Danh ngôn

Trong mọi cộng đồng, chúng ta cần một nhóm thiên thần gây rối.

We need, in every community, a group of angelic troublemakers.

(Bayard Rustin – trích bài phát biểu tại New York City 1963)

Trong mọi trường hợp, chắc chắn rằng sự thiếu hiểu biết, đi kèm với quyền lực, là kẻ thù tàn bạo nhất có thể có của công lý.

It is certain, in any case, that ignorance, allied with power, is the most ferocious enemy justice can have.

(James Baldwin - No Name in the Street 1972)

Các cuộc cách mạng và các cá nhân có thể bị giết hại, nhưng bạn không thể giết chết các ý tưởng.

While revolutionaries and individuals can be murdered, you cannot kill ideas.

(Thomas Sankara, một tuần trước khi bị ám sát, 1987)

Không có cảm giác nào cô đơn hơn việc bị chính đất nước mình trục xuất.

There's not a more lonely feeling than to be banished by my own country.

(Kiyo Sato – Kiyo’s Story 2009)

Ban Biên tập

Địa chỉ liên lạc:

1. Thơ

tho.vanviet.vd@gmail.com

2. Văn

vanviet.van14@gmail.com

3. Nghiên cứu Phê Bình

vanviet.ncpb@gmail.com

4. Vấn đề hôm nay

vanviet.vdhn1@gmail.com

5. Thư bạn đọc

vanviet.tbd14@gmail.com

6. Tư liệu

vanviet.tulieu@gmail.com

7. Văn học Miền Nam 54-75

vanhocmiennam5475@gmail.com

Tra cứu theo tên tác giả

Thứ Tư, 21 tháng 8, 2019

Nhà ta ở phường Hà Khẩu

Truyện Ngộ Không Phí Ngọc Hùng

Dẫn nhập: “Trần Thủ Độ soán ngôi nhà Lý, Lý Long Tường con thứ của Lý Anh Tông (1138-1175), mang đồ thờ tế lễ ra biển cửa Thần Phù, Thanh Hóa. Sau đến bến Phú Lương Giang, tỉnh Hoàng Hải (Hwang Hac) thuộc bắc Cao Ly năm Bính Tuất 1226 và được Cao Tông (Kojong) cho định cư ở đây.

Đoàn tùy tùng họ Lý lập lên ba làng Giao Chỉ, Đại Việt và Đinh Hải có luỹ tre bao bọc và đình Vọng Cố Hương, với kiến trúc đời Hậu Lý. (Sở Cuồng Lê Dư, năm 1908 là người đầu tiên tìm ra gốc tích và chuyến vượt biển tị nạn của Lý Long Tường).


clip_image002[4](đình Vọng Cố Hương)

***

Một ngày ở Bình Nhưỡng, Bắc Cao Ly năm 2075.

Cụ Lý đi ra đi vào từ sáng đến giờ vì vừa tìm được từ thư tịch dòng họ Lý, bài viết cách đây đúng 100 năm (1975) có tựa đề Hà Nội một thoáng hương xưa của cụ Ngộ Không. Với niềm u hoài vọng cố hương, cụ bấm đốt ngón tay đến đời cô Chiêu đã 27 thế hệ. Cụ Lý như bị thôi thúc từ cầu sấm truyền Lý đi rồi Lý lại về, nên cụ có giấc hương quan mơ luống mẫn canh dài dẫn cô con gái rượu về đất tổ của dòng họ Lý, làng Cổ Pháp, Trấn Kinh Bắc. Riêng Thăng Long với thành quách xưa, nhờ gối đầu trên giá sách bấy lâu nên huyễn sử hay giai thoại, nói cho ngay với cụ như cá bỏ giỏ cua.

Cụ và cô con lay lắt ở Bắc Ninh cả tháng trời, mấy bữa rày mới có mặt ở nhà từ đường thuộc chi cụ cố tổ Lý Long Tường bên Quảng Bá. Họ hàng xa gần, nhánh này tông kia tấp nập đến thăm. Mãi sáng nay, hai bố con lần mò theo con đường làng Nghi Tàm, mái tranh mảnh vườn, gì cũng lạ lẫm với cô con. Chỉ khoảng xa trước mặt, cụ nói chuyện với cô Chiêu như nói chuyện với người bạn vong niên lâu ngày không gặp.

Cố đô Thăng Long có làng mạc bao bọc chung quanh. Vua quan sống trong hoàng thành, làng mạc rải rác như làng Kẻ Noi, làng Kẻ Mơ… Thấy cô con ngó quanh quẩn chả thấy bóng dáng kẻ này, kẻ nọ đâu, cụ ôn tồn giải lẽ: “Kẻ” tiếng Việt cổ chỉ nơi chốn, rồi gọi là làng. Phố ở Thăng Long khởi đầu chỉ có hai phố Hàng Bừa, Hàng Cuốc, sau có thêm ba phố Hàng Đào, Hàng Ngang, Hàng Đường là phố chính của phố cổ được gọi là Kẻ Chợ.

clip_image004[4](Hồ Tây - Charles-Édouard Hocquard 1886)

Vừa xong chuyện làng mạc tới đường Cổ Ngư.

