Danh ngôn

Trong mọi cộng đồng, chúng ta cần một nhóm thiên thần gây rối.

We need, in every community, a group of angelic troublemakers.

(Bayard Rustin – trích bài phát biểu tại New York City 1963)

Trong mọi trường hợp, chắc chắn rằng sự thiếu hiểu biết, đi kèm với quyền lực, là kẻ thù tàn bạo nhất có thể có của công lý.

It is certain, in any case, that ignorance, allied with power, is the most ferocious enemy justice can have.

(James Baldwin - No Name in the Street 1972)

Các cuộc cách mạng và các cá nhân có thể bị giết hại, nhưng bạn không thể giết chết các ý tưởng.

While revolutionaries and individuals can be murdered, you cannot kill ideas.

(Thomas Sankara, một tuần trước khi bị ám sát, 1987)

Không có cảm giác nào cô đơn hơn việc bị chính đất nước mình trục xuất.

There's not a more lonely feeling than to be banished by my own country.

(Kiyo Sato – Kiyo’s Story 2009)

Ban Biên tập

Địa chỉ liên lạc:

1. Thơ

tho.vanviet.vd@gmail.com

2. Văn

vanviet.van14@gmail.com

3. Nghiên cứu Phê Bình

vanviet.ncpb@gmail.com

4. Vấn đề hôm nay

vanviet.vdhn1@gmail.com

5. Thư bạn đọc

vanviet.tbd14@gmail.com

6. Tư liệu

vanviet.tulieu@gmail.com

7. Văn học Miền Nam 54-75

vanhocmiennam5475@gmail.com

Tra cứu theo tên tác giả

Thứ Năm, 22 tháng 8, 2019

Toni Morrison, người thay đổi diện mạo của văn học Mỹ

Trần Doãn Nho

Toni Morrison, phụ nữ Mỹ gốc Phi châu đầu tiên đoạt giải Nobel văn chương, vừa qua đời một cách bình an tại Trung Tâm Y tế Montefiore, thành phố New York vào ngày 5/8/2019, hưởng thọ 88 tuổi, vì bị bệnh sưng phổi. Cái chết của bà lập tức được truyền thông khắp thế giới đưa tin một cách trang trọng.

- Margalit Fox (New York Times): Toni Morrison là nhà văn đỉnh cao (towering novelist) của kinh nghiệm da đen ở Mỹ.

- Josyane Savigneau (Le Monde, Pháp): Toni Morrison, một nhà văn tự do và nổi loạn.

- Ron Charles (Washington Post): Toni Morrison không chỉ làm cho văn chương Mỹ khác đi mà còn thách đố chúng ta chống lại sự tồn tại dai dẳng của chủ nghĩa phân biệt chủng tộc.

- Gene Seymour (CNN): Toni Morrison thắp sáng lối đi để dẫn chúng ta ra khỏi những hoàn cảnh rối rắm.

- Điện Élysée (Phủ Tổng Thống Pháp) ra thông cáo ca ngợi các tác phẩm của Toni Morrison được hình thành bằng những “đòi hỏi lớn về thơ ca, đạo đức và chính trị." (…) “Là một nhà văn tự do và nổi loạn, bà đã mang vào các tác phẩm của mình cũng như trong các cuộc thảo luận công cộng một tiếng nói mạnh mẽ, dấn thân, quý giá mà sẽ vẫn còn thiếu vắng ở Hoa Kỳ và thế giới.”

- Cựu tổng thống Barack Obama: “Toni Morrison là một tài sản quốc gia, một người kể chuyện hay, quyến rũ, ở bên ngoài cũng như trên trang giấy.”

