Danh ngôn

Trong mọi cộng đồng, chúng ta cần một nhóm thiên thần gây rối.

We need, in every community, a group of angelic troublemakers.

(Bayard Rustin – trích bài phát biểu tại New York City 1963)

Trong mọi trường hợp, chắc chắn rằng sự thiếu hiểu biết, đi kèm với quyền lực, là kẻ thù tàn bạo nhất có thể có của công lý.

It is certain, in any case, that ignorance, allied with power, is the most ferocious enemy justice can have.

(James Baldwin - No Name in the Street 1972)

Các cuộc cách mạng và các cá nhân có thể bị giết hại, nhưng bạn không thể giết chết các ý tưởng.

While revolutionaries and individuals can be murdered, you cannot kill ideas.

(Thomas Sankara, một tuần trước khi bị ám sát, 1987)

Không có cảm giác nào cô đơn hơn việc bị chính đất nước mình trục xuất.

There's not a more lonely feeling than to be banished by my own country.

(Kiyo Sato – Kiyo’s Story 2009)

Ban Biên tập

Địa chỉ liên lạc:

1. Thơ

tho.vanviet.vd@gmail.com

2. Văn

vanviet.van14@gmail.com

3. Nghiên cứu Phê Bình

vanviet.ncpb@gmail.com

4. Vấn đề hôm nay

vanviet.vdhn1@gmail.com

5. Thư bạn đọc

vanviet.tbd14@gmail.com

6. Tư liệu

vanviet.tulieu@gmail.com

7. Văn học Miền Nam 54-75

vanhocmiennam5475@gmail.com

Tra cứu theo tên tác giả

Thứ Ba, 12 tháng 2, 2019

Đi tìm một quy luật đạo đức hoàn vũ

Nguyễn Hữu Liêm

(Giới thiệu Thuyết Công lợi – Tác phẩm của John Stuart Mill, Đặng Đức Hiệp dịch, Domino Books & Nxb Văn hóa văn nghệ 2019)

It is better to be a human being dissatisfied than a pig satisfied.

(Thà làm một con người không được thỏa mãn còn hơn là làm một con lợn mà được thỏa mãn.)

John Stuart Mill

image

Trân trọng giới thiệu với độc giả bản dịch tiếng Việt của Utilitarianism, một tác phẩm kinh điển về lý thuyết đạo đức của John Stuart Mill (1806 - 1873), một nhà triết học và một nhà kinh tế chính trị học người Anh.


Utilitarianism, ở đây được dịch là “Thuyết Công Lợi”. Cụm từ “Công Lợi,” theo dịch giả Đặng Đức Hiệp, đã được sử dụng rộng rãi trong sách báo tiếng Việt ngay từ đầu thế kỷ XX. Ít nhất thì điều này cũng đã được ghi nhận như một hóa thạch ngôn ngữ trong các tập sách như “Xã hội luận”“Lược sử các học thuyết kinh tế” (được xuất bản trong những năm 1925 - 1928) của Phan Đăng Lưu – một nhân vật cộng sản thế hệ đầu tiên – mới được tập hợp lại trong cuốn sách “Phan Đăng Lưu: Thân thế, sự nghiệp và sưu tập tác phẩm” và được NXB Tri Thức ấn hành trong năm 2017 gần đây. Đây là một cách thức chuyển ngữ căn cứ vào ý nghĩa của học thuyết, trong khi từ Utility thì tiếng Việt thường được dịch là “Tiện ích”. Vậy, Utilitarianism có thể dịch là “Thuyết Tiện ích”, hay như ở đây, “Thuyết Công Lợi” khi nội dung của học thuyết này chủ trương đánh giá đạo đức bằng lợi ích mà nó có thể tạo ra cho xã hội.

Thuyết Công Lợi được Mill viết theo thể Anh ngữ cổ điển ở đầu thế kỷ 19, với một phương cách hành văn rất khó đọc. Nhiều đoạn văn rất dài, chủ từ và các thuộc từ thường đan cài trộn lẫn vào nhau với nhiều những hàm nghĩa khác nhau. Ngay cả những giáo sư triết học ở Hoa Kỳ nhiều lúc cũng vấp phải sai lỗi khi phiên giải ý nghĩa của tác phẩm này sang tiếng Anh ngày nay. Chuyển ngữ sang tiếng Việt lại càng khó khăn hơn. Nhưng ở đây, dịch giả đã hoàn tất bản dịch một cách chu đáo, bằng một văn phong dễ hiểu, nhưng vẫn chặt chẽ và giữ được thể trạng diễn đạt của nguyên tác.

