Danh ngôn

Trong mọi cộng đồng, chúng ta cần một nhóm thiên thần gây rối.

We need, in every community, a group of angelic troublemakers.

(Bayard Rustin – trích bài phát biểu tại New York City 1963)

Trong mọi trường hợp, chắc chắn rằng sự thiếu hiểu biết, đi kèm với quyền lực, là kẻ thù tàn bạo nhất có thể có của công lý.

It is certain, in any case, that ignorance, allied with power, is the most ferocious enemy justice can have.

(James Baldwin - No Name in the Street 1972)

Các cuộc cách mạng và các cá nhân có thể bị giết hại, nhưng bạn không thể giết chết các ý tưởng.

While revolutionaries and individuals can be murdered, you cannot kill ideas.

(Thomas Sankara, một tuần trước khi bị ám sát, 1987)

Không có cảm giác nào cô đơn hơn việc bị chính đất nước mình trục xuất.

There's not a more lonely feeling than to be banished by my own country.

(Kiyo Sato – Kiyo’s Story 2009)

Ban Biên tập

Địa chỉ liên lạc:

1. Thơ

tho.vanviet.vd@gmail.com

2. Văn

vanviet.van14@gmail.com

3. Nghiên cứu Phê Bình

vanviet.ncpb@gmail.com

4. Vấn đề hôm nay

vanviet.vdhn1@gmail.com

5. Thư bạn đọc

vanviet.tbd14@gmail.com

6. Tư liệu

vanviet.tulieu@gmail.com

7. Văn học Miền Nam 54-75

vanhocmiennam5475@gmail.com

Tra cứu theo tên tác giả

Thứ Hai, 21 tháng 10, 2019

Văn Hải ngoại sau 1975 (kỳ 180): Hoàng Mai Đạt – Êm dịu đêm giao thừa

Hoàng Mai Đạt là tạng nhà văn có tài nhưng không múa may, viết hay nhưng không làm dáng. Hoàng Mai Đạt cũng là nhà văn tôi cảm thấy gần gũi ở hai khía cạnh: tuổi thơ tan vỡ vì chiến tranh, và những vấn nạn của người nhập cư giữa hai nền văn hoá.

Hoàng Mai Đạt đến Mỹ năm 1975, lúc mười bốn tuổi. Không như phần lớn những người đến Mỹ cùng cỡ tuổi, những người có xu hướng sống nhập vào xã hội dòng chính, Hoàng Mai Đạt đi hướng ngược lại. Vừa học xong cử nhân, Hoàng Mai Đạt lái chiếc xe cà tàng vượt hàng ngàn dặm từ miền Đông về vùng có nhiều người Việt ở California. Từ đó đến nay đã hơn hai mươi năm, Hoàng Mai Đạt làm nghề truyền thông ở Little Saigon, một công việc dễ đụng chạm, phiền toái. Qua văn chương Hoàng Mai Đạt, thấy anh là người kiên nhẫn và có óc hài hước. Trong sâu xa, tôi nghĩ Hoàng Mai Đạt là người yêu mến cộng đồng, với tình yêu của một người bị đẩy ra đời sớm để rồi nhận ra không đâu bằng nhà mình, dù ngôi nhà nhỏ hẹp và nhiều lời qua tiếng lại. Trong khi vài người viết ra nước ngoài ở tuổi trưởng thành cứ cố tỏ ra mình là người thấm đẫm văn hoá Âu Mỹ, là “công dân toàn cầu”, một người đã sống qua thời niên thiếu ở Mỹ như Hoàng Mai Đạt lại không có nhu cầu chứng minh chuyện này. “Tính cách Mỹ” tự thể hiện trong văn chương Hoàng Mai Đạt qua kinh nghiệm của một người nhập cư lăn lưng vào đời sống, qua thái độ nhân ái, dí dỏm, và qua văn phong trực tiếp, rõ ràng của tác giả.

Cha tử trận khi Hoàng Mai Đạt mới lên bốn. Cảm giác bơ vơ, buồn rầu bàng bạc trong những trang viết về tuổi thơ của Hoàng Mai Đạt. Không gay gắt, nhưng cũng không ỡm ờ nhờm đờm, những bài viết về người cha, về chiến tranh của Hoàng Mai Đạt cho thấy tác giả là loại nhà văn với ý thức lịch sử và lương tri sáng rõ về thiện-ác.

Hoàng Mai Đạt viết không nhiều, không tham gia những tranh luận chữ nghĩa trong giới văn nghệ. Độc giả ở Việt Nam có lẽ ít biết Hoàng Mai Đạt. Nhưng tôi nghĩ Hoàng Mai Đạt có vị trí quan trọng trong văn học hải ngoại: Hoàng Mai Đạt là nhà văn viết tiếng Việt có khả năng trình bày chân thành và tinh tế cái kinh nghiệm đa văn hoá của người Việt nhập cư thế hệ 1.5, những người không hằn Mỹ, nhưng cũng không hoàn toàn Việt về mặt văn hoá. Muốn tìm hiểu đời sống tinh thần của những người Việt thế hệ 1.5 ở Mỹ, không gì hay hơn đọc Hoàng Mai Đạt:

“Quê hương tôi không ở bên kia, cũng không phải ở đây, mà ở đâu đó giữa hai nơi. Tôi rời Việt Nam quá sớm để có những kỷ niệm êm đềm với Việt Nam. Tôi không có những cơn mưa bất chợt ở Sài Gòn, không có dấu chân trên cát trắng ở Nha Trang, và chắc chắn không có gì ở miền Bắc như cha mẹ tôi đã có. Tôi chỉ có không khí chiến tranh, có xóm chợ dơ bẩn, và có đôi chân trần dẫm lên đá trên đường tản cư.

Những kỷ niệm êm đềm nhất của tôi có lẽ là ở đây, ở Hoa Kỳ, nơi mà giờ đây tôi đã sống trên nửa đời người. Vậy mà quê hương của tôi cũng không chắc là ở nơi đây. Quê hương của tôi có lẽ chỉ có trong những kỷ niệm bên người thân, bên vợ, bên con, bên những người cũng không có một mảnh đất mà họ có thể bước chân lên và ứa nước mắt, như một đứa con lưu lạc lâu năm nay trở về lại gốc nguồn”.

Giữa Hai Miền Mưa Nắng (2000) tập hợp những bài tạp ghi của Hoàng Mai Đạt về đời sống Mỹ và chuyến trở lại Việt Nam lần đầu của tác giả sau hai mươi ba năm. Lối hành văn của Hoàng Mai Đạt mới đọc qua có vẻ đơn giản, nhưng đối với những người có chút ít kinh nghiệm viết lách, có thể nhận ra đây là loại đơn giản của lao tác chữ nghĩa: không thừa, không thiếu, không hoa hoè hoa sói, chỉ rõ ràng, hiệu quả.

Sự thú vị của văn chương Hoàng Mai Đạt phần lớn nằm ở cái nhìn đặc sắc của một người đứng giữa hai nền văn hoá, một người “đa văn hoá” thứ thiệt, nhưng cũng chính vì vậy mà rất ý thức và trân trọng phần Việt trong mình…

Phan Nhiên Hạo

*

Tiểu sử Hoàng Mai Ðạt

Chào đời đầu tháng Giêng 1961 tại Nha Trang. Cha tử trận năm 1965, mẹ buôn bán ở chợ nuôi hai con. Vào Sài Gòn năm 1974, rời Việt Nam cuối tháng Tư 1975, tị nạn tại Mỹ, sống hơn 10 năm ở Pittsburgh, Pennsylvania. Tốt nghiệp cử nhân truyền thông tại trường Pennsylvania State University.

Ðến San Jose, California năm 1987. Làm việc tại Nhật Báo Người Việt ở Quận Cam, Nam California từ cuối năm 1987 đến 1989. Nhân viên của Sở Xã hội ở Sutter County, Bắc California năm 1989-1990. Mở tiệm bán sách ở Stockton năm 1990-1992. Biên tập viên tin tức đài Little Saigon Radio, Nam California từ năm 1994 đến 2007. Làm thêm nghề bán nhà vài năm để có thêm lợi tức mà không thành công lắm. Biên tập viên của Nhật Báo Người Việt từ 2007 và hiện nay (6/2009) là thư ký tòa soạn.