Không hoặc chưa thấy Tòa Bạch Ốc và tổng thống Trump lên tiếng chia buồn. Có lẽ ông tổng thống này không mấy ưa văn chương. Hơn nữa, Toni Morrison đã từng lên tiếng phê phán Trump. Trong một cuộc phỏng vấn với nhà báo Pháp, Augustin Trapenard (đài phát thanh Pháp France Inter), một ngày trước khi diễn ra cuộc bầu cử tổng thống Mỹ tháng 11/2016, được hỏi cảm tưởng của bà nếu ông Trump đắc cử tổng thống, thì bà trả lời, “Tôi sẽ không cảm thấy mình là một người Mỹ” (Je ne me sentirai plus américaine). Theo bà, khẩu hiệu “Hãy làm cho nước Mỹ vĩ đại trở lại” chỉ có nghĩa là làm cho nước Mỹ trở thành da trắng. Vì ở nước Mỹ, chỉ trừ những người thổ dân Mỹ, tất cả đều là di dân và chính màu da là chất kết chặt nó lại.

Toni Morrison sinh năm 1931 tại Lorain, tiểu bang Ohio, tên thật Chloe Anthony Wofford, là con thứ hai của một gia đình bốn con, lao động nghèo. Lúc còn nhỏ, bà mê đọc những tác phẩm văn chương Âu châu như của Jane Austen và Leo Tolstoy. Sau khi tốt nghiệp cử nhân Anh Văn ở đại học Howard, một đại học danh tiếng của người da đen ở Washington DC năm 1955, và tốt nghiệp cao học tại đại học Cornell năm 1957, bà dạy Anh Văn tại một số trường đại học. Bà kết hôn với một kiến trúc sư người Jamaica, có hai người con, nhưng cuộc sống chung không hạnh phúc. Sau khi ly dị, năm 1965, bà chuyển đến New York làm việc cho nhà xuất bản Random House, trước hết, là biên tập viên sách giáo khoa và sau đó, trở thành trưởng ban tuyển đọc tác phẩm văn chương. Với vai trò này, trong vòng gần 20 năm, bà đóng một vai trò quan trọng trong việc mang văn chương da đen Mỹ và thế giới vào dòng chính ở Mỹ. Một trong những tác phẩm đầu tiên trong loại này là tuyển tập “Văn Chương Phi Châu Đương Đại” (Contemporary African Literature) , trong đó có hai nhà văn xứ Nigeria Wole Soyinka (Nobel văn chương 1986) và Chinua Achebe mà tác phẩm “Things Fall Apart” sau này trở thành kiệt tác của văn chương thế giới. Ngoài ra, bà còn thực hiện một tác phẩm để đời khác là The Black Book (1974), một hợp tuyển đủ loại, từ nhiếp ảnh, tranh minh họa, tiểu luận và nhiều tài liệu khác về đời sống của những người da đen ở Hoa Kỳ từ thời kỳ chế độ nô lệ đến năm 1970. Năm 1983, bà giảng dạy tại hai đại học Tiểu Bang New York. Năm 1984, bà được bổ nhiệm làm chủ tịch Quỹ Albert Schweitzer của Đại học New York ở Albany, nơi bà dạy sáng tác cho các nhà văn trẻ. Từ 1989 đến lúc về hưu năm 2006, bà là giáo sư danh dự (professor emeritus) tại đại học Princeton.

Vào thời gian cuối đời, bà cư ngụ ở Grand View-on-Hudson, New York.

Về sáng tác, Toni Morrison có tất cả 11 truyện dài:

· Bluest Eye (1970): truyện dài đầu tay, kể chuyện một cô gái da đen, lớn lên bị mặc cảm tự ti vì mình không có được đôi mắt xanh như những cô gái da trắng cùng lứa tuổi, nên suốt đời cô chỉ có một ước mơ là có được đôi mắt xanh. Giấc mơ không bao giờ thành, đã thế, cô lại còn chịu đựng một bất hạnh khác khi bị người cha say rượu hiếp dâm đến mang thai, cho nên về sau, cô trở nên điên loạn. Tác phẩm này bị cấm lưu hành trong trường và trong thư viện một thời gian dài vì đề tài dính líu đến chuyện loạn luân và bạo động, chi tiết và ngôn ngữ quá “hiện thực”, không thích hợp với những học sinh nhỏ tuổi.