Bối cảnh lịch sử của Thuyết Công lợi

Cuốn Thuyết Công Lợi của Mill (1863) là một trong hai tác phẩm cơ bản, từ nguồn gốc lịch sử đến nội dung học thuyết, của trường phái đạo đức học này. Trước sách này là cuốn Giới thiệu những Nguyên tắc của Đạo đức và Lập pháp (Introduction to the Principles of Morals and Legislation, 1789) của Jeremy Bentham (1748 - 832), một triết luật gia và là một lãnh tụ của phong trào cải cách xã hội và pháp chế ở Anh vào cuối thế kỷ 18 - đầu thế kỷ 19. Cha của John Stuart Mill là James Mill (1773 - 1836) vốn là một cộng sự của Bentham. Khi chàng trai trẻ Mill lớn lên, cũng giống như cha mình, đã đọc và tham khảo học thuyết Công Lợi mà Bentham đề ra, và viết cuốn Utilitarianism này để cổ võ và ủng hộ cho học thuyết của Bentham. Ngoài tác phẩm ngắn này, Mill còn viết cuốn Bàn về tự do (On Liberty, 1859) cổ võ cho tự do cá nhân, nhất là về hai phương diện tư tưởng và ngôn luận, và Về sự Đàn áp Phụ nữ (On the Subjection of Women, 1869) trong đó Mill chỉ trích và phê phán nặng nề việc phụ nữ Anh quốc bị giới hạn tự do trong vai trò xã hội và quốc gia, và một số tác phẩm khác về chính trị và xã hội.

Ở giai đoạn cuối thế kỷ 18 - đầu thế kỷ 19, ở Anh quốc, cũng như khắp Âu châu, bình đẳng giai cấp và giới tính vẫn chưa được công nhận một cách phổ quát. Vì thế, học thuyết Công lợi của Bentham và Mill được xem như là cơ sở tư tưởng cách mạng cho phong trào tranh đấu cho bình đẳng của nhân dân Anh quốc lúc đó. Mill vốn chống lại chính sách nô lệ khắp nơi, nhưng khi đề cập đến vấn đề chủ nghĩa thực dân, nhất là của Anh quốc ở Ấn độ, thì Mill, vốn là một nhân viên của Công ty Đông Ấn của Anh (British East India), lại cho rằng chính sách của đế quốc Anh ở Ấn Độ là một thể loại “benevolent despotism” (độc tài làm phước) vì cho rằng Ấn độ là một quốc gia man rợ, chưa khai hóa, do đó, không thể áp dụng nguyên tắc bình đẳng của Anh quốc cho dân Ấn được. Mill còn cho rằng những ai lên án việc đế quốc Anh cai trị thô bạo người Ấn thì kẻ ấy không hiểu gì về vấn đề đó cả.

Thuyết Công lợi nhấn mạnh đến nguyên lý dân chủ khi coi mọi người, bất kể giai cấp, giới tính, trình độ, đều được đánh giá ngang nhau, khi cứu xét lập pháp và chính sách quốc gia và xã hội. Bentham đã đưa ra câu khẩu hiệu nổi tiếng, “Everyone to count for one, no one to count for more than one”. (Mỗi người được coi như là một, không ai được coi hơn là một). Thuyết này nhấn mạnh rằng hạnh phúc và lạc thú của mỗi cá nhân đều bình đẳng. Do đó, khi hoạch định chính sách, hay đề xuất lập pháp, phải xem xét hậu quả của từng vấn đề. Và nguyên tắc cơ bản phải là, hạnh phúc nhiều nhất cho nhiều người nhất (greatest happiness to the greatest number of people).

