nhưng nghề nghiệp bắt buộc phải vậy. Lũ anh chị không thèm chơi với người không biết uống rượu.

Ông Thanh Tuyến đỏ mặt, tự thấy mình lẩm cẩm. Từ đó ông cắm cúi ăn, không góp chuyện với Mân và Lãng. Lãng lại ba hoa kể cái mánh mình dùng để có thể tự do đi lại mà không bị toán lính nào chận xét giấy. Mân cười hể hả, bảo Lãng:

– Ăn xong, Lãng phải đi tìm một cây cờ Phật giáo và ba mảnh vải vàng. Hay hai mảnh thôi, vì… anh Thanh Tuyến này, có lẽ anh ở đây để hai chúng tôi chạy lên phi trường xem động tịnh thế nào. Anh mặc đồ dân sự, sợ đi lại khó khăn.

Ông Thanh Tuyến chỉ mong có vậy. Chẳng những ông không muốn đi lên phi trường, mà ông còn muốn ngay bây giờ bay về Huế, để nếu có loạn lạc thì vợ chồng con cái còn có nhau. Ông nuối tiếc những ngày mua bán êm ả bình thường thuở trước, nuối tiếc những ngày chỉ việc đứng ở cửa hàng tiếp đám khách khứa vô ra mua những chiếc máy thu thanh hay thu băng xinh xắn của ông, khỏi phải giao du với bọn du thủ du thực mất dạy và tranh ăn với đủ hạng người, từ bọn có súng có quyền đến bọn trẻ con hỗn láo.

***

Những gì Mân và Lãng thấy được suốt một tuần ở Đà nẵng chỉ là cái vỏ ngoài của lịch sử. Nhưng khác với không khí hư hư thực thực của các biến cố trước, lần này, lịch sử trở nên đơn giản dễ hiếu hơn. Treo cờ Phật giáo để xách xe chạy một vòng thành phố, họ hiểu lực lượng đang tuần hành phòng thủ ráo riết thành phố Đà nẵng và vùng phụ cận (trừ các khu Công giáo), đều là quân nhân thuộc tiểu khu Quảng đà dưới quyền của đại tá Ðàm Quang Yêu, mà lực lượng xung kích nòng cốt là quân nhân Phật tử trong chiến đoàn Nguyễn Đại Thức. Dĩ nhiên không phải tất cả mọi người cầm súng ấy đều có cảm tình hoặc sẵn sàng xả thân cho Phật pháp. Ba năm xáo trộn đã quá đủ cho mọi người khôn ngoan lên, biết dè dặt trước những lời hô hào dao to búa lớn, biết cái rỗng không của những danh từ trừu tượng. Cái thực và cái giả, cái-thực-huyễn-ảo và cái-giả-cần-thiết, điều phải lo trước hết và điều nên gác lại cho hậu thế, điều nên cung kính lắng nghe rồi đặt kỹ vào chỗ kín đáo trang trọng và điều nên giả vờ chê bai rồi lặng lẽ vơ lấy, tất cả những cái đó, mọi người phân biệt đã rõ hơn. Không có ngọn cờ nào phất lên mà hàng hàng lớp lớp hò reo tung hô nữa. Nhiều thần tượng đã sụp đổ. Nhiều màn kịch đã diễn trên sân khấu chính trị.

Ngay cả lớp trẻ lý tưởng đầy nhiệt huyết cũng tới lúc mệt nhoài vì những cuộc xuống đường, hoặc vì tham dự quá nhiều đêm không ngủ. Mặc dù vậy, những ngày đầu tháng tư năm 1966, có một yếu tố mà vô tình hay cố ý chính quyền trung ương lẫn tòa đại sứ Mỹ đã tạo ra sự nhất trí cho phong trào tranh đấu miền Trung, là lời tuyên bố Đà nẵng Huế đã rơi vào tay cộng sản và cần phải dùng biện pháp quân sự để giải phóng hai thành phố đó. Lời tuyên bố này đột nhiên đặt tất cả quân nhân công chức miền Trung vào cái thế chân tường. Họ không có chỗ lùi. Cũng không còn cơ hội để biện hộ. Những người lâu nay tham dự cầm chừng để chờ xem, những người phất phơ chờ gió mạnh chiều nào thì ngả theo chiều đó để tiếp tục giữ nồi cơm cho vợ con, nay đột nhiên bị xếp cùng loại với những kẻ hăng hái chống đối, xách động. Họ không phóng lao, mà bây giờ bị du vào thế phải theo lao. Thế là họ phải xông vào cuộc, may ra cơn bão lớn họ gây ra sẽ đổi xoay thế cuộc, và phần an toàn sẽ về họ. Cho nên chỉ cần một đêm, Đà nẵng đã trở thành một pháo đài kiên cố.

Tin tướng Kỳ và tướng Có đích thân đem quân ra Đà nẵng để “giải phóng” thành phố này, từ Sài gòn đưa ra chiều hôm trước. Tối hôm đó, tin dữ được loan nhanh khắp nơi. Cả thành phố nổi giận, và sáng hôm sau, tất cả mọi ngả đường dẫn vào Đà nẵng đều có xe bọc sắt và những toán lính vũ trang đầy đủ đóng chốt án ngữ. Mọi con đường bộ đều bị bịt kín. Chỉ còn một lối thâm nhập là phi trường. Người ta ùn ùn kéo nhau lên các vùng quanh phi đạo để chờ. Người có súng chờ “địch” ở các công sự chiến đấu. Người không có súng tò mò muốn xem tận mắt cuộc chạm trán nẩy lửa nghìn năm một thuở.

Vì thế khi tướng Kỳ và tướng Có cùng với một nghìn năm trăm Thủy quân Lục chiến và hai đại đội cảnh sát đặt chân lên phi trường Ðà nẵng, họ đã thấy họ bị bao vây. Đất đứng của họ thu hẹp trong vòng kẽm gai bao quanh phi trường, hơn thế nữa, chủ nhân ông đích thực của phi trường lại là người Mỹ. Cửa phi trường, G.I. Mỹ đã đóng kín. Những người lính Thủy quân Lục chiến đã cuồng chân vì suốt mấy ngày quanh quẩn đi lại trong những khu vực bị hạn chế, lâu lâu lại bị những bọn con nít hỗn láo bên kia vòng kẽm gai quăng đá quăng chai vào khiêu khích. Tức giận đến bầm gan, nhưng họ không được phép nổ súng.

Họ thêm tức giận vì bị đưa vào một hoàn cảnh khôi hài lố bịch, giống y như bị bắt buộc phải đấu súng với một bóng ma để làm trò cười cho đám đông.

May mắn là năm ngày sau, họ lại được lên máy bay quân sự Mỹ để trở về Sài gòn. Nhưng chính những chiếc máy bay quân sự vận tải chở họ ra đây rồi chở họ về lại là nguyên nhân của một loạt những biến động khác, bên ngoài vòng rào kẽm gai phi trường.