Ngoài hầu hết thời gian viết tin tức để kiếm sống, thỉnh thoảng viết tạp ghi hoặc giới thiệu sách cho các tờ báo văn chương như Văn Học, Hợp Lưu, Văn, Thế Kỷ 21, và Phố Văn. Ðã xuất bản tuyển tập truyện ngắn Cánh Ðồng Cho Em năm 1991, và hai tuyển tập tạp ghi Giữa Hai Miền Mưa Nắng (2000), Biên Tà Tà (2005).

hoang-mai-dat-tinh-tan-magazine-2018

Êm dịu đêm giao thừa

Đêm giao thừa năm ấy lạnh gần 0 độ F, mà theo thông lệ của gia đình, tôi phải ra ngoài đường. Nói cho đúng là tôi bị “đuổi” ra ngoài đường khoảng mười phút trước nửa đêm. Gia đình nào cũng có một vài thông lệ, thói quen kỳ cục. Riêng gia đình tôi, tôi phải bước ra khỏi nhà trước giờ giao thừa, để sau đó trở lại nhà và xông đất. Khác với mấy năm trước, đêm giao thừa năm đó lòng tôi lại nôn nao chờ đợi giờ bị “đuổi” ra ngoài cửa.

Thông lệ xông đất kỳ cục này bắt đầu từ năm đầu tiên chúng tôi mới đến Mỹ. Mùa đông năm 1976, đầu tháng Hai, chúng tôi cũng ăn Tết, cũng chờ đón đêm giao thừa như khi còn ở Nha Trang. Tuy nhiên, ba mẹ con tôi không có bánh chưng bánh tét, ngay cả đến mứt dừa mứt bí cũng không.

Nơi chúng tôi ở có vài người Việt. Gia đình tôi may mắn có một phụ nữ biết nấu ăn ở trong nhà, và vì thế nhà tôi thường là nơi tụ tập cuối tuần của mớ người Việt trong vùng. Thật sự thì mẹ tôi chỉ biết nấu dăm ba món kho thịt, kho cá, xào rau, canh sườn hầm, và phở ăn với rau ngò tây, đủ nuôi hai anh em tôi cho đỡ thèm mấy món Việt Nam. Năm đó, mẹ quyết định làm món thịt bò nhúng dấm cho mọi người ăn đêm Giao Thừa, mừng đón Xuân về lần đầu tiên.

Vào khoảng chín giờ tối, bác Châu lái xe mang tôi ra chợ mua thêm thịt bò. Bác Châu còn vợ con bị kẹt ở Sài Gòn. Sau vài lần đến thăm nhà và “coi mắt” mẹ tôi, bác chính thức trở thành “bạn trai” của mẹ trong đám người Việt lưa thưa tại đây. Bố tôi chết trận ở Tuy Hòa, khi tôi mới có bốn, năm tuổi, còn em tôi mới chừng hai tuổi non. Trong năm đầu quen nhau, cặp bồ trung niên lỡ dở này chỉ gặp nhau vào dịp cuối tuần. Đến khi chúng tôi dọn về xóm lao động West Homestead thì bác mới ở luôn với mẹ con tôi, cho đỡ tốn tiền nhà. Bác ở dưới hầm, trong khi mẹ con tôi chia nhau hai phòng ngủ ở trên tầng hai. Tôi mừng có bác đến sống chung, giúp mẹ có thêm “đối tượng” để rầy mắng và giúp tôi có người “đỡ đạn”. Đêm hôm ấy bác Châu cũng đến chơi cho mấy mẹ con bớt cô đơn, cho mẹ có người lớn để chọc cười và mắng la lúc say rượu. Bác lái xe đưa tôi xuống chợ. Lúc về xe chết máy cách nhà hơn hai dặm đường. Bác để xe từ từ lăn xuống dốc, cho nó ủi vào một gò tuyết bên đường, rồi ông đeo găng tay lầm lũi bước ra mở nắp máy xe.

Tôi cầm đèn pin rọi vào máy, trong khi bác loay hoay vặn mấy cái bu-gi, sờ bình điện này nọ, thỉnh thoảng ông lẩm bẩm chửi thề, tiếng Việt tiếng Mỹ tùm lum. Có lẽ vì xe không hiểu tiếng Anh lạng quạng của chúng tôi, cuối cùng hai bác cháu phải chịu thua và bỏ xe nằm ở lề đường. Sau đó chúng tôi lội tuyết đi bộ về nhà. Hơn hai dặm đường bác không nói gì cả. Còn tôi, tay cầm túi thịt bò, chân đi tìm chỗ có băng đá để trượt. Túi thịt bị tôi đè lên không biết bao nhiêu lần mỗi khi tôi té. Thỉnh thoảng bác la lớn trong đêm tuyết lạnh, “Coi chừng té gãy xương nghe mậy!”

Về đến nhà vừa quá mười hai giờ đêm, chúng tôi cùng xông đất cho năm mới. Nguyên một năm sau đó gia đình tôi làm ăn khấm khá, mẹ được việc làm ở xưởng chế máy khoan dầu, còn hai anh em chúng tôi học toàn điểm A với B. Bác Châu cũng xin được việc làm cùng xưởng với mẹ, giúp mẹ có người nói chuyện lúc buồn miệng. Từ lúc xông đất đó, mẹ cho rằng nhờ tôi là người bước vào nhà đầu năm, nên cả năm chúng tôi được nhiều điều tốt lành, và rồi bà ra lệnh cho tôi xông đất cho gia đình vào mỗi đêm giao thừa. Kể từ năm ấy, truyền thống kỳ cục đó bắt đầu, mặc dù bác Châu có đôi lần ngăn cản, sợ tôi bị cảm lạnh hay bị chó cắn ở ngoài đường. Tôi thì không ngại lắm. Nửa đêm, đi một vòng ngoài phố, ném bậy bạ mấy trái banh tuyết, xong về nhà, thì chẳng đáng cho tôi phải phản đối, nổi loạn chống mẹ với “bạn trai” chi cho mệt.

Trở lại câu chuyện vào đêm giao thừa lạnh lẽo năm đó, khi mà nhiệt độ xuống đến 0 độ. Gần nửa đêm hết thảy nhân vật Việt tị nạn, được xem là quan trọng nhất trong phố, đã tụ tập đến nhà tôi đầy đủ. Họ mặc áo len, áo lót hai ba lớp, khiến cho người nào cũng đầy tròn như những đòn bánh tét vừa hở mặt, lại lòi chân. Mẹ mời chú Vinh, chú Đức là bạn làm cùng sở, chú Tùng đang học kỹ sư năm cuối cùng ở Đại Học Pittsburgh, và chú Thuận sống cách nhà chúng tôi mấy căn. Như tôi đã nói, mấy người này toàn là các nhân vật gốc Việt quan trọng nhất trong cộng đồng nhỏ bé của chúng tôi. Lúc bấy giờ chúng tôi chưa có hội người Việt. Nếu có, mẹ tôi chắc chắn là người giữ chức chủ tịch, kiêm luôn chức thủ quỹ và điều hợp sinh hoạt cuối tuần.

Chú Vinh, chú Đức cuối tuần nào cũng quanh quẩn ở nhà chúng tôi, ăn nhậu cho qua ngày tháng xa gia đình ở xứ người. Ngồi ở bàn nhậu trong bầu không khí ấm cúng, thân mật, thỉnh thoảng hớp tí bia rượu vào người để hâm nóng cơ thể, người nào hình như cũng thích kể chuyện về quá khứ của mình, mà có kể thì rồi cũng thổi phồng thêm, cho đời mình bớt tầm thường, tẻ nhạt. Bác Châu thường kể mình là đại úy cảnh sát, bạn thân của ông tỉnh trưởng Sóc Trăng nào đó, mà khi còn bé cả hai “đại úy” và “tỉnh trưởng” thích tắm truồng dưới mưa và rượt đuổi mấy đứa hàng xóm. Mẹ tôi hay nói bà có tiệm buôn gạo lớn nhất Nha Trang, nắm hơn một triệu bạc trong tay, biết hết mấy vựa gạo ở miền lục tỉnh. Sự thực thì có thể chỉ đúng khoảng một nửa. Bác là cảnh sát nhưng không là đại úy, và tiệm buôn gạo của mẹ tôi chứa không tới hai mươi bao gạo một trăm ký. Chuyện bác tắm truồng với tỉnh trưởng thì chắc có thật.