· Sula (1973): kể chuyện hai người bạn thân Nel và Sula qua những chặng đường đời khác nhau nhằm thăm dò cái thiện và cái ác trong cuộc sống.

· Song of Solomon (1977): kể về chuyến hành trình đi tìm về cội nguồn của một người đàn ông da đen.

· Tar Baby (1981): mô tả một mối tình thuộc loại lý tưởng giữa một cô người mẫu thời trang và một chàng thành niên mới nhập cư không một đồng xu dính túi.

· Beloved (1987): đây cuốn tiểu thuyết nổi tiếng nhất của bà. Truyện lấy cảm hứng từ một câu chuyện thật về một người phụ nữ nô lệ da đen, mà Morrison khám phá ra khi thực hiện tuyển tập “The Black Book”. Sethe, nhân vật chính, mang con mình tìm cách trốn thoát khỏi vùng đất vẫn còn chế độ nô lệ, nhưng không thoát. Trước khi bị bắt, cô tìm cách giết hai đứa con gái của mình chỉ vì không muốn chúng lớn lên để làm người nô lệ như cô, nhưng chỉ giết được đứa con nhỏ hai tuổi. Đứa con này chưa kịp đặt tên, nên khi chôn cất, chỉ ghi trên bia mộ chữ “Beloved” (Con Yêu Dấu). Cô và đứa con gái lớn sau đó được thả, đến được vùng đất tự do. Tuy nhiên, cô và con cái vẫn không được sống an lành như mong ước vì vị hồn ma của “Beloved” ám ảnh, khuấy phá khiến cho hai đứa con trai phải trốn khỏi nhà và đứa con gái đầu trở nên nhút nhát, sợ hãi, thụ động. Hồn ma của đứa bé trở thành biểu tượng ngoại diện của những chấn thương bị dồn ép của những người da đen sống trong xã hội nô lệ, trong đó con người bị đánh mất mình, cá tính bị phân ly, gãy khúc, sống bằng những ám ảnh kinh khủng của quá khứ. Truyện được viết bằng nhiều giọng văn khác nhau, kể cả những độc thoại nội tâm với nhiều hình ảnh và chi tiết sống động. Chính điểm này là một trong những yếu tố khiến “Beloved” được xem như là sự tổng hợp giữa “sức mạnh viễn kiến” (visionary force) và “nội dung dồi dào chất thơ” (poetic import) thể hiện một cách sống động khía cạnh cốt lõi của hiện thực xã hội Mỹ, theo cách nói trong bảng thông báo của Hàn Lâm Viện Thụy Điển, vinh danh và trao tặng giải thưởng Nobel cho bà vào năm 1993. Truyện này được dựng thành phim năm 1998 do đạo diễn Jonathan Demme thực hiện với Oprah Winfrey, phụ nữ da đen lừng lẫy của ngành truyền thông Mỹ, đóng vai chính.

Beloved là tác phẩm đầu tiên trong tác phẩm bộ ba (trilogy) đề cập đến tình yêu và lịch sử của người Mỹ gốc Phi. Hai truyện kế tiếp trong bộ ba này là Jazz (1992) và Paradise (1997).

· Love (2003): viết theo lối phi-tuyến-tính (non-linear) kể chuyện của nhiều phụ nữ và liên hệ tình cảm của họ với một ông chủ khách sạn đột ngột bị chết.

· A Mercy (2008): kể chuyện về tệ nạn buôn bán nô lệ ở Mỹ vào thế kỷ 17.

· Home (2012): kể chuyện một cựu chiến binh trong chiến tranh Triều Tiên, hồi hương, tìm cách cứu em gái khỏi bị hành hạ bởi một bác sĩ da trắng.