Năm 1620, đời Lê Thần Tôn, dân hai làng Yên Phụ, Yên Quang đắp đập chắn ngang hồ Dâm Đàm, và đặt tên đập là “Cố Ngự yển”. Hán tự cố là vững bền, ngự là chống giữ, yển là đập. Đường này vì giống cổ ngựa nên dân làng gọi trại là ”Cổ Ngư”. Năm 1573, Lê Thế Tông vì tên húy của vua là Duy Đàm, nên đổi tên là Tây Hồ. Hồ còn giai thoại đổi tên khác nữa, nhưng ấy là chuyện sau.

Chỉ con đường nhân gian trước mặt, cụ dông dài…

Nếu Thăng Long xưa là nơi chốn của nghìn năm văn vật thì Tây Hồ là đất văn học. Dưới bóng mát của một thời xa xưa, bà Huyện Thanh Quan quê làng Nghi Tàm, thời Minh Mạng, bà được vời vào kinh giữ chức Cung trung giáo tập dạy công chúa, cung phi. Qua đèo Ngang, cảnh đèo Ngang bóng xế tà, không làm bà nguôi ngoai cảnh Tây Hồ với một vũng tang thương nước lộn trời. Vì hành cung Trấn Quốc không còn nữa, chỉ còn chùa Trấn Bắc (Thiệu Trị đổi tên). Bà mất ở quê nhà, nay chẳng ai hay biết mồ hoa cỏ lục ở đâu.

Lại nữa, thuở trời đất nổi cơn gió bụi, khách má hồng nhiều nỗi truân chuyên, chẳng ai hay ở nơi chốn này có thêm phần mộ của bà Đoàn Thị Điểm. Bà theo chồng làm quan ở Nghệ An và mất ở đấy. Thi hài được mang về quê chồng Bắc Ninh, quê tổ ta. Nhưng đến Thăng Long, vì chiến chinh nên đành phải an táng ở Tây Hồ. Mộ chí bà sau bị đất lở, đất chuồi nên nay không còn dấu tích. Năm 1982, mộ bà tình cờ được đoàn quay phim Hà Nội trong mắt ai tìm ra ở dưới một đống rác của làng Nghi Tàm.

Giọng cụ đều đều về một cõi xa xăm…

Ngôi nhà của nữ sĩ họ Hồ là Cổ Nguyệt đường cũng ở làng Nghi Tàm, nơi đó bà từng tiếp các bạn thơ phú như Nguyễn Du, Tốn Phong… Cũng như bà Đoàn Thị Điểm, bà theo chồng là Trần Phúc Hiển làm quan tại Quảng Yên và mất ở đấy. Ba năm sau, di cốt đưa về chôn ở nghĩa địa ngay sát Hồ Tây. Nhưng vì đất chuồi cát lở, nghĩa địa chẳng còn dấu tích. Nhưng may có nhà ngoại cảm tìm ra mộ bà nằm đâu đó dưới đáy Tây Hồ.

Chỉ chùa Kim Liên gần nhà bà họ Hồ, cụ đắng đãi ấy là nơi “người tự trăm năm” thường đi lại. Bài Quá Kim Liên tự, trong Đông dã học ngôn thi tập của người tự trăm năm, ông viết: Bèo dạt làm thân khách cố kinh/ Kim Liên qua lại đã bao lần. Trong Tang thương ngẫu lục có bài ký tả cảnh chùa Kim Liên: "Mùa thu năm Đinh Tỵ (1797) tôi cùng các ông Nguyễn Thạch Hiên, Hoàng Hy Đỗ… đến vãn cảnh chùa Kim Liên ở làng Nghi Tàm”. Bài viết ký bút hiệu Tùng Niên, ngày ấy người tự trăm năm cùng các bạn đến thăm Cổ Nguyệt Đường và Xuân Hương, khi ra về ghé thăm cảnh chùa Kim Liên.

Bỗng không cô Chiêu lay lắt cụ Lý cứ tang thương ngẫu lục hết bà Hồ Xuân Hương đến bà Đoàn Thị Điểm. Vậy chứ còn “người tự trăm năm là ai? Cụ đáp là người viết truyện Nhà ta ở phường Hà Khẩu. Cụ định cho cô con biết thêm nữa thì vừa lúc…

Đến chùa Trấn Quốc, cụ ngược dòng lịch sử: Thời Bắc thuộc, Lý Bí quê ở Thái Bình, năm 544 đánh bại quân nhà Lương, lấy đế hiệu là Lý Nam Đế, đặt tên nước là Vạn Xuân, đóng đô ở thành Long Biên ở cửa sông Tô Lịch. Ngoài ra Lý Nam Đế còn xây chùa Khai Quốc nghĩa là mở nước ở sát bờ sông Cái. Đời Lê Kính Tông vì bãi sông lở, vua dời chùa vào hòn đảo Cá Vàng ở Tây Hồ hiện nay và đặt tên là chùa Trấn Quốc.