Chú Vinh kể nhiều lần rằng khi trước chú đi lính bộ binh, cấp bậc đại úy, và từng bắn chết mấy chục tên Việt Cộng trong trận Hạ Lào. Chú có bộ râu mép rậm, lưa thưa cọng bạc. Những khi chú nói hăng quá, hàng râu uốn éo, như cánh chim chao đảo, ngất ngư muốn té xuống ruộng. Còn chú Đức quê ở Bình Định, lính nhảy dù, cũng đại úy. Tôi thấy hình như ai cũng thích làm đại úy, thổi phồng mình là thiếu tá thì có lẽ hơi quá đáng, nên họ thường dừng ở mức đại úy, nghe cũng vừa ngon lành và kêu lộp cộp sướng lỗ tai. Tôi không nghe chú Đức nói bắn ai, chỉ nghe chú thường nhắc có cô bồ học sinh trường Nữ ở Nha Trang và có thấy khỉ đít đỏ ở Tuy Hòa.

Chú Tùng ở Mỹ từ trước 1975, cha mẹ cho đi du học, mà học hành dở dang vì Sài Gòn có chế độ mới, bây giờ chú tiếp tục học cho xong bằng kỹ sư. Có một lần uống bia hơi nhiều, chú Tùng cho biết còn người yêu ở Việt Nam mà sau 1975 không có liên lạc thư từ gì được hết. Chú Tùng thích nghe Khánh Ly hát nhạc Trịnh Công Sơn. Những khi tàn bữa nhậu, chú hay vác đàn ra hát bài Biển Nhớ, mắt lim dim như ông già đánh đàn trong tranh của Picasso, thỉnh thoảng hé mắt, cong đôi chân mày nhìn vào mắt tôi, khiến tôi phải làm bộ gắp đồ ăn để có dịp ngó đi chỗ khác. Ban đầu tôi còn rán ngồi nghe chú hát, sau thấy buồn quá, nhất là sợ bị chú nhìn với đôi mắt luyến ái, nên tôi hay tìm cớ lẻn lên phòng ngủ.

Còn chú Thuận, mà mẹ tôi hay gọi là “thằng” Thuận, có vợ và hai con còn ở Rạch Giá. Tôi biết chú có gia đình nhân một bữa đi theo chú để nghe và thông dịch dùm chú. Tại nhà thờ bảo trợ chú Thuận, người ta nhận được thư từ Việt Nam gởi đến địa chỉ của hội USCC, nhờ trao lại cho chú Thuận. Tôi nghe chú lẩm bẩm, thắc mắc sao vợ con mò ra địa chỉ để gởi thư cho chú. Chú không liên lạc với vợ con, sống một mình, đi làm mỗi ngày mấy tiếng đồng hồ, lau chùi hút bụi tại một trường đại học cộng đồng gần nhà. Chú Thuận nghiện rượu, người lúc nào cũng hôi mùi rượu, mà tại uống nhiều quá nên không ăn uống gì, người ốm nhách, nặng không quá chín mươi cân Anh. Đã vậy chú còn để tóc dài hippy, râu ria tùm lum. Mặt chú to, mũi cao, mắt lớn, trông có vẻ Tây Ban Nha hơn là Việt Nam. Chú hay giỡn, nói mình là Giê-su, giống mấy hình Đức Chúa tóc dài mà người ta thường bày bán ở chợ K-Mart.

Tôi quen thân với chú Thuận hơn mấy người bạn kia của mẹ, một phần có lẽ là vì chú ở gần nhà, thỉnh thoảng buồn buồn tôi chạy qua phòng chú chơi. Chú ở mướn dưới một căn hầm, bên trên là gia đình chủ nhà người gốc Ý. Chú Thuận nhát lắm. Có lần vừa bước vào bậc gỗ xuống hầm chú ở, trời chập choạng tối, tôi nghe chú la lên bằng tiếng Anh ngập ngọng, phát âm sai, không đầu không đuôi, mà đại khái là, “Mày vô… tao đâm… ngưng… tao giết.” Tôi cũng la lên bằng tiếng Việt, “Đạt đây chú.” Rồi chú mở cửa cho tôi vào, tay vẫn còn cầm chặt con dao găm chú mua ở tiệm bán đồ lính, mắt đỏ ngầu.

Phòng chú Thuận tối om, chỉ có một cây đèn ở trong góc. Tôi qua chơi cho chú có người để nói chuyện, nhất là nghe chuyện chú đi lính lang bang đó đây ở Việt Nam, rồi bù lại tôi được xem mấy cuốn Playboy chú để ở chân đèn. Lúc đó tôi vừa mười sáu tuổi, trong người rạo rực khó chịu, thành thử chuyện quá khứ của chú tôi cũng nghe cho qua thôi, chứ mắt thì không thể nào rời mấy tấm hình trần truồng coi đã con mắt. Thấy tôi coi hoài hình phụ nữ khỏa thân, chú cũng ngại. Ban đầu chú nói coi ít ít thôi, chứ không mẹ biết được thì “bả” sẽ mắng chú chết. Thấy tôi không ngán lắm, cứ đờ mắt ra xem phụ nữ trần truồng, chú hù là coi nhiều quá thì sẽ bị mù mắt hoặc bị tê liệt gì đó. Không cần chú dọa thêm, tôi cũng dần dần bớt nghiền ngẫm hình ở truồng, vì chú không có cuốn nào mới hơn, hay chú giấu mấy cuốn mới đi mà tôi không biết. Coi hoài mấy cái hình riết rồi tôi cũng chán, chán luôn cả chú Thuận vì chú lúc nào cũng say, cũng kể đi kể lại mấy cái chuyện đi lính cũ mèm.

Trở lại cái đêm đông lạnh lẽo gần 0 độ kia, lúc ấy tôi vừa mười bảy tuổi, tuổi mọc sừng dê, hơi trễ đối với một số bạn Mỹ của tôi, vì tụi nó đã dám vào tiệm mua túi condom, còn tôi chỉ nói tới “áo mưa” thôi, thì miệng lưỡi đã đóng mở, uốn éo lộn xộn, nói không ra hơi, mà trong người lại thấy ngứa ngáy khoái cảm. Có lẽ tại sừng của tôi thuộc loại phát triển chậm, khiến tôi lúc ấy chưa dám tán gái bằng miệng, như lũ bạn Mỹ mắc dịch. Trong lớp học tôi nổi tiếng là người thầm lặng nhất, có biệt hiệu “the quiet one.” Tôi ít nói là vì tôi nói dở, thường phát biểu không đầu không đuôi. Nói đã khó hiểu, mà khi lúng túng với con gái, giọng của tôi cũng thay đổi trầm bổng bất thường, hay bổng hơn là trầm, có khi nheo nhéo mỏng cao như giọng của bà tiên trong phim The Wizard of Oz. Mấy thày cô cũng thông cảm trường hợp nói năng đặc biệt của tôi, nên ít bắt tôi phải trả lời trong lớp, cho tôi phát biểu khi tôi gom đủ gan dạ để giơ tay lên góp ý mà không đỏ mặt, run rẩy tay chân.