· God Help the Child (2015): kể chuyện một cô nhân viên đẹp đẽ có làn da ngăm đen làm việc trong ngành thời trang và thẩm mỹ, nhưng luôn bị ám ảnh bởi những chấn thương từ thuở nhỏ vì bị bà mẹ có nước da sáng hơn hành hạ.

Ngoài truyện dài, bà còn viết kịch, viết sách cho trẻ con và nhiều tiểu luận về các đề tài khác nhau.

Toni Morrison đoạt được nhiều giải thưởng văn chương: Pulitzer Prize (1988), Nobel Prize (1993), National Books Critics Circle Award (1988), Janet Kafka Prize (1977), PEN/Saul Bellow Award (2016),…và nhận nhiều huy chương, trong đó có National Humanities Medal, Presidential Medal for Freedom (2012), vân vân.

Là nhà văn nữ da đen viết từ bối cảnh văn hóa và gốc gác của mình, Toni Morrison đã dành cả đời mình đấu tranh để xác định căn cước của người phụ nữ da đen ở Hoa Kỳ xuyên qua và bằng văn chương. Cùng với những nhà văn đoạt giải Nobel khác như William Faulkner, Gabriel Garcia Marquez hay Saul Bellow, bà “phóng lớn kinh nghiệm riêng của mình và lịch sử riêng của chủng tộc da đen bằng ngôn ngữ và hình tượng sinh động, khiến cho những kẻ hẹp hòi nhất cũng tìm thấy một chút gì của mình trong đó”, theo nhận xét của Gene Seymour trong một bài viết tưởng niệm bà trên CNN. Bà đã đưa ra ánh sáng thân phận khắc nghiệt và tồi tàn, đồng thời chuyển tải một cách sống động bản chất cuộc sống của những người Mỹ gốc Phi, nhất là phụ nữ – vốn là những người vẫn bị đặt ở bên lề trong văn chương cũng như trong đời sống –, từ những tuỉ nhục trong thời kỳ nô lệ cho đến những bất bình đẳng kéo dài cả hơn một thế kỷ tiếp theo, sau khi chế độ nô lệ đã bị bãi bỏ. Chính vì thế, bà được gọi là người đã chuyển đổi khuôn mặt của văn chương Hoa Kỳ bằng cách thể hiện sự tự do bên trong biên giới của chủng tộc.

Hầu hết cốt truyện trong tiểu thuyết của bà lấy chất liệu từ hiện thực lịch sử của người Mỹ gốc Phi, nhưng được chuyển tải bằng cấu trúc huyền thoại và truyền thuyết Phi Châu pha trộn với các chuyện thần thoại Hy Lạp. Vì thế, không khí trong truyện của bà là một pha trộn giữa bạo lực, sự kỳ thị chủng tộc, chế độ nô lệ, tâm lý ghét phụ nữ (misogyny) và những ước mơ mang tính cách thần thoại trong những câu chuyện cổ tích: thanh tẩy, phục sinh, cứu chuộc, vân vân. Theo những nhà phê bình văn chương, các sáng tác của bà là một đan bện và trộn lẫn tài tình giữa huyền thoại, ma thuật và hiện thực. Có lẽ vì thế mà có khi các sáng tác của bà được gọi là thuộc loại “hiện thực huyền ảo”, một nhãn hiệu mà bà không mấy thích.

Mặc dầu tập trung viết về thân phận của phụ nữ như thế, nhưng bà không xem mình thuộc về phong trào nữ quyền. Vì theo bà, “tôi đã không tán thành chế độ phụ quyền thì mắc mớ gì phải tán thành chế độ mẫu quyền.” Được hỏi về sự khác biệt giữa phụ nữ da trắng và phụ nữ da đen, bà cho rằng cả hai rất khác nhau, mà khác nhau lớn nhất nằm trong tương quan giữa người phụ nữ với chồng: về mặt lịch sử, phụ nữ da đen thường che chở cho chồng mình bởi vì đàn ông da đen là những người dễ bị giết nhất khi ra ngoài làm việc để nuôi gia đình. Quả là một nhận xét sắc bén!