Đi hết đường Cổ Ngư, cụ đưa cô con tới đền Trấn Vũ…

Năm 1676, chúa Trịnh cho đúc tượng thờ Huyền Thiên Trấn Vũ, một trong bốn vị thánh trấn giữ bốn cửa ngõ của thành Thăng Long vì vậy còn có tên khác là Quán Thánh. Tượng Trấn Vũ trong đền đúc bằng đồng đen có hình dáng một người ngồi, chân không giày dép, tay chống gươm lên lưng rùa. Năm 1821, vua Minh Mạng đổi tên là Chấn Vũ Quán.

Đến tao đoạn này, cụ dàng dênh với cô con:

Với những đổi thay, thầy mới thầm phục vua Quang Trung khi có mặt ở Bắc Hà. Có một ông tiến sĩ họ Đỗ, để lấy lòng vua mới, xin đổi hồ ra tên khác, ngài trả lời:

“…Tây Hồ là thắng cảnh của người Thăng Long, người Thăng Long vẫn yêu mến và lưu luyến Tây Hồ, lẽ nào nay vì trẫm lại đổi tên đươc. Khách Tây Sơn, cảnh Tây Hồ, cũng là duyên kỳ ngộ, cảnh chẳng phụ người, làm sao người phụ cảnh…”.

Ra cổng, trong khi ngồi đợi bánh tôm Hồ Tây, cô dẽ dàng chuyện đổi tên, cụ lụi đụi:

Năm 1802, vua Gia Long cử Nguyễn Văn Thành làm tổng trấn miền Bắc và đổi thành Thăng Long là Bắc Thành. Nhưng nguồn khác từ văn thư tấu lên vua Quang Trung, Ngô Thì Nhậm viết Thăng Long là Bắc Thành, từ đó trong văn học sử Thăng Long được gọi là Bắc Thành để thành tên. Như thầy vừa đảo qua vừa rồi vua Quang Trung nói: Tây Hồ là thắng cảnh của người Thăng Long, (…), lẽ nào nay vì trẫm lại đổi tên hồ được. Không như vua Minh Mạng năm 1832 hết đổi Tây Hồ thành Hồ Tây đến Bắc Thành thành Hà Nội.

Cụ Lý như lạc đường vào lịch sử…

Nhân mùa thu năm 1010, tiên đế Lý Thái Tổ ta về Cổ Pháp thăm quê. Nghe lời khuyên của Sư Vạn Hạnh dời đô về thành Đại La, nên mới có Thăng Long thành. Năm 1475, sông Hồng bao quanh Thăng Long đê bị vỡ, cả kinh thành lụt lội ngập dưới nước. Tiếp đến vua Lê đốt phủ chúa Trịnh nên Thăng Long khói lửa ngập trời. Vì hỏa tai, lụt lội, đất bồi từ sông Hồng bao thế kỷ nên một phần phế tích của Hoàng thành nằm sâu trong đất bùn.

Người tự trăm năm để giấy bút lại trên giấy thô mực cạn…

“…Kinh đô Thăng Long thời ấy chỉ có mười lăm ngàn dân, sống trong một cái thành nhỏ, vài ba phố phường và mươi làng mạc bao bọc chung quanh. Nhưng đến cuối đời Lý bắc qua đời Trần, dân đổ dồn về thị tứ lên tới bốn chục ngàn người, sách An Nam ký truyện của sứ thần Trung Hoa đã miêu tả: Từ cửa Đông Hà Môn, phải chen chúc, chật vật len lỏi lắm mới tới được bến cảng, thuyền bè tấp nập đi lại trên sông Hồng như lá tre…”.

Từ “mươi làng mạc bao bọc…”, cụ đưa cô con đi từ đường làng tới ngõ:

Như con biết đấy, từ con đường làng Quảng Bá, Nghi Tàm, những con ngõ Hà Nội khởi đi từ vết trâu đái ngoằn ngòeo để có con đường làng hình thành từ làng quê. Dấu ấn làng hiện rõ nét nơi ngõ ngang ngõ dọc uốn lượn, quanh co từ làng này qua làng kia. Nói về đường làng trong lòng một Hà Nội sầm uất để hoài niệm, để lắng nghe tiếng gọi của Thăng Long ngàn xưa qua những con ngõ nhỏ. Hà Nội có nhiều ngõ, thậm chí ngõ nối ngõ, trong ngõ còn có ngách vừa đủ trâu đi. Có ngõ ngoằn ngoèo như một mê cung, thấy phía trước một ngôi nhà, ngỡ ngõ đến đó là hết lại thấy khoảng sáng nơi ngõ tiếp tục kéo dài lắt léo. Nhiều khi vào trong con ngõ vắng gặp cái cổng tam quan chơ vơ còn sót lại mà chẳng thấy chùa chiền đâu. Ngõ là nơi ẩn chứa những bất ngờ mà chưa có ai kể cho hết.

Thời Hậu Lê, đài Khâm Thiên là nơi để cơ quan Giám làm việc, tức các quan văn xem thiên văn cho nhà nông cày cấy. Nhưng các quan không đoán thời tiết, sau này xóm Khâm Thiên chính là… xóm cô đầu. Thế nhưng mấy ai hay biết phố cô đầu cổ xưa nhất lại là phố Hàng Giấy. Tiếng đàn, nhịp phách, giọng ứ hự chỉ còn phảng phất trong ca dao một thời Trải qua hàng Giấy dần dần/ Cung đàn nhịp phách nên xưa bốn mùa và mãi gần đây xóm cô đầu một thời với tùng, chát mới dọn xuống ngõ Cống Trắng - Khâm Thiên, ngõ Yên Thái ở phố Hàng Mành.