Đây là một thể loại đạo đức học dựa trên nguyên lý hậu quả (consequentialism). Nó đồng thời cũng là một học thuyết hành vi trên cơ bản cứu cánh luận (mục đích luận, mục đích cuối cùng, mục đích tối hậu = teleology). Hãy xét lấy hậu quả tối cùng để đánh giá hành động hay chính sách. Không có hành động hay chính sách nào tự nó mang tính đạo đức hay vô đạo đức khi tách rời nó ra khỏi những hệ quả mà nó tác động và ảnh hưởng đến. Mill, cũng như Bentham và các triết gia khác của chủ thuyết này, đã chỉ trích học thuyết đạo đức deontology (deon = bổn phận) của Immanuel Kant (1724 - 1804) vốn nêu lên nguyên lý đạo đức rằng, “Hãy hành động như thể rằng nguyên tắc hành động của ngươi sẽ được chấp nhận như là một bộ quy tắc luật lệ cho tất cả mọi cá nhân có lý trí”. Mill phản biện nguyên lý deontology này của Kant rằng, một kẻ xấu, có thể hành động tội ác và cũng sẽ đưa quy tắc sai lầm của tội ác này lên như là quy chuẩn cho nhân loại. Do đó, xét về hậu quả, thì Kant đã thất bại với nguyên lý bổn phận như thế.

Mill, cũng như Bentham, và trước đó, là các triết gia đạo đức khác của người Anh như Francis Hutcheson (1694 - 1764) và William Paley (1743 - 1805), đều nằm trong truyền thống triết học empiricism (kinh nghiệm luận, hay thực nghiệm luận, hay chủ nghĩa kinh nghiệm). Giá trị của nguyên tắc, hay hành động, chỉ có thể được đánh giá trên cơ sở kinh nghiệm. Và giá trị của tập thể, của quần chúng, cộng đồng, như là một tổng thể đồng nhất của những cá nhân bình đẳng, là cơ bản cho mọi đánh giá về nguyên tắc đạo đức.

Nguyên Tắc Công Lợi là gì?

Đó là nguyên tắc Tiện ích (utility) qua công thức “Hạnh phúc lớn nhất” cho nhiều người nhất. Nguyên tắc này có thể công thức hóa qua nhiều cách. Bentham, người đi tiên phong, đã giải thích rằng, “Nguyên tắc tiện ích có nghĩa rằng nó sẽ đồng thuận hay phản bác một hành động, trên bất cứ phương diện nào, căn cứ nơi câu hỏi rằng hành động này sẽ gia tăng hay làm giảm sút hạnh phúc của những ai bị ảnh hưởng”. Bởi vì mỗi hành động đều có thể gây ra nhiều hệ quả, xấu hay tốt, hoặc cả hai, vì thế, Henry Sidgwick (1838 - 1900), một triết gia nổi tiếng khác thuộc trường phái này nêu lên rằng, khi nghĩ đến hậu quả xấu hay tốt, hãy tính toán để có được một con số đo lường cuối cùng, gọi là “hạnh phúc lời” hay “tiện ích lời” (net happiness, net utility). Nguyên tắc này có thể được công thức hóa theo dạng thức mệnh lệnh, “Hãy hành động khi tác hành của nó sẽ đem lại hạnh phúc cao nhất cho nhiều người nhất”. Như vậy, nguyên tắc này đòi hỏi sự đánh giá mỗi hành động trên hậu quả hạnh phúc, không những từ bản chất của hành động này, mà còn phải được so sánh với những hành động khác có thể được thi hành trong cùng một hoàn cảnh.

Câu hỏi phải được nêu lên ở đây là, Hạnh phúc là gì? Cả Bentham và Mill đều định nghĩa hạnh phúc bằng tiêu chuẩn khoái lạc, hay hoan lạc (pleasure). Đây không phải là lần đầu mà hạnh phúc được đo lường bằng niềm hoan lạc. Triết học đạo đức của Aristotle (384 - 322 TCN), được biết đến là luân lý đức hạnh (virtue ethics), cũng lấy hạnh phúc làm cơ sở cho cứu cánh (hay là mục đích tối hậu) của cuộc đời và hành động. Chủ thuyết duy lạc (hedonism; hedon = pleasure) hay Epicureanism cũng cho rằng cuộc sống là viên mãn nhất khi nó mang nhiều hoan lạc, cả thể xác lẫn tinh thần. Hoan lạc và hạnh phúc gắn liền với nhau và bất khả phân. Như Bentham có nói, “Thiên nhiên đã đặt để nhân loại dưới sự cai chế của hai chủ nhân ông, đau đớn (pain) và khoái lạc (pleasure)”. Theo Bentham, Mill và cũng như Aristotle, tất cả những thứ khác mà con người ta theo đuổi, mong mỏi, như danh vọng, sự giàu có, sức khoẻ, quyền lực, đều chỉ là phương tiện hay công cụ cho hạnh phúc mà thôi. Vì thế, Hạnh phúc và Hoan lạc, tự chính nó, là điều tốt, là chủ đích, là chân lý cho cuộc đời.