Phát biểu về chuyện viết lách, bà cho biết, viết là tình trạng trong đó người ta tìm thấy tự do. “Tôi biết cách viết. Tôi không nghĩ là tôi có thể sống hạnh phúc ở đời này nếu tôi không tìm ra cách suy nghĩ về nó, là viết một cái gì đó cho tôi. Viết là tự kiểm soát. Chẳng có ai can thiệp vào việc của tôi. Nó là của tôi, nó tự do và nó là một cách suy nghĩ. Nó thuần túy là kiến thức.” Mặt khác, bà tin tưởng ở sức mạnh của ngôn ngữ. Phát biểu trong buổi lễ nhận giải Nobel Văn Chương năm 1993, bà nói, “Công việc làm chữ là cao đẹp, (…) nó tạo ý nghĩa bảo đảm cho sự dị biệt của chúng ta, sự dị biệt rất con người của chúng ta – cái cách mà chúng ta sống và sử dụng ngôn ngữ không giống những sinh vật khác. Chúng ta chết. Điều ấy có lẽ là ý nghĩa của đời sống. Nhưng chúng ta làm ngôn ngữ. Ấy có lẽ là sự đo đạc định mệnh đời sống của con người.” (Thường Quán dịch).[1] Dẫu vậy, bà “tin tưởng ở một ngôn ngữ mang tính chính trị hơn là tính thi ca,” theo Emme Goldberg trong một bài viết tưởng niệm Toni Morrison trên New York Times.[2] Thứ văn xuôi trữ tình ít quan trọng đối với bà hơn là những sự thật nhân sinh mà bà đương đầu trong khi viết. Trong sáng tác, bà muốn phục hồi thứ ngôn ngữ mà người da đen đã dùng theo nguyên gốc của nó. Theo bà, ngôn ngữ có thể gây nên chia rẽ và bạo động, hơn thế nữa chính là bạo động. Nhưng bà cũng tin rằng chúng ta có thể dùng ngôn ngữ để giải phóng bằng cách kể lại những câu chuyện mà từ lâu bị ném vào quên lãng.

Chào vĩnh biệt Toni Morrison, một tài năng Đen hiếm quý!

TDN

(8/2019)

__________________

Tài liệu tham khảo:

- Wikipedia.

- Washington Post,

https://www.washingtonpost.com/entertainment/books/toni-morrison-not-only-remade-american-literature-she-challenged-us-to-resist-the-tenacity-of-racism/2019/08/06/45281976-b869-11e9-b3b4-2bb69e8c4e39_story.html

- The Week”,

https://theweek.com/articles/857248/toni-morrisons-legacy-language

- Vulture,

https://www.vulture.com/2019/08/toni-morrisons-nobel-prize-speech.html?utm_source=undefined&utm_medium=undefined&utm_campaign=feed-part

- CNN,

https://www.cnn.com/2019/08/06/entertainment/toni-morrison-dead/index.html

- Union Journalism,

https://www.unionjournalism.com/2019/08/06/the-decorated-novelist-and-nobel-prize-laureate-toni-morrison-died-at-88/

- Le Monde,

https://www.lemonde.fr/disparitions/article/2019/08/06/l-ecrivaine-americaine-toni-morrison-prix-nobel-de-litterature-est-morte_5497118_3382.html

- Da Màu,

https://damau.org/13876/toni-morrison

- Le Figaro,

http://plus.lefigaro.fr/tag/toni-morrison

- New York Times, “Don’t call Toni Morrison a Poet”,

https://www.nytimes.com/2019/08/06/opinion/death-toni-morrison.html

- Embassy of France in Washington, D.C.

https://franceintheus.org/spip.php?article9214

[1] https://damau.org/14142/dien-tu-nobel

[2] “Don’t call Toni Morrison a Poet”,

https://www.nytimes.com/2019/08/06/opinion/death-toni-morrison.html