Đang qua giấc hương quan mơ luống mẫn canh dài với những ngõ ngách, chợt cô Chiêu gọ gạy ngẫu sự gì có tên ngõ Cấm Chỉ. Cụ cho hay khi Lê Trang Tôn thời Hậu Lê chưa làm vua vì ăn tiêu phung phí nên nợ ngập đầu. Khi lên ngôi, các con nợ đòi tiền, có người ở con ngõ ấy được trả rồi nhưng cứ đòi mãi. Các quan trả nợ cho vua ra lệnh “Cấm chi” không được đòi tiền nữa. Từ đó con ngõ ấy có tên Cấm Chỉ. Từ giai thoại này, dân gian có câu Nợ như chúa Chổm là thế. Cụ cuời hụt mà rằng chuyện Chúa Chổm chỉ là huyễn sử vì đời thuở nào dân dám đòi nợ vua. Mà đã là vua sao còn là chúa nữa.

Trở lại với cô con bên hàng quán, những chiếc bánh tôm vừa chín tới, vàng ngậy giòn tan. Cô chấm nước mắm ngâm đu đủ, cà rốt ngâm dấm thanh với đường và ớt khô, mà người Hà Nội gọi là nước mắm chua. Vừa ăn cô vừa dục dặc ngon hơn kim chi củ cải với ớt bằm nhiều. Xong bữa, cô nắm tay bố và hỏi khẽ: Bây giờ, mình đi đâu thầy.

Cụ trả lời: Nhát nữa, ta vào Văn Miếu…

Vừa rời con đường Cổ Ngư, cụ Lý quay đầu lại nhìn đường xưa lối cũ. Nhìn con đường nhân gian trước mặt, cụ thủ thỉ với cô con: Cách đây một khoảng ngắn, bên tay mặt là Chùa Một Cột, thầy không đưa con vào vì nay không còn nét u mặc như thời nhà Lý ta nữa. Năm 1049, chùa được xây trên trụ đá cắm sâu xuống lòng đất. Mãi đến năm 1105, tức 56 năm sau, khi trùng tu Chùa Một Cột lần thứ nhất, nhà Lý mới đào hồ ở chung quanh và trồng sen. Vì vậy chuyện Lý Thái Tông nằm mơ thấy Phật Quan Âm ngồi trên tòa sen đưa tay dắt vua lên tòa, tỉnh dậy vua cho xây chùa giữa hồ sen là truyền thuyết sau này.

Bỗng không cụ lậu bậu một mình vừa đủ cho cụ nghe, vì cô con cụ có chuyện đáng hỏi lại không hỏi: Như năm 1954 di cư, chẳng biết bàn tay nào đấy đặt chất nổ giật sập Chùa Một Cột. Cứ theo lời đồn đãi có phe nhóm nào nào đó chỉ sợ Lý đi rồi Lý lại về. Cụ ngẫm nguội lời đồn như vậy đấy, cụ chỉ nghe hơi nồi chõ vậy thôi.

Hai bố con cụ thong dong bước qua Văn Miếu môn. Cụ lắng đọng trong không gian tĩnh mịch một thời với khoa cử ở mảnh sân có hai dãy bia đá trơ gan cùng tuế nguyệt. Cụ Lý và cô Chiêu, một già một trẻ, lặng lẽ tìm tên những ông nghè của dòng họ trên mỗi tấm bia. Ra khỏi Văn Miếu, cụ rỉ rả với cô con rằng đằng sau Văn Miếu là phố Tràng Thi, nơi tổ chức các kỳ thi cho sĩ tử. Thời Lý - Trần văn học sử ta không nói rõ đặt trường thi tại đâu nhưng tời thời Lê, trường thi Hương ở ngay cạnh Văn Miếu. Trường thi được lập ở bãi đất trống chỉ có rào tre nứa, sĩ tử phải đem lều vào dựng che mưa nắng, đem chõng ngồi viết. Có phố Tràng Thi thì có phố Mã Vĩ bán mũ áo cho các quan nghè vinh quy bái tổ, phố Hàng Đàn làm võng kiệu, phố Hàng Lọng làm lọng. Thợ rèn có đe, ông nghè có bút để chẳng thiếu vắng ngõ Trạng Trình, ngõ Văn Chương, ngõ Văn Chỉ.

Hai bố con cô Chiêu dong ruổi trên những con đường Hà Nội một thoáng hương xưa lát đá xanh nhỏ hẹp. Đến Bắc môn vẫn còn dấu hai vết đạn thần công của người quan ngoại để lại. Cô Chiêu dắng tiếng về những thăng trầm của một Hà Nội cũ.

Cụ gật đầu tắp lự…

Khu phố xưa cũ được dựng lên thời nào không rõ, phần lớn mang tên gọi của các mặt hàng tại đó như những phố hàng ngày nay. Nhưng không ai rõ ngày ấy thế nào, chỉ biết nhà cửa sắp xếp tương tự nhau như gian ngoài bày cửa hàng, kê tiếp sân lộ thiên để lấy ánh sáng. Người xưa đã sắp xếp thành một dấu ấn đầy khăng khít, gắn bó kề tựa nhau mà tồn tại, sinh sôi với tứ đại đồng đường hay tam đại đồng đường...