Hoan lạc không phải là một khái niệm đồng nhất. Nó bao gồm lượng và phẩm, nhiều thể loại, nhiều mức độ, và đa dạng. Aristotle thì cho rằng hạnh phúc được đo lường bằng tầm mức mà khả thể tính cá nhân được phát huy ở tầm mức cao nhất. Hạnh phúc cho anh nhà nông là được mùa, cho đứa trẻ là đồ chơi, sinh viên là điểm cao, chính trị gia là quyền lực. Hoan lạc về thẩm mỹ, tinh thần khác với khoái lạc thân xác, nhục thể. Nhiều người chấp nhận đau đớn thân xác để có được hoan lạc tinh thần – như các môn thể thao, hay theo đuổi lý tưởng tôn giáo chẳng hạn. Mill đánh giá hoan lạc khác với Bentham ở chỗ rằng, theo Mill, hoan lạc hay khoái lạc mang tính đẳng cấp, và cái quan trọng là ở phẩm chất (quality) chứ không phải cường độ (intensity) hay số lượng (quantity). Vậy thì làm thế nào để đo lường, hay lượng định được hệ quả của hoan lạc từ mỗi hành động? Đây là câu hỏi đã từng được dùng làm cơ sở tranh luận giữa các trường phái đạo đức học cho đến hôm nay.

Đi vào cụ thể của chọn lựa và hành động: Hành vi Tiện ích cá nhân (Act) đối với Đạo đức phổ quát (Rule)

Hãy lấy một thí dụ. Anh Nguyễn Văn Cộ, lái xe khách trên đường cao tốc, bị cảnh sát giao thông chặn lại phạt vì lý do vi phạm giới hạn tốc độ. Nếu anh làm theo đúng quy trình luật pháp thì công an giao thông, thí dụ, sẽ thâu bằng lái xe, phải lên kho bạc nhà nước để nộp tiền phạt, phiền phức, tốn công và thời gian. Anh muốn hối lộ anh công an một số tiền để được cho qua và được giải quyết cho đi nhanh chóng. Trên cơ sở thuyết Công lợi, anh sẽ đánh giá hành vi của mình như thế nào? Hối lộ là vô đạo đức, là sai trái, là vi pháp. Nhưng có ai quan tâm đến hành vi của anh Cộ đâu! Điều chắc chắn là anh Cộ và người công an giao thông cả hai sẽ được thỏa mãn. Một bên được thoát nạn, một bên được chút tiền. Chỉ số hạnh phúc gia tăng cho cả hai – và không ai thiệt hại hay đau khổ cả? Vậy thì theo nguyên tắc Tiện dụng (Expediency) và Tiện ích (Utility), anh Cộ nên hối lộ công an? Tuy nhiên, ở đây, thuyết Công lợi đòi hỏi anh Cộ phải tự vấn và suy nghĩ rằng, nếu hành vi hối lộ của anh ta được đưa lên thành quy thức cho mọi người tài xế và công an giao thông thì hậu quả cho xã hội sẽ như thế nào? Câu trả lời là quá rõ ràng. (Tuy nhiên, chúng ta biết rằng, từ kinh nghiệm sống, ở Việt Nam, tài xế thường xuyên chọn Tiện dụng (Expediency) tại chỗ cho cá nhân hơn là chọn nguyên tắc đạo đức phổ quát. Vì thế văn hoá luật pháp giao thông ở Việt Nam đã bị xuống cấp, bị băng hoại nghiêm trọng).