Nói dở là cái “tài” của tôi. Mà trời cao cũng có mắt, sinh voi sinh cỏ, tạo ra tôi và cũng tạo ra “nàng.” Nàng này tên là Shawn, và nhờ cái tài nói dở, ít mở miệng tôi được nàng để ý đến. Tôi biết Shawn dòm ngó mình từ lúc để cho nàng ký tên vào cuốn lưu niệm yearbook hàng năm. Mấy đứa bạn trong lớp đều ký tên và viết dăm ba chữ, đại khái như “Chúc mày thành công trên đường đời, muốn gì được đó,” “Rất hân hạnh được biết một người Việt Nam như Đạt.” Có thằng bạn nói tôi giống người Nhật, lại làm toán giỏi hơn nó, nên nó hay chọc tôi là khoa học gia hỏa tiễn. Đứa bạn này viết, “Sau này có làm khoa học gia hỏa tiễn nhớ đừng quên tao.” Có đứa viết “Nhớ nhau suốt đời.” Chữ “suốt đời” lúc nào cũng được các bạn tôi viết với số 4 bên cạnh chữ ever một cách âu yếm, và vân vân.

Riêng cô nàng Shawn viết tràn ngập cả một trang giấy, nói rằng rất thích tôi, biết tôi cô đơn, lạc loài ở xứ lạ, và muốn nghe thêm về tôi, về Việt Nam. Nàng còn vẽ chữ Love thật to trước khi ký tên. Chữ Love này có mãnh lực ghê gớm lắm. Con trai nghe chữ Love thường không nghĩ đến những tình cảm êm đềm từ trái tim của nàng dành cho mình, không tưởng tượng cảnh đi bên nhau ngoài bãi biển như con gái, mà chỉ nghĩ đến cảnh hôn hít, nắm tay nắm chân, sờ mó bậy bạ, ở bụi cây hay đằng sau ghế xe. Mới thấy chữ Love của Shawn, tôi liền nghĩ tới cảnh lái xe đậu chỗ nào tối tối để hành sự. Rồi tôi tự cảm thấy xấu hổ, khi nhìn Shawn chăm chú đọc mấy hàng chữ tôi viết cho nàng. Shawn nói cám ơn tôi đã dành cho nàng mấy dòng chữ khích lệ và thân ái nhất, mà không có ai khác trong lớp viết cho nàng. Tôi viết khen nàng tính tình thành thật, có tinh thần độc lập, có ý tưởng cao, và có sắc đẹp. Tôi không thể viết nhiều hơn vì vốn liếng ngôn ngữ quá nghèo nàn. Thật sự thì Shawn cũng đẹp vừa vừa thôi, ngực hơi lép, mà mông lại hơi to cho khổ người. Được cái Shawn có gương mặt trắng hồng sáng sủa, đôi mắt nâu trong sáng nhân từ, và hay nghiêng nghiêng mái tóc vàng mật, với nụ cười xã giao. Các cá tính kia thì tôi tin là rất đúng về nàng. Từ lúc ký lưu niệm ấy, chúng tôi hay nói chuyện với nhau hơn. Thật sự thì Shawn nói nhiều, còn tôi thường cười mỉm chi, trả lời những câu ngăn ngắn, góp chuyện.

Vì nghĩ tới nàng Shawn mà đêm giao thừa lạnh gần 0 độ đó, tôi bồn chồn đi ra đi vô phòng vệ sinh cả chục lần, để soi gương ngắm nghía cái vẻ đẹp trai tơ của mình. Nhà Shawn ở cách nhà tôi ba khu khố, đi bộ chừng mười phút là tới. Tôi định đêm nay khi bị đuổi ra khỏi nhà, theo tục lệ cổ truyền của gia đình, tôi sẽ lượn qua nhà nàng chút xíu rồi lượn về. Chỉ có thế thôi mà tôi mất nửa tiếng đồng hồ lựa quần áo. Tôi chọn áo ấm màu xanh biển đậm có thêu phù hiệu trường đại học Penn State; chiếc áo đó tôi mua vào mùa hè qua, nhân dịp được trường mời tới dự thi lấy học bổng. Tôi mặc quần jeans trắng và khoác thêm cái áo vét nâu có vá hai miếng ở khuỷu tay, cho đúng mốt trí thức thời thượng lúc ấy. Chưa hết, tôi còn thêm cái khăn trắng quàng cổ.

Còn chừng mười lăm phút nữa tới giao thừa, mẹ tôi ở dưới nhà gọi vọng lên phòng ngủ của hai anh em tôi. Chú Đức, chú Vinh, chú Tùng, chú Thuận và bác Châu đang bàn cãi gì đó ở bàn ăn, thỉnh thoảng tôi nghe vẳng lên các từ ngữ quen thuộc như “thằng Thiệu,” “bàn tay lông lá,” “thằng cha Hồ Chí Minh,” “lão Mao,” kèm giữa những tiếng chưởi thề kéo dài. Mẹ tôi lúc ấy chắc không ngờ thằng con trai cả của bà đang trang điểm sắc đẹp trong phòng vệ sinh.

Nghe mẹ kêu, tôi lật đật bước ra, vào phòng ngủ lấy áo lạnh và nón tôi mới mua ở chợ bán đồ cũ. Mấy tuần trước đó, xem phim cũ trắng đen, thấy Humphrey Bogart ngầu quá mức, tôi liền quyết kiếm cho được một cái áo lạnh đen dài xuống quá đầu gối và cái nón nỉ đen, y hệt như của Bogart. Mấy người dưới nhà đang tiên đoán ngày nào họ sẽ về lại Việt Nam, rồi chợt yên lặng khi nghe tiếng tôi bước xuống bậc thang. Tôi cũng hồi hộp quá mức, có cảm tưởng mình là nàng Scarlett trong phim “Cuốn Theo Chiều Gió” đang bước xuống lầu để gặp chàng Rhett Butler. Áo lạnh có lẽ hơi dài, tôi nghe nó đụng vạt vào bậc thang. Mấy chú đều trố mắt nhìn tôi trong áo lạnh dài luộm thuộm và nón đen ngòm. Xuống tới bậc thang cuối cùng, tôi nghe tiếng chú Thuận cười ré lên.

“Thằng Đạt hôm nay nó làm cái trò gì vậy bà?” Chú Thuận đưa tay gãi cái đầu tóc dài không gội của chú. “Bộ tính làm trùm mafia hả mậy?” Chú đập tay xuống đùi cười ré lên lần nữa.

“Đi xông đất chớ bộ đi đóng kịch hay sao mà mày ăn bận kỳ cục vậy hả?” mẹ tôi la lên. Thấy tôi không trả lời, mẹ quay qua với mấy chú kia. “Đó, mấy chú không có gia đình thì mấy chú rên cô đơn lạnh lẽo, gà trống ở chung với gà trống chán quá. Còn có con như tôi thì như vậy đó, có sướng gì hơn. Con tới tuổi ngựa chứng thì cũng không làm gì nổi nó. Khi không ăn mặc như cải lương để đi xông đất. Chắc ổng tưởng ổng ghê gớm lắm à.”

“Nó mặc sao kệ nó, hồi nhỏ tui cũng vậy,” bác Châu lên tiếng bênh tôi. Trên đời này mấy ai hiểu nổi tâm trạng bất thường của tôi.

“Trời lạnh, phải mặc vậy mới ấm.” Tôi trả lời tỉnh bơ, rồi đi lấy giày, tránh đám người lớn trong bếp. Ra tới phòng khách, thấy thằng em đang bịt miệng cười, tôi đưa tay xô nó một cái, cho nó té xuống sofa chơi. Tôi còn hăm, “Mày lộn xộn tao mét má mày mua cái băng nhạc của tụi Kiss đó nghe không.” Tuy chỉ thấy tụi Kiss chơi nhạc heavy metal trên TV có một lần, mẹ lại ghét vô cùng cái đám “ăn mặc như ma quỷ” ấy.

“Mày đi tới đầu đường rồi về là vừa, nghe Đạt,” mẹ dặn. “Chừng mười phút thôi, đừng đi lâu quá.”

“Anh Đạt xịt nước hoa, hôi thấy mồ,” thằng em tôi vừa bịt mũi vừa la lên, lấm lét đề phòng cú đấm bất ngờ của tôi, khi tôi bước gần tới cửa.