Theo nhà văn Hà Nội 36 phố phường: “…Bên này cửa hàng tạp hóa đầy đủ quả sơn đen, chồng giấy bản, ống bút nho. Bên kia nhà ông cụ Tú, có tiếng trẻ học vang vang, có cậu học trò xinh trai đứng hầu chè thầy bên trảm kỷ. Giữa nhà, mảnh sân vuông lộ thiên, có bể non bộ, có dãy chậu lan, trên tường có đôi câu đối chữ nho. Hà Nội đã thay đổi nhiều lắm, những phố cũ hẹp và khuất khúc, với những nhà ống thụt ra thụt vào, mái nhà ngói âm dương, tường đi xuống từng bực như cầu thang, những cửa sổ nhỏ bé và kín đáo…”.

Khi người quan ngoại tới lập thành phố Hà Nội với khu phố Tây, khu phố được gọi là phố cổ bây giờ. Họ phải mất ba năm, từ năm 1894 đến 1897 để đập phá Bắc Thành, san bằng điện Khán Sơn. Ấy là chưa kể thời Gia Long dời đô vào Huế, Hoàng Thành bị thu hẹp lại, phá cổng Tường Phù, nay còn mảng tường ở số 38B phố Hàng Đường. Ở phố cổ ngày nay được làm vỉa hè, thêm gác lửng nhưng thấp và không mấy khi trổ cửa sổ, làm mất đi bóng dáng của một thời đã qua vẫn còn lưu lại ở cái không gian đậm đà hương vị cổ. Một số nhà được dựng lên theo kiểu Tây, như ngôi nhà cổ số 3 Hàng Khay vẫn còn số năm xây dựng 1886. Vì vậy phố cổ vẫn là một hoài niệm mà người xưa gửi lại cho người sau.

Bỗng dưng không đâu, cô con nói dám: “Hà Nội có năm cửa ô phải không thầy?”. Cụ Lý được thể gà cỏ trở mỏ về rừng: Cứ theo người viết truyện Nhà ta ở phường Hà Khẩu thì đầu thế kỷ XIX, sách Bắc Thành địa dư chí cho biết Hà Nội có 21 cửa ô. Thuở ấy mỗi cửa ô là cửa ngõ vào thành Thăng Long có trạm gác, hào chông bao bọc.

Cô con lại dón chuyện về người viết truyện Nhà ta ở phường Hà Khẩu là người thế nào? Cụ đành ậm ừ ông ta viết về cái nhà của ông ở phường Hà Khẩu, ông viết chuyện đời mình, viết về thời chúa Trịnh. Giống như thời chúa Trịnh Sâm, cụ Hải Thượng Lãn Ông Lê Hữu Trác viết Thượng kinh ký sự: Năm 1782, cụ Lãn Ông từ Hà Tĩnh ra Thăng Long, đi qua cửa ô Cầu Dền có tả lại như sau: "…Thấy một toà thành đất, không cao lắm. Trên thành là đường xe ngựa. Ngoài là hàng rào tre. Dưới chân là hào sâu, có thả đầy chông. Thành có ba vọng canh, nơi nào cũng có lính sắp hàng gươm dáo sáng quắc…".

Cụ Lý và cô Chiêu như lạc đường vào sử thi vạn khổ thiên lao với Thăng Long từ thời vua Lê chúa Trịnh đến Hà Nội hôm nay:

Vua quan hay ra hồ câu cá như Lã Vọng nên hồ có tên hồ Tả Vọng. Sau khi đuổi được họ Mạc ra khỏi Thăng Long, năm 1593 chúa Trịnh cho sửa sang qua loa hoàng thành cho vua Lê. Nhà chúa dựng phủ chúa bên ngoài hoàng thành với những cung điện lớn lao như Phụng Thiên phủ và Vương phủ riêng ở hai bên tả hữu hồ Tả Vọng. Cung Thủỵ Khánh trên đảo Ngọc Sơn, đình Tả Vọng trên gò đất nổi nay là gò rùa.

Chỉ tay cái gò đất xa xa, cụ gật đầu tắp lự…

Nhưng theo người tự trăm năm thì đảo chỉ to bằng bốn, năm chiếc chiếu nên không có đình quán nào cả. Thời Lê hồ chỉ bé con con bằng cái ao. Cụ thở ra với cô con: Bởi vậy chuyện vua Lê trả gươm cho con rùa nên xem lại vì chỉ là huyễn sử.