Thêm một thí dụ khác. Cô Lệ Đắng, một người con gái thuộc nhà trâm anh thế phiệt, muốn kết hôn với người mình yêu, anh Mạc Chua, một thi sĩ, nghèo khổ, xuất thân từ một gia đình nông dân vô sản. Gia đình của cô đã chọn được một người chồng tương lai, anh Lý Giàu, con trai của một gia đình giàu có, danh vọng, đúng với quan niệm môn đăng hộ đối. Theo thuyết Công lợi thì cô Lệ Đắng phải chọn lựa hành động nào: Vì chữ hiếu với cha mẹ mà lấy chồng đại gia, hay vì tình yêu mà lấy chồng thi sĩ nghèo? Nếu lấy chồng đại gia, thì sẽ có nhiều người hoan hỷ, vui mừng, từ cha mẹ đến bà con cô bác. Nếu lấy thi sĩ nghèo, cô và người yêu sẽ thoả mãn được tình yêu, nhưng cả đại gia đình sẽ thất vọng, đau buồn. Nếu xét về lượng, như Bentham đã cổ võ, thì hành động của cô phải căn cứ trên số nhiều của hạnh phúc mang đến – tức là lấy chồng đại gia. Nhưng cô và chàng thi sĩ sẽ khổ đau. Nhưng làm sao có thể đánh giá mức độ và bản sắc hạnh phúc, hay khổ đau, mà cô Lệ Đắng phải chọn lựa cho mình? Hạnh phúc của cô khi lấy người mình yêu sẽ mang cường độ (intensity) cao hơn là gia đình cô có được nếu cô lấy đại gia. Và còn nhiều câu hỏi khác, cả hiện tại, lẫn tương lai – làm sao để biết hệ quả nào sẽ xẩy ra và theo bản sắc nào? Biết đâu khi lấy thi sĩ, cô sẽ giúp chồng mình thay đổi tư duy, biết đi vào con đường thực tế làm ăn, nghề nghiệp, và do đó cả hai người chính họ sẽ tự vươn lên, vượt thắng hoàn cảnh, tự mình xây dựng tương lai hạnh phúc, không lệ thuộc vào gia đình chồng. Hay là, theo một đường hướng khác, lấy đại gia, dù lúc đầu không yêu, nhưng khi đã có con cái, cô sẽ sống với chồng trong tình nghĩa vợ chồng, và cũng thấy rất hạnh phúc khi đã làm cho cha mẹ được hạnh phúc, hãnh diện về mình. Ta có thể nêu lên rất nhiều vấn đề, câu hỏi cho nhiều trường hợp cụ thể như thế.

Trong hai trường hợp của anh Nguyễn Văn Cộ và cô Lệ Đắng nêu trên, thuyết Công lợi đã đặt hai người vào nguyên tắc thứ nhất của cái gọi là Act Utilitarianism (Công lợi Hành động): rằng họ sẽ chọn hành động nào, mà trong bối cảnh đó, sẽ đem đến nhiều hạnh phúc, lạc thú, tiện ích, cho nhiều người nhất. Vậy, theo Bentham và Mill, hối lộ và lấy chồng đại gia có thể là chọn lựa mang giá trị đạo đức tối ưu cho họ (điều này thì cả Bentham và Mill chắc sẽ không chấp nhận). Tuy nhiên, nếu họ suy nghĩ (theo Kant) rằng, nếu người ta ai cũng hối lộ cho xong chuyện, hoặc phụ bạc tình yêu để kết hôn vì yếu tố kinh tế, địa vị xã hội, vì chiều lòng cha mẹ, bà con, thì đâu còn gì là luật pháp? Đâu là giá trị tình yêu, tự do, tự chủ, nhân phẩm cá nhân, của những người như anh Cộ và cô Đắng? Đây là lúc mà hai người phải chọn theo công thức thứ hai, gọi là Rule Utilitarianism (Công lợi Quy tắc) để giả định rằng hành động của mình có thể được đưa lên làm mẫu thức cho đạo đức xã hội hay không. Vì thế, tự trong mỗi hành động, lý thuyết Công lợi đã đi vào những chọn lựa mâu thuẫn, nếu như không đưa ra một trật tự ưu tiên cho giá trị, cho các thể loại hạnh phúc, khoái lạc được chấp nhận một cách khách quan và phổ quát. Đây chính là mối xung đột giữa nhu cầu đại thể tính đối với cá thể tính trong mọi hoàn cảnh của chọn lựa và hành động – nhất là ở Việt Nam hiện nay.

Khuyết điểm và thực tế lý thuyết

Từ khi Bentham và Mill, và sau đó là Sidgwick, đưa ra nguyên tắc đạo đức Công lợi, đã có nhiều triết gia ủng hộ, tu chính, cũng như chỉ trích, phê phán, bác bỏ. Mill, trong cuốn này, cũng đã trả lời một số những tiền đề tranh biện đó. Câu hỏi Hạnh phúc là gì? Làm sao để tính toán được hậu quả khi hành động, khi bản chất con người là vô minh, đầy khuyết điểm, và bị điều kiện hóa bởi nhiều yếu tố khác nhau? Có thật chăng Hạnh phúc là cái đáng mưu cầu. Mill biện luận rằng: Hãy nhìn vào thực tế. Bằng chứng cho giá trị của thuyết Công lợi là sự thật hiển nhiên mà ai cũng thấy. Nhân loại, bất cứ ở đâu và nơi nào cũng mưu cầu Hạnh phúc, vì chỉ có Hạnh phúc mới là một cứu cánh, một mục đích tối hậu, tối thượng tự chính nó (intrinsic value), mọi thứ khác, dù được mong muốn, như tiền bạc, danh vọng, quyền lực, sức khoẻ, cũng chỉ là phương tiện để đem đến hạnh phúc mà thôi.