Ra tới ngoài đường tôi hít mạnh một cái, rồi nhắm hướng nhà Shawn mà đi tới. Lần đầu tiên tôi đến nhà nàng là vào hồi đầu mùa hè vừa qua. Chúng tôi vừa được nghỉ học, ở dưới phố Pittsburgh họ có tổ chức một hội chợ nghệ thuật. Năm nào họ cũng triển lãm tranh ảnh, đồ nghệ thuật, và trình diễn âm nhạc đủ loại, kéo dài suốt cả tuần tại công viên lớn nhất. Shawn rủ tôi đi xem. Tôi chịu liền.

Không biết nghĩ sao lúc ấy, tôi xuống phố, đến một tiệm bán quần áo vét sang trọng nhất, tìm một bộ đồ để đi chơi với nàng. Không biết gì cả, tôi kể lể sự tình cho ông già bán hàng, nói tôi muốn mua một áo vét mặc hợp với bất cứ loại quần nào, và bị ông gạ mua một áo vét xanh lá cây lấp lánh kim tuyến. Lúc tính tiền xong ông già còn nheo mắt chúc tôi may mắn với nàng. Lúc đó tôi bị mê hoặc, tưởng mình là hoàng tử đẹp trai nhất phố, hí hửng cầm áo vét xanh lá cây về giấu trong tủ, đêm đêm mang ra mặc thử với quần jeans, rồi quần tây. Lúc đó tôi thấy tôi đẹp trai và đàn ông vô cùng.

Buổi sáng ngày hẹn, mẹ cho tôi mượn xe Mustang đỏ lái tới nhà nàng. Mới có bằng lái xe, nên tôi đậu xe xa xa nhà Shawn, sợ tới trước cửa nhà, để nàng thấy tôi lùi tiến nhiều lần mới đậu được chiếc xe thì quê thấy mồ. Hôm đó tôi mặc áo vét xanh kim tuyến, cà vạt đỏ và quần jeans xanh, như ông già đã chỉ cho tôi. Trông tôi lúc đó chắc chói mắt không thua gì một salesman chuyên gạ gẫm bán xe hơi cũ. Shawn ra đón tôi trong bộ áo vàng nhạt với váy trắng, đẹp như thiên thần ở thương xá trong mùa Giáng Sinh. Nàng mời tôi vào nhà gặp cha dượng. Tôi nghe tim gõ bịch bịch như đang xem phim ma. Tôi cứ tưởng lái xe tới để kéo nàng đi thôi, chứ đâu biết tục lệ dating có cái màn diện kiến cha mẹ đàng gái.

Ba má Shawn ly dị nhau. Shawn ở với mẹ và dượng, giống như tôi, với hai đứa em gái cùng mẹ khác cha, và một con chó lông mịn vàng tên là Omar. Cha ruột của nàng ở Portland với một người đàn bà khác. Hôm ấy mẹ của nàng đã đi làm. Cha dượng của Shawn to lớn, râu ria tùm lum, và làm ở hãng thép dưới bờ sông. Ông không nói nhiều, chỉ hỏi tên, rồi chúc đi vui vẻ và dặn về nhà trước 9 giờ tối.

Lúc đi dạo ở dưới phố, tôi ngó đó đây chứ không dám nhìn thẳng vào mặt nàng. Thỉnh thoảng bất ngờ chạm vai, tôi liền tách xa như sợ bị dính vào Shawn. Mỗi lần thấy ai nhìn cái cà vạt đỏ nấp sau áo xanh kim tuyến, tôi có cảm tưởng cà vạt của tôi to như lá chuối và dài quá đủng quần của tôi. Ngượng nghịu vậy mà tôi cũng nói chuyện về âm nhạc và tranh ảnh với Shawn. Shawn có kiến thức nhiều về hai môn đó, mà tôi thì chỉ biết lỏm bỏm lại dốt tiếng Anh, thành thử cũng rán nghe đến nóng cả óc, đỏ hai cái lỗ tai. Thỉnh thoảng tôi cố gắng chứng tỏ mình cũng hiểu biết, như khi Shawn nói về nhạc jazz, tôi chen ngay vào là tôi thích sự sterilization của nó. Nàng nhìn tôi kinh ngạc, làm tôi giật mình. Ý tôi muốn nói là improvisation, tức là sự sáng tác ngay trong lúc nhạc sĩ đang chơi nhạc, thế mà miệng tôi lắp bắp, lạng quạng nói đến chữ sát trùng, khiến nàng nhìn tôi chằm chằm chẳng hiểu gì cả, làm tôi quê một cục.

Thế cũng chưa hết. Lúc mua mỗi đứa một ly trái cây, khi đưa ly cho nàng, tôi lúng túng như sợ đụng phải mấy ngón tay thon dài của Shawn, thả ly khi nàng chưa kịp cầm, để nó rớt ụp xuống đất, văng nước lên quần tôi và vớ nàng. Tôi lật đật cầm ly nhựa lên, ngắm nghía mấy miếng dâu còn sót lại. Liếc nhìn người bán hàng, tôi thấy bà lắc đầu thở dài. Tôi chưa kịp nói gì, thì bà ta đưa cho tôi một ly mới đầy, không tính tiền. Tôi ngập ngừng nói cám ơn, trong khi Shawn bình thản ngó xe cộ chạy qua lại. Ăn xong ly trái cây, tôi nghe Shawn kể cha mẹ nàng gốc Ái Nhĩ Lan, mỗi năm nàng sống hai tháng hè với cha ở Portland, và nàng ước mơ sẽ trở thành họa sĩ sau này. Hôm đó chúng tôi đi xem tranh, nghe nhạc của Philip Glass, rồi đi ăn tối ở một nhà hàng Ý.

Chúng tôi về nhà đúng giờ. Lúc đưa Shawn đến cửa, tôi lo lắng không biết có phải hôn nàng hay không. Tôi muốn làm lơ vụ hôn, nhưng sợ Shawn chê mình không đàn ông, nên càng run hơn, tim sợ ma đập bịch bịch, mà miệng thì nín khe như không có chuyện gì. Cả ngày đi quanh quẩn ở dưới phố, nhiều lần tôi có nghĩ đến chuyện hôn đôi môi hồng nhạt của Shawn. Vậy mà bây giờ sắp tới màn kết thúc, tôi lại sợ hôn nàng. Bước lên những bậc thang sau lưng Shawn, tôi thọc tay trong túi quần, cố ra vẻ bình thường, như là tôi từng có kinh nghiệm đưa bồ về nhà. Đến trước cửa, Shawn quay lại nhìn tôi, nói cám ơn là đã cho nàng một ngày vui vẻ. Tôi chưa kịp nói lại gì, thì nàng vội chồm tới hôn mạnh vào môi tôi, thật nhanh rồi buông ra. Tôi vừa cảm cái mềm của môi thì mặt nàng đã xa mấy tấc. Té ra hôn môi chỉ có vậy! Tôi nghe nói hôn phải thè lưỡi ra để lục lọi tùm lum. Thế mà chưa có gì thì mọi chuyện đã xong. Tôi đứng ngớ ngẩn, tay chân cứng ngắc trong bộ đồ bán xe xanh và đỏ. Shawn mỉm cười rồi mở cửa bước vào nhà. Đợi nàng đóng cửa xong xuôi hết tôi mới thở ra, uốn éo cổ mấy cái, bẻ xương tay kêu răng rắc, cho xì bớt cơn sợ. Trước khi bước xuống bậc thang, tôi chợt thấy hai bộ mặt của hai cô em gái Shawn đằng sau màn cửa sổ. Thế nào hai đứa quỉ đó cũng cười tôi một trận cho đã đời.

Đến đầu khu phố nhà Shawn, tôi xem đồng hồ ẩn dưới lớp găng tay bằng da. Còn năm phút nữa là đúng nửa đêm. Mẹ tôi, bác và mấy chú chắc đang nóng ruột đợi giao thừa. Năm nay chúng tôi cũng ăn bò nhúng dấm, có thêm một nồi cháo vịt. Ngày hôm sau ai cũng đi làm ca chiều, thành thử họ có thể đón giao thừa cho tới ba, bốn giờ sáng, xong ngủ tới một giờ trưa mới thức dậy để đi làm. Riêng tôi, tôi phải ngủ sớm hơn và phải đi học lúc bảy giờ sáng như bình thường.