Cụ lọ mọ: gò trước kia là đất tư của chánh tổng Đông Thọ, tên Nguyễn Bá Kim. Năm 1884, ông chánh tổng ngắm miếng đất có dáng miệng rồng nên đắp đất nới rộng gò thêm hai mét và cho xây cái tháp, định đem hài cốt của bố ông táng vào đó. Ông theo đạo Thiên Chúa nên xây tháp theo kiểu tháp chuông, với kiến trúc Gô-tích, không có lưỡng long chầu nguyệt của đền chùa. Việc cải táng không thành. Năm 1886, ông tặng người quan ngoại cái tháp ấy. Cụ bụng bảo dạ, cụ Ngộ Không viết truyện Hà Nội một thoáng hương xưa nên cụ ấy vẽ chuyện ông chánh tổng khi đang là lý trưởng, ông lấy vợ. Sau vợ ông lấy chồng Tây đóng quan tư nên có tên cô Tư Hồng. Năm 1890, cô Tư Hồng trúng thầu phá tường thành Hà Nội trở nên giàu có như ông bá hộ Kim, cô có hình ảnh do Tây chụp lưu trữ ở bên Tây.

Lúc này đây cụ mới dều người ra…

clip_image006[6]

(Charles-Édouard Hocquard 1886)

Nói cho ngay, hồ giống một cái ao lớn. Chung quanh eo sèo dăm mái nhà tranh vách đất trên một vạt đất được gọi là đất Chó ỉa. Cầu gỗ qua ảnh chụp của ông Tây Hocquard chỉ thấy dăm tấm ván dày thô, tấm còn tấm mất. Còn đảo gần sát hồ xưa kia gọi là Tượng Nhĩ Sơn, tức núi tai voi. Đảo có một gian miếu nhỏ bằng nứa lợp tranh thờ Hà Bá. Vua Lý Thái Tổ ta dời đô về Thăng Long đổi tên là núi Ngọc Tượng, đời Trần đổi thành đền Ngọc Sơn. Thời chúa Trịnh, người Hoa Kiều dựng ngôi đền nhỏ thờ Quan Công. Minh Mạng năm 1838, có người làng Nhị Khê bỏ tiền cất thêm đền thờ Đức Thánh Trần, Lã Đồng Tân, điện Văn Xương Đế Quân, nơi các thầy đồ tới xin xăm trước khi đi thi.

Đời Tự Đức, Nguyễn Văn Siêu nối bờ với đảo, làm cầu đặt tên Thê Húc, nghĩa là giọt ánh sáng đậu lại. Trên bờ ông xây Tháp Bút, trên tháp khắc ba chữ Tả thanh thiên với nghĩa viết lên trời xanh trích trong câu lăng tàng trường kiếm ỷ thanh thiên của cụ Nguyễn Du. Nghĩa bóng nhắc đến vua Quang Trung đánh bại vua quan nhà Thanh với Tả Thanh thiên tử. Cụ thở ra như tiếng thở dài với cô con: Văn như Siêu, Quát vô tiền Hán thì ông Nguyễn Văn Siêu nào cần gì vay mượn câu Tả thanh thiên của cụ Nguyễn Du. Lại nữa ông từ quan ở Hưng Yên về Thăng Long mở trường dạy học ở ngõ Trạm, tức ông chỉ là thầy đồ nên chuyện ông nhảy bổ ra bắc cầu xây tháp nên xem lại.

Trước khi hai bố con đặt chân vào phố cổ của Hà Nội 36 phố phường, cụ hóng mắt về phía tháp Hòa Phong. Ở đấy xưa kia có ông Tàu già bán phá-xa quanh quẩn ở bên tháp. Ông Tàu già đeo trước bụng một cái thùng thiếc bao lớp vải bông để ủ cho lạc rang lúc nào cũng ấm. Cái thứ lạc trộn húng lìu được rang lên đều nhai giòn tan. Vào những chiều đông lạnh, ông Tàu già đứng tránh gió trong lòng tháp. Cũng như cụ, cô con quay lại nhìn hồ Gươm. Cụ dài một vắn hai với cô: ở phía nam hồ Gươm có phố Hàng Kèn, có phường kèn trống bát âm cho đám ma. Còn đòn và người khiêng đòn đám ma ở phố Hàng Hòm vì kiêng cái hòm nên họ gọi là phố Lò Sũ. Cụ đảo qua phố Hàng Hòm vào thập niên 1920, mấy bác đô tì quấn khăn đầu rìu, quần xắn móng lợn, chân đất vỗ bèn bẹt ngồi trên chõng tre, tì tì đánh chén mộc tồn, chỉ xơi độc một món móng chó hầm.

Bước vào phố cổ, vừa đi cụ vừa lá vàng rơi trên giấy với cô con…

Phố đầu tiên của phố cổ Hà Nội là phố Hàng Bừa, Hàng Cuốc vốn chỉ là một mái nhà tranh vách đất, một cửa hàng với cái chõng tre nằm trên con đường đất, nay gộp lại là phố Lò Rèn cắt ngang phố Chả Cá. Nên cũng không thiếu những phố chẳng dính dáng đến nghiệp ngão, hàng họ như phố Hàng Mãn bán mèo, nhưng chả thấy mèo đâu…

Hai bố con chuyện trò quan tài, chó mèo vừa lúc tới cửa ngõ phố cổ Hà Nội.

Đi hết ba con phố liền nhau Hàng Đào, Hàng Ngang, Hàng Đường tới chợ Đồng Xuân. Theo Tuỳ bút lục của người tự trăm năm: phố Hàng Đào thời trước nhà hình ống, mái ngói nhô ra thụt vào. Đường đất gồ ghề, rất hẹp, không có vỉa hè, ngày nắng bụi mù, ngày mưa lầy lội. Đêm khuya hàng đàn chuột chạy hai bên đường tìm nước uống.