Điều này thì Mill rơi vào mâu thuẫn: Cái mà nhân loại muốn chưa chắc là cái mà nhân loại nên theo đuổi. Nói như David Hume (1711 - 1776) rằng ta không thể suy ra cái “phải như thế” (ought) từ cái “đang là như thế” (is). Bởi vì công việc của Mill ở đây là muốn thiết lập một quy luật “phải là” mang tính mệnh lệnh đạo đức cho con người khắp nơi, cho con người phổ quát, ông không thể lấy cái “đang là” mà ông quan sát từ thực nghiệm để rút ra quy tắc đạo đức “sẽ phải là.” Khi chúng ta thấy một thực trạng, ví dụ, ở nông thôn, bọn trẻ nít trai thích chơi với bùn đất, điều đó không có nghĩa rằng bùn đất là cái mà bọn trẻ nít trai nên theo đuổi. Hay là khi cả nhân loại chạy theo tiền bạc, điều đó không có nghĩa là tình trạng này mang tính mệnh lệnh đạo lý.

Bentham và Mill cũng không phân biệt đẳng cấp của Hạnh phúc theo tiêu chuẩn Khoái lạc một cách rõ ràng và hợp lý. Tức là, học thuyết Công lợi không có một bản thể luận (ontology) về khoái lạc. Dù Mill có đề cập đến sự thể rằng phẩm chất hoan lạc tri thức, tâm linh hay thẩm mỹ, ví dụ, có giá trị hơn là khoái lạc thân xác, nhưng cả hai triết gia này, trong giới hạn thực nghiệm của triết học Anh quốc, đều không phân biệt rõ ràng giữa khoái lạc thân xác từ cảm quan cơ thể (bodily pleasures), so với đẳng cấp cao hơn của hoan lạc tri thức (intellectual joy), đến tối hậu là hạnh phúc, cực lạc tinh thần (spiritual bliss). Như Thánh Augustine cũng như Bồ tát Long Thọ đã nhiều lần nhắc nhở rằng những ai đã từng trải nghiệm (thần nghiệm / đốn ngộ) một khoảnh khắc của giác ngộ tôn giáo thì tất cả những hoan lạc trần gian, kể cả tri thức và thân xác, chỉ đáng như là rơm rác.

Gần đây, các triết gia đạo đức học, theo khuynh hướng công lợi, như John Rawls (1921 - 2002), trên góc độ lý thuyết về công lý và chính trị, chẳng hạn, đưa ra nhiều công thức khác, một trong đó, nguyên tắc so sánh đề chọn một hành động hay chính sách tối ưu, gọi là Preference Utilitarianism (Công lợi Ưu tiên) là một phiên bản tương đối khá phổ thông. Một hành động mang giá trị cao nhất về đạo đức là khi bản sắc, cấp độ, sự được chấp nhận bởi số đông, phải được đánh giá công bằng trên cơ sở tự do, nhân phẩm cá nhân được tôn trọng, và khi ưu tiên chính trị và công lý được đặt làm nền tảng đạo đức và cứu cánh – ví dụ, hy sinh quyền lợi của giai cấp giàu có để nâng đỡ giai tầng cô thế, nghèo khổ. Từ những lý thuyết này, đạo đức học trên một góc độ nào đó đã trở thành chính sách học, hay kinh tế xã hội học. Khi áp dụng nguyên tắc tính toán, đo lường, nhận định hậu quả, thì thuyết Công lợi đã sử dụng nguyên tắc kinh tế Cost-benefit analysis (Phân tích thiệt-hơn / lỗ-lãi). Và theo tinh thần của truyền thống triết học thực nghiệm Anh quốc, tất cả mọi Hạnh phúc, hoan lạc đều có thể được đánh giá theo tiêu chuẩn hiện kim. Làm sao để có thể đánh giá một mạng người? Điều này không khó. Cứ y theo chỉ số kinh tế mà suy luận. Ví dụ, ngành bảo hiểm nhân thọ, chẳng hạn, có thể ước tính giá trị một mạng sống theo tiền bạc là bao nhiêu.