Còn cách nhà Shawn mấy căn, tôi mới bắt đầu cảm thấy cái lạnh len lỏi qua khăn choàng và thấm vào ngực. Gió lạnh thổi tốc lên lớp tuyết mới rớt sáng nay, tạt vào mặt tôi. Không khí trong trẻo, lạnh căm chà mạnh vào da mặt, làm cho tôi thỉnh thoảng thấy rát ở gò má. Tôi đưa tay ôm nón, sợ gió thổi nó bay. Thấy dưới lớp tuyết là băng đá, tôi đi chậm lại, dò từng bước một, như trẻ con mới biết đi. Tôi lúc đó không còn là một Bogart lạnh lùng như đá cục nữa, mà trở thành một thanh tra Pink Panther lụng thụng trong bộ đồ thùng thình.

Đến trước nhà Shawn tôi dừng lại, nghĩ ngợi tìm lý do đã đưa mình đến nơi đây. Tôi chỉ muốn băng ngang qua nhà nàng thôi, mà thật tình tôi cũng hy vọng thấy được nàng. Bên trong nhà còn bật đèn. Phải chi bất chợt Shawn mở cửa, dẫn con chó Omar ra cho nó tè, để tôi được thấy mặt nàng. Hay mẹ Shawn bất ngờ bị ho cảm, sai nàng mở cửa đi mua thuốc cho bà. Thọc tay trong túi áo rộng tôi yên lặng đứng trước bậc thang dẫn lên nhà nàng. Tôi nghe chó sủa ở đâu đó, nhưng tuyệt nhiên không có con chó nào trong nhà nàng chạy ra. Nhìn lên cửa sổ ở phòng Shawn, thấy đèn còn sáng tôi bỗng muốn gọi lớn. Nghĩ lại, tôi cúi xuống, vò viên một trái banh tuyết vừa lòng tay, tính ném mạnh đến cửa sổ. Đứng chần chừ mấy giây tôi lại thôi, quay người và ném mạnh banh tuyết vào cột điện ở bên kia đường. Tôi ném trật, và banh bể tan trên kiếng một chiếc xe cạnh cột điện.

Đang loay hoay không biết nên đứng thêm bao lâu nữa, tôi chợt thấy có hai ngọn đèn xe từ đầu đường tiến lại. Như một con vật say rượu, chiếc xe lạng qua lạng lại, để đôi mắt vàng khè mờ ảo lao chao trong lòng đường. Đôi mắt vàng cam tiến tới từ từ và dừng lại bên lề đường cạnh tôi. Nhìn vào trong xe tôi nhận ra người lái xe là cha dượng của Shawn. Ông lùi xe vào bãi trống trước nhà, dường như không thấy tôi. Tôi tính bỏ đi, nhưng ông đã bước ra và nhận ra tôi.

“Ê! Bogie, đi đâu vậy?” ông kêu lớn, tay lắc mạnh hộp đựng đồ ăn.

“Hi, Mr. Bacon,” tôi nói, quay hẳn người nhìn ông ta.

“Ah! Thì ra là you.” Không đợi tôi nói, ông mời, “Vô nhà uống bia nhé, tên đàn ông trẻ tuổi.”

Miệng ông nồng mùi rượu. Chắc ông ra khỏi xưởng lúc mười một giờ đêm, chui vào một quán rượu quen thuộc nào đó, rồi bây giờ mới về. Đàn ông lao động ở đây có thói quen uống bia rượu mỗi ngày sau khi đi làm. Họ vào trong bar, la ó cho hết bực bội với đám bạn bè, xong về nhà ngủ với vợ. Ông Bacon quàng tay qua vai và lôi tôi vào nhà với ông. Tôi nói tôi phải về nhà, nhưng chỉ nghe ông hát hò một bản nhạc gì đó, chứ không trả lời. Ông vừa bước lên bậc gỗ, có người lật đật mở khóa.

Cửa mở, tôi thấy Shawn mặc áo choàng ngủ màu vàng, cổ tròn, đi đôi dép lông nâu sờn mép. “Hi, Shawn,” tôi chào.

“Coi nè Shawn,” ông già dượng lôi tôi vào nhà, “tao lượm được cái này ở trước cửa nhà mình.”

Shawn nhăn mặt. “Rồi, lại say rượu nữa. Frank, đi rửa mặt, rồi đi ngủ. Má đã ngủ.” Không đợi ông nói thêm, Shawn cầm cái hộp thiếc đựng đồ ăn trên tay dượng, và nắm cánh tay ông lôi vào trong nhà.

Tôi lẽo đẽo theo vào, vừa bước đi vừa nghe ông lè nhè hát trên bậc thang dẫn lên tầng trên. Trong phòng khách đơn sơ, lờ mờ như một buổi chiều mùa đông, ngọn đèn bàn duy nhất đang tỏa ánh sáng vàng nhạt lên trên bộ ghế sofa màu nâu sữa. Ở góc tối, tôi thấy một tủ sách nhỏ, với sách chất đầy hai kệ và một mớ báo nằm bên dưới.

“Đạt đi đâu vậy?” Shawn nhìn tôi với nụ cười hiền. Nàng đứng bên cạnh lồng đèn bàn, để ánh đèn vàng nhạt hắt lên gương mặt mệt mỏi, có vẻ thiếu ngủ.

“Đêm nay là đêm giao thừa, Tết Việt Nam,” tôi nói, đứng lại giữa phòng khách, tháo găng tay ra mà quên không lấy nón xuống. Tôi bỗng nhớ đứng thẳng vai lên, cho cao hơn một chút xíu, ngang tầm mắt Shawn.

“Ồ, vậy à!” Shawn tươi hẳn lên, như nghe tin vui cho riêng nàng. “Mừng năm mới! Mừng năm mới, Đạt nhé.” Mắt nàng liếc nhanh lên đầu tôi.

“Cám ơn Shawn.” Tôi cúi đầu mỉm cười, mà cúi hơi thấp, làm cho cái nón nỉ đen rớt xuống sàn nhà. Trong lúc cong lưng lượm nón lên, tôi liếc vội vào một tấm gương gần cửa vào bếp, để rồi thấy đầu tóc đen của tôi có hình khuôn tròn bên trên lỗ tai, do cái nón đã ép tóc lại, như có ai đậy nồi nấu cơm lên đầu của tôi.

“Nón này ngộ quá,” Shawn nói, trong lúc tôi lúng túng không biết nên đội nón lại, hay để cái đầu nồi cơm trơ trơ ra đó trước mặt nàng. Chúng tôi nhìn nhau, không nói. Shawn chợt chớp mắt, vừa cười vừa cúi mặt. “Đạt đợi tí đi, tôi có cái này.” Vừa dứt câu Shawn quay người đi vội đến tủ sách nhỏ trong góc tối.

Tôi đứng yên nhìn những bậc thang lót nệm nâu đậm đã sờn rách. Tiếng ói của người cha dượng chợt vang lên từ phòng vệ sinh trên lầu, rồi tiếng giật nước. Shawn bước nhẹ trở lại, tay cầm một quyển sách bìa cứng, xanh đậm. Tiếng gỗ khô bên dưới lớp thảm rên ken két theo bước chân nàng.

“Tặng Đạt tập sách này, mừng năm mới,” Shawn trao sách trước mặt tôi. Nụ cười hiền trên môi nàng lại nở, như một món quà tặng kèm theo cuốn sách.

“Tender Is The Night của Fitzgerald,” tôi vừa reo tên tựa sách vừa kẹp nón vào nách. Cầm quyển sách trong tay, tôi ngồi đại xuống một đầu ghế sofa, vồn vã lật vài trang đầu, mải mê xem những hàng chữ bên trong. Mùi giấy sách lúc nào cũng quyến rũ tôi vô cùng.

“Truyện này hay lắm, mới đọc xong. Hy vọng Đạt sẽ thích.” Shawn ngồi xuống ở đầu ghế bên kia, co chân để cho hai chiếc dép lông rơi xuống thảm.

“Cám ơn Shawn,” tôi vui vẻ nói, tiếp tục lật xem mấy trang sách, không để ý đến nàng.