Bước qua phố Hàng Ngang, cô con hỏi bố chuyện ngang ngang thời chúa Trịnh…

clip_image008[5]Ở Thăng Long, người Quảng Đông bị tập trung trên một đường. Nhà chúa cho dựng điếm canh, tuần phu thay phiên nhau với dây đòn, câu liêm, thang tre, thùng gánh nước để phòng hỏa hoạn. Việc túc trực nơi điếm canh rất phiền nhiễu. Sau nhà chúa phá bức tường điếm canh ấy đi, tối đến cho kéo ngựa gỗ chắn ngang hai đầu phố nên mới có tên phố Hàng Ngang. Phố này, theo Dư địa chí của cụ Nguyễn Trãi gọi là phố Đường Nhân tức phố người Đường bán áo diệp. Đại Nam nhất thống chí gọi là phố Việt Đông vì có nhiều người Quảng Đông (rue des Cantonnais).

Đi hết phố hàng Ngang, rẽ phải tới phố Hàng Buồm.

Hai bố con lững thững đi trên phố Hàng Buồm về hướng sông Tô Lịch và sông Hồng. Làm như không cô Chiêu ở bên cạnh, cụ Lý thả hồn về một nơi chốn nào đó...

Xa xưa, người tự trăm năm là Phạm Đình Hổ (1768-1839) một danh sĩ Hải Dương sống vào thời Minh Mạng cùng thời với bà Hồ Xuân Hương. Trong dịp ra Hà Nội, Minh Mạng phong ông làm Tế tửu Quốc tử giám Thăng Long, Qua Vũ trung tùy bút, trong đêm mưa giữa kinh kỳ gió táp mưa sa ông đã phóng bút Nhà ta ở phường Hà Khẩu.

Đang lá vàng rơi trên giấy đến đây, thấy mặt cô con búi bấn trông thấy, cụ bòn vót…

Phạm Đình Hổ đây không phải Chiêu Hổ cợt nhả với bà chúa thơ Nôm “Rày thì đù mẹ cái hồng nhan”. Vì ông là một ngưởi “mực thước, khắc khổ, nhạt nhẽo”, ông “rất ghét thanh sắc, cờ bạc, và chuyện bỡn cợt”. Chuyện Chiêu Hổ với bà họ Hồ do thiên hạ dựng lên nào khác gì cụ Ngộ Không. Cụ ngộ này, cụ Lý sẽ ba điều bốn chuyện với cô Chiêu sau.

Chuyện bây giờ cụ đường mưa ướt đất…

Hà Khẩu, tên cũ là Giang Khẩu bên sông Nhị và sông Tô Lịch. Ở Hà Khẩu người Tàu hầu hết sống bằng nghề liên quan đến sông nước như làm buồm cho thuyền bè, một thứ mành mành đan cói, nẹp tre. Dọc theo phố Hàng Buồm, cụ dẫn cô con đi tìm căn nhà của người tự trăm năm ở phường Hà Khẩu, trước nhà trồng một cây lê và hai cây lựu phải chặt đi. Vì cây lê và hai cây lựu không còn nữa nên chả thấy nhà đâu.

Ngược Hàng Buồm về lại phố cổ, băng qua Hàng Đường, là phố Phúc Kiến.

Cụ rì rầm với cô con phố có một thời tên là phố Thuốc Nam, nay là phố Lãn Ông mà một thời cụ Hải Thượng Lãn Ông từ Hà Tĩnh tới Thăng Long chữa bệnh cho Trịnh Cán mua thuốc ở đấy. Cụ lại vay mượn nhà văn Hà Nội 36 phố phường về cụ Lãn Ông.

“…Ta không biết được mấy về dĩ vãng, về phố xá kinh thành hồi cụ Lãn Ông, một túi thơ một bồ thuốc, từ Bát Tràng đến Thăng Long thành bốc thuốc ở Vạn Thảo Đường phố Hàng Ngang, chữ son sắc nước đỏ tươi, bay bướm nửa chân nửa lệ. Bây giờ ở phố Hàng Đường, cũng có ba chữ Vạn Thảo Đường, nhưng được viết bằng lối chữ vuông tân thời…”.

Đi thêm vài bước nữa tới phố Hàng Sơn, trước năm 1910 phố nhỏ hẹp vừa một chiếc xe tay. Năm 1887, đổi tên là phố Chả Cá do họ Đoàn bốn đời làm món chả cá ở số 14. Trở lại với cụ Ngộ, cụ Lý chép miệng cái tách rằng cụ Ngộ Không khéo rách chuyện: Chuyện là quán nằm trên gác, ngay đầu cầu thang, dưới đất thờ ông thần tài, khách vô tình đá vỡ bức tượng. Chủ quán thay vào tượng ông Lã Vọng rồi thành tên. Cho tới giờ bức tượng ông Lã Vọng tay cần câu, tay xâu cá vẫn còn ngồi ở ngôi nhà cổ trên gác lửng ấy.