Nhu cầu nghiên cứu lý thuyết đạo đức

Học thuyết Công lợi, dù chưa hoàn hảo, nhưng nó là một trường phái đạo đức học có ảnh hưởng lớn lao trong truyền thống giá trị học của Âu Mỹ. Bản chất của đạo đức là một đề tài phức tạp, mang nhiều yếu tố văn hóa, tôn giáo, dân tộc và thời đại. Không có lý thuyết đạo đức nào mà không tự nó chứa đựng những mâu thuẫn, khuyết điểm khi được phân tích từ nhiều góc độ khác nhau.

Phần đông người Việt chúng ta, hầu hết có gốc gác nông thôn, đều đánh giá đạo đức qua truyền thống và văn hóa như là một nề nếp và thói quen. Lịch sử Việt Nam trong cả thế kỷ qua là cả một quá trình va chạm của các giá trị về đúng / sai, đạo đức / vô đạo đức, thiện / ác giữa các luồng văn minh và văn hóa khác nhau, từ trong lòng quốc gia, đến khi đối diện với văn minh bên ngoài. Khi mà giá trị đạo đức qua trực giác bị phai mờ, thì đây là lúc mà ý thức và cảm nhận đạo đức phải được vun đắp bằng giáo hóa trên cơ sở lý trí.

Có lẽ đã đến lúc người Việt chúng ta sẽ phải làm quen, ít nhất là trên phương diện lý thuyết, với những trường phái đạo đức học, giá trị luận của thế giới, nhằm đánh thức dậy tiềm năng lý tính trong xung cảm đạo đức, về cái đúng / sai, thiện / ác, hay / dở tự chính trong mỗi cá nhân – để đem ánh sáng lý trí soi rõ động cơ cũng như làm bản đồ hướng dẫn cho hành vi, nhất là trong các lãnh vực công quyền, kinh doanh, và ngay cả giáo dục và tôn giáo. Khuynh hướng và khả năng đạo đức cá nhân, nhất là của con người Việt Nam trong giai đoạn này – xin phép được nói – phải được giáo huấn – như Aristotle đã phải nhắc nhở giới trẻ Hy Lạp từ thượng cổ – từ gia đình, đến luật pháp, học đường, đến sách vở, nhất là các tác phẩm đạo đức luận kinh điển.

Bản dịch Thuyết Công Lợi của Mill này là một nỗ lực đóng góp cho chiều hướng và lý tưởng đó. Chúng ta không thể đánh giá quá thấp những ảnh hưởng của lý thuyết về đạo đức từ sách vở, như chúng ta thường đã làm trong quá khứ. Tôn giáo, truyền thống đã cung cấp cho chúng ta ít nhiều những căn bản mang tính trực giác về đạo đức, về giá trị – nhưng tất cả đang bị xói mòn, băng hoại vì chủ nghĩa thực dụng thuần túy kinh tế, tiền bạc đang khiến cho xã hội và con người Việt Nam lạc mất hướng đi. Đây là lúc mà một phương cách tự giáo huấn lại đạo đức công dân bằng lý thuyết và kinh điển triết học nên, hoặc, hơn thế, phải được bắt đầu. Mặc dù như như Mill nói:

Năng lực đạo đức của chúng ta, theo tất cả những người có thẩm quyền diễn dịch nó những người vốn được mệnh danh là các nhà tư tưởng chỉ cung cấp cho chúng ta những nguyên tắc phổ quát về những phán xét đạo đức; nó thích hợp với luận lý, với lý trí chứ không thích hợp với năng lực cảm nhận (sensitive faculty) của chúng ta; và cái mà chúng ta trông đợi, kỳ vọng từ nó là những học thuyết trừu tượng về đạo đức, chứ không phải là sự cảm nhận về đạo đức trong những tình huống riêng biệt cụ thể.

Nhưng ít nhất là từ những tác phẩm kinh điển như cuốn sách Thuyết Công lợi này của Mill, chúng ta cũng sẽ dần tìm ra, trên cơ sở trí năng, một số những nguyên lý phổ quát về giá trị làm người.

Trong tinh thần đó, trân trọng giới thiệu với bạn đọc bản Việt ngữ công phu này của dịch giả Đặng Đức Hiệp.

California, tháng 8, 2018.