Vài tuần trước đó, ở trong lớp học chúng tôi đã được đọc The Great Gatsby, cũng của Fitzgerald. Đó là lần đầu tiên tôi đọc hết một tiểu thuyết tiếng Anh mà lại thích và hiểu. Tôi coi sơ vài đoạn đối thoại ở mấy chương trong, rồi nghiền ngẫm đọc tiểu sử của tác giả ở trang cuối. Đang đọc đoạn nói về tật nghiện rượu của Fitzgerald, tôi chợt ngẩng lên nhìn Shawn.

Nàng đang dựa đầu vào ghế, mắt nhíu lại và sắp ngủ gục. Tôi bối rối gấp sách lại và không ngờ mình đã vô tâm đến như thế. Tôi tính đằng hắng, gây tiếng động cho nàng tỉnh giấc, Shawn bỗng ngửa cổ ra đằng sau, miệng há to, để tiếng thở khò khè đều đặn thoát ra từ trong cổ họng. Tôi nuốt nước bọt, khẽ hừm một cái, nàng không động đậy. Tôi liền hừm lớn hơn, nàng vẫn ngủ say.

Ngồi yên thêm một phút, tôi nghĩ đến cách khác: tôi nhúng nhúng đôi mông xuống ghế sofa, đè mấy cái lò xo, gây ra những tiếng kẽo kẹt dập dình. Thấy nàng vẫn không động đậy, tôi nhúng mạnh hơn, làm cho một chân của nàng rớt thõng xuống sàn, người cũng dập dình theo nhịp. Vậy mà Shawn vẫn không mở mắt. Tôi định lấy tay lay nàng dậy, nhưng nghĩ thôi, để cho Shawn được ngủ yên giấc. Thấy tấm khăn phủ ghế ở bên cạnh, tôi đứng dậy, cầm và đắp nó lên người Shawn, che từ cổ xuống đến đôi chân. Nàng nằm yên, mắt khép kín, miệng vẫn hả to và thở đều đều. Kẹp quyển sách vào bên trong áo lạnh, tôi đội nón, lật đật về với gia đình đang mong đợi đêm giao thừa.

Êm dịu, tôi thầm nghĩ khi nhìn Shawn ngủ lần cuối, trước khi khép cánh cửa lại và bước hẳn ra ngoài. Gió vẫn thổi tuyết bay đó đây, không khí lạnh sắt se hơn ban nãy. Tôi cúi đầu tránh gió, bước vội về nhà, trong người nghe nóng lạ lùng, mồ hôi đang rịn ra khắp cơ thể. Phút gần Shawn vừa qua, tôi đã không có ý nghĩ tình dục nào trong đầu, mà chỉ mong nàng thức giấc để nói với tôi một câu. Nhớ tới Shawn tôi chợt muốn cười. Nàng lúc nào cũng tự nhiên, từ tốn, khác hẳn tôi lúng túng, vụng về. Lớp tuyết trắng dưới chân mịn và êm. Đang cúi đầu vui với những giọt mồ hôi nóng trong người, tôi nghe có tiếng kèn xe từ đầu đường dội tới. Tôi nhận ra chiếc xe của bác Châu, vì nó chỉ còn một đèn sáng, đèn kia đã bị bể khi xe lủi vào cột điện trên đường đá trơn trợt. Xe vừa đến bên cạnh tôi, bác quay cửa kiếng xuống, thò đầu đội nón len đỏ ra ngoài. Ở ghế bên cạnh, chú Thuận nhìn tôi, rồi nhe răng cười.

“Đi đâu nãy giờ hả mậy, để má mày chờ muốn chết?” bác la lên giữa con đường vắng lặng.

Tôi tính giải thích này nọ, chợt gió thổi bay cái nón xuống đường. Tôi dợm chân muốn bước đi chụp nón lại, nhưng không kịp. Tôi đứng yên nhìn theo luồng gió lớn. Nón trôi ra giữa đường, lăn xuống gầm một chiếc xe, rồi chui ra, tung bay xuống con đường dốc. Tôi quay lại, bắt gặp bác và chú cũng đang nhìn theo chiếc nón. Tôi chợt cảm thấy hình như mình đã sống giây phút này ở đâu rồi, có lẽ trong một giấc mơ nào đó trước đây.

“Hồi trước tao cũng có một cái nón như vậy,” chú Thuận nói, rồi cười. “Thôi, vô xe đi mày, về nhà thế nào bà già cũng dũa cho mày một tăng.”

Thấy tôi về, mẹ tính la mấy câu, nhưng nghĩ sao bà chỉ bảo tôi ngồi xuống cùng ăn với mọi người. Có lẽ mẹ sợ rầy la đầu năm sẽ làm cho cả năm không hên. Còn bác vui vẻ rót rượu đào Nhật Bản mời cả nhà cùng uống. Đó là lần đầu tiên tôi uống rượu. Gần hai giờ sáng, trong cơn say ấm nồng, tôi nằm yên trên giường và nghĩ đến Shawn. Sáng hôm sau tôi đau đầu, nhưng cũng rán dậy đi học. Đến trường tôi không gặp Shawn, không hiểu vì nàng đã nghỉ học hay vì chúng tôi học khác lớp suốt ngày.

Shawn và tôi còn gặp nhau vài lần sau đó, thỉnh thoảng ở công viên, đôi khi ở quán ăn nhỏ. Shawn nói nhiều hơn tôi, về nghệ thuật, văn hóa và nhất là chính trị, toàn là những đề tài mà ở tuổi mười bảy lẽ ra chúng tôi không cần phải quan tâm tới. Shawn hay nói với nhiệt tình về tư tưởng cộng sản mà nàng tìm thấy trong các cuốn sách ít học sinh nào sờ tới ở thư viện. Tôi thỉnh thoảng nhắc chuyện thân nhân vượt biển tìm tự do, còn sống hay đã chết cũng chưa biết, và chúng tôi xem sự khác biệt giữa hai người như một nét đặc biệt nào đó trên cơ thể, như tôi người mỏng, môi hơi dầy, Shawn ngực lép, mông hơi rộng, thế thôi.

Đến mùa hè, Shawn học nhảy một lớp, nên ra trường sớm hơn tôi một năm. Shawn cho tôi biết nàng sẽ sống với cha ở Portland, Oregon. Chúng tôi liên lạc với nhau được mấy lá thư rồi ngưng hẳn khi mùa hè chấm dứt. Trong lá thư cuối cùng Shawn nói sẽ xuống Los Angeles để học vẽ.

Cũng từ năm đó cuộc đời tôi bắt đầu thay đổi nhiều hơn, có lẽ tại đêm giao thừa tôi xông đất không còn may mắn như những năm trước. Việc làm của mẹ và bác bắt đầu bấp bênh, tháng làm tháng nghỉ không nhất định. Người địa phương mất việc, phỉ báng người Nhật cạnh tranh bán thép và giật mất sự thịnh vượng kinh tế. Họ trút cơn bực bội xuống đám người Á Đông lẻ tẻ trong vùng như chúng tôi. Phụ với mẹ, tôi đi làm bồi bàn mỗi đêm và làm quen với bia, rượu. Năm cuối cùng trung học, từ một trong ba học sinh ưu tú nhất trường, tôi tụt dần trên danh sách “top ten.” Rồi tôi vào trường Penn State, chấp nhận đi học như mọi người, vì thật sự chưa biết làm gì khác hơn lúc bấy giờ.

Qua mười mấy giao thừa, cuộc đời tôi đã khác đi. Tôi bây giờ có vợ con đàng hoàng, lớn cái đầu và không bị mẹ đuổi ra ngoài để xông đất như mười mấy năm trước. Tôi để lại mẹ ở thành phố Pittsburgh tối xám, để đi học xa, để đi làm đủ thứ nghề, kể cả việc dạy trẻ, chạy máy hóa học, viết báo, làm cán sự xã hội, đánh máy mướn. Tôi lang thang đó đây, ban đầu vì thích thay đổi không khí, dần dần về sau vì hoàn cảnh, có khi ăn ngủ ở những ngôi nhà sang trọng bậc nhất của bạn bè và có đêm ngủ một mình trong xe ở bãi vắng, bị cảnh sát chiếu đèn pha và đuổi đi chỗ khác chơi. Nay tôi trôi dạt về San Diego được mấy tháng, tự hứa sẽ ổn định ở nơi đây, ao ước được sống vui với vợ con, ngày thường đi làm, thứ Bảy đi chợ kiếm đồ sale, Chủ Nhật nằm sofa uống bia xem football, như người Mỹ thứ thiệt.