Hai bố con lên gác lửng và ngồi trên sập gụ bày sẵn cái hỏa lò đang đỏ lửa. Những miếng chả cá mầu nghệ tươi như hoa hiên cặp lại từng gắp tre cật hơ trên lửa than quả bàng. Gắp miếng chả cá thơm phức vào bát, cụ ăn cơm mới nói chuyện cũ.

Cụ đụng bát đụng đũa với cô con về phường Bích Câu…

Phố Hàng Đường xưa là con đê có cầu Đông bắc ngang, cạnh cầu là chợ cầu Đông (chợ Đồng Xuân). Vừa ăn cụ vừa đẩy đưa chuyện có lão trượng đeo ống tranh Giáng Kiều từ chợ cầu Đông về ghé sân chùa Bích Câu nghỉ chân. Lão trượng gặp Tú Uyên ở chùa Bà Ngô trong ngõ Sinh Từ gần Văn Miếu để có truyện Bích Câu Kỳ Ngộ của bà Đoàn Thị Điểm sáng tác có câu: Gió thông đưa kệ tan niềm tục/ Hồn bướm mơ tiên lẩn sự đời mà bà họ Đoàn dựa vào tích Lê Thánh Tông xướng họa với ni cô ở chùa. Cụ Lý dòm dỏ với cô Chiêu câu Hồn bướm mơ tiên lẫn sự đời gợi cảm hứng nhà văn Khái Hưng viết truyện Hồn bướm mơ tiên mượn cảnh chùa Long Vân ở Bắc Ninh đất tổ nhà Lý của hai bố con cụ.

Đến đây, cụ hấm húi với riêng cụ chuyện lầu xanh của cụ Nguyễn Du.

Cụ Nguyễn Du sinh ở phường Bích Câu gần phố Hàng Giấy, theo cụ Nguyễn Tuân là phố cô đầu có từ thời Lê. Vì vậy với câu Kiều Bình Khang nấn ná bấy lâu có thể từ nhà hát cô đầu xưa nhất ở đây. Qua bài lai cảo của cụ Lê Thước thì cụ Nguyễn Du ở một nơi chốn có nhà bên ngoài sơn xanh, treo đèn lồng đỏ nên cụ mới có cảm hứng tả cảnh lầu Ngưng Bích Bốn bề bát ngát xa trông/ Cát vàng cồn nọ bụi hồng dặm kia, vì ở phường Hà Khẩu, khúc sông Tô Lịch và sông Hồng gặp nhau ở có “cồn” cát vàng rất lớn.

Cụ Lý lậu bậu thêm cụ Nguyễn Duphường Bích Câu, cụ bách bộ qua chợ Cầu Đông tới cuối phố Hàng Giấy có lầu xanh, đèn đỏ tuốt luốt ngoại ô Thăng Long thành hoang sơ, hiu quạnh. Trong khi cụ Nguyễn tìm về chốn phồn hoa đô hội, cụ chỉ cần thả bộ tới phố Hàng Buồm của người tự trăm năm là tới cuối phố Hàng Bạc sát bờ sông có lầu Ngưng Bích nhìn ra sông Hồng, là lầu xanh, là nơi chốn cô Kiều bị đọa.

Cụ tặc lưỡi cái bép mà rằng cụ Nguyễn Du và người tự trăm năm láng giềng láng tỏi với nhau. Vậy mà người nhà ta ở phường Hà Khẩu “khắc khổ, nhạt nhẽo” gì đâu chẳng biết nữa. Thảo nào thiên hạ sự gán ghép ông là Chiêu Hổ với bà họ Hồ thì đúng quá rồi.

***

Hà Nội mưa lâm thâm. Cụ Lý đứng ở cuối con đường của phố cổ, trước khi giã từ Thăng Long nghìn năm văn vật với ngàn năm mây bay, để lại một Hà Nội 36 phố phường có vài ba con phố lát đá xanh, xe tay chạy lóc cóc. Cụ đứng ở đấy lắng nghe âm vọng của người tự trăm năm như ở đâu đây trong cõi vắng…

“…Xưa thật xưa với Tùng Niên Phạm Đình Hổ qua Vũ trung tùy bút, trong mưa giữa kinh kỳ gió táp mưa sa… Đã bao nhiêu mùa gió thổi, cho đến một đêm mưa, mặc kệ cho gió mưa choàng lên phố thị, người tự trăm năm để chữ nghĩa trào ra ngọn bút lông tùy hứng dẫn đi, nét ngang, nét sổ, nét móc thấp thoáng hồn người bên phố đông người qua. Hồn người đã đem những viên gạch lá nem lát lên nền phố cổ…”.

Lá vàng rơi trên giấy, phố đã lạc đường vào văn học…

Thạch trúc gia trang, Canh Dần 2010

(sửa chữa 2014, 2016, 2019)

------------------------

Nguồn: Thạch Lam, Ngô Sĩ Liên, Hoài Anh, Trần Quốc Vượng, Nguyễn Duy Chính

Vũ Ngọc Phan, Tô Hoài, Nguyễn Vinh Phúc, Hoàng Hữu Quýnh, Phan Lạc Tiếp

Nga Sơn, Phanxipăng, Phạm Vũ, Nguyễn Dư, Tuyết Minh, Nguyễn Khắc Thuần.

Xem thêm Hà Nội một thoáng hương xưa