Cuộc đời của những người xưa cũng thay đổi, sau mười mấy giao thừa. Em tôi vẫn ở với mẹ và làm dăm ba việc ở dưới phố. Có lần gây gổ với đồng nghiệp, nó bị cảnh sát bắt. Hai người bạn cùng sở với mẹ đã rời Pittsburgh từ lâu. Khoảng năm 1987 hay 1988 gì đó, tôi gặp chú Vinh ở đường Bolsa, Nam California. Lúc đó chú có mặt trong một đám đông đứng bao vây một tiệm chuyên bán vé máy bay về Việt Nam. Chú cầm loa kêu gọi bà con tẩy chay bọn kinh tài cho Việt Cộng. Thấy tôi, chú đưa loa cho người khác, chạy lại bắt tay, quàng vai tôi. “Mẹ, mày gầy quá, nhóc con,” chú nói, rồi rủ tôi đến Phở Hòa ăn phở ngầu pín với chú.

Còn chú Đức đoàn tụ với vợ con ở Houston, Texas, mở văn phòng đại diện luật sư, rồi lăng nhăng làm sao đó, bị vợ bỏ sống một mình. Mỗi dịp Giáng Sinh chú Đức vẫn gửi thiệp về thăm mẹ tôi. Còn chú Tùng hay hát nhạc Trịnh Công Sơn, lấy được bằng kỹ sư, liền qua San Jose kiếm việc. Tôi nghe nói bây giờ chú có văn phòng bán bảo hiểm và đang dự định ra một băng nhạc hát chung với mấy ca sĩ nổi tiếng.

Cuộc đời của chú Thuận trôi dạt như rác, mất tích ở một nơi nào đó. Chú có ông anh tên là Toàn. Chú Toàn vượt biển với vợ con. Vợ con chết hết ở vịnh Thái Lan. Chú Toàn sống sót, dò hỏi sao đó mà cuối cùng tìm được địa chỉ nhà thờ bảo trợ chú Thuận và xin họ bảo trợ. Ngày đón anh ở phi trường Pittsburgh, chú Thuận đứng ngồi không yên, mặt mày xanh lè, không nói chuyện với mấy người đại diện nhà thờ bảo trợ. Bác Châu kể lại ông không rõ chuyện gì mà lúc xuống máy bay, vừa thấy chú Thuận, chú Toàn liền vung tay tát em một cái thật mạnh, làm mấy người từ nhà thờ nhốn nháo cả lên, hỏi bác Châu thế này là cái quái gì, người Việt tụi bay đoàn tụ như thế này hả.

Tôi không có mặt ở đó, nhưng tôi biết trên đường về nhà không khí trong xe chắc là căng thẳng và dài lắm. Thả xong đám người tị nạn, mấy người Mỹ thế nào cũng dọt xe đi cho lẹ. Gặp chú Toàn, tôi nghe chú kể tội chú Thuận trốn trách nhiệm, không liên lạc với gia đình, cũng không gởi tiền về cho thân nhân trong những lúc cơ cực nhất sau năm 1975. Sau đó, chú Toàn còn mắng em là đã đến Mỹ từ lâu mà không gầy dựng được gì như mấy người khác, chỉ biết uống rượu và sống như một con chó hoang.

Hai tháng sau ngày gặp lại anh, chú Thuận bỏ việc làm, trốn đi âm thầm, không biết đi đâu. Mấy tháng sau, hãng xe buýt Greyhound từ Kansas City có gởi cho gia đình tôi một hộp giấy đựng cái ví của chú Thuận. Chú ấy không biết lái xe. Có lẽ khi đi xe buýt, chú để quên bóp trên xe, và hãng xe cứ dựa theo địa chỉ của nhà tôi trên giấy tờ của chú mà gửi về Pittsburgh. Chú Toàn bây giờ đã lập lại gia đình, làm chủ một tiệm 7-Eleven gần quán ăn Tàu của bác Châu.

Bác Châu được đoàn tụ với gia đình. Lúc đó tôi mới biết bác có ít nhất năm người con. Gia đình bác mua nhà cách mẹ tôi khoảng nửa dặm. Bác dành dụm tiền mua lại một nhà hàng Tàu hạng trung, đưa hết vợ con ra chạy bàn và nấu trong bếp. Sau hai năm mở tiệm bác qua đời vì ung thư gan. Bác đang khỏe mạnh, làm việc từ sáu giờ sáng đến mười một giờ đêm, bỗng một hôm kêu đau quá trong bụng. Ở nhà thương, bác sĩ bảo bác bị ung thư gan ở giai đoạn chót, không thể làm gì được nữa. Một tuần lễ sau bác qua đời. Vợ bác mời một Thượng Tọa từ Nam California đến làm lễ an táng. Mộ bác nằm ở một sườn đồi, chơ vơ giữa hàng trăm ngôi mộ xa lạ của những người Mỹ chung quanh, cách nhà chúng tôi hơn hai mươi dặm.

Còn Shawn, qua mười mấy giao thừa, cũng vẫn là cô con gái qua lời kể bằng tiếng Mỹ của mẹ nàng. Đêm giao thừa năm rồi, nửa đêm tôi gọi về Pittsburgh, bị bà la cho một mách, vừa mắng vừa khạc đờm, nói đã ba giờ sáng ở miền đông. Tôi xin lỗi, nói là quên giờ đông tây khác nhau ba tiếng đồng hồ. Nghe hỏi về Shawn, bà kể cô con gái lớn hết dạy Anh ngữ ở El Salvador dưới Trung Mỹ Châu, và bấy giờ Shawn đang ở Ethiopia để cứu người Phi Châu chết đói.

Kể đến đó bà cười, nói lúc trước Shawn là thành viên của hội bảo vệ cá voi, cú rừng, nay nàng đi cứu người chết đói. Bà nói phải chi Shawn ngừng lang thang đó đây để về lo cho mẹ đang bị bệnh trong một khu phố tàn. Bà bây giờ sống một mình, ông chồng thất nghiệp đã bỏ đi từ lâu, trốn chạy trách nhiệm làm cha. Hai cô con gái đã sống riêng, cũng vướng nhiều trách nhiệm gia đình, không thể lo cho bà được. Bà chỉ mong Shawn trở về với mẹ.

Qua bấy nhiêu giao thừa, tôi vẫn giữ cuốn Tender Is The Night, cất giữ trong đống sách lưu trữ ngày một nhiều của tôi. Tôi vẫn nhớ chiếc nón non dại của tuổi trẻ bay biến vào mưa tuyết năm nào, bỏ lại mái tóc trần xanh không che đậy, để thời gian dần dần quẹt phết những sợi bạc mỏng manh.

Đêm giao thừa này tôi không còn bị “đuổi” ra ngoài đường, cũng không nôn nao đi tìm sự êm dịu ở bên ngoài đêm đen. Quanh tôi, ở nụ cười của con, của vợ, và của chính mình, tôi tìm thấy sự êm dịu trong tâm hồn, sự êm dịu cho đêm giao thừa và cho những ngày sau đó, những ngày nắng ấm mà tôi hằng đi tìm từ một miền tuyết lạnh xa xôi trong kỷ niệm.

Hoàng Mai Đạt Mùa Xuân 1993

(trích Giữa Hai Miền Mưa Nắng. Văn Nghệ phát hành năm 2000, Thư Hương tái bản lần thứ nhất năm 2004, California, Hoa Kỳ)

Nguồn: https://litviet.wordpress.com/2009/07/11/hoang-mai-dạt-giữa-hai-miền-mưa-nắng-1/