Danh ngôn
Trong mọi cộng đồng, chúng ta cần một nhóm thiên thần gây rối.
We need, in every community, a group of angelic troublemakers.
(Bayard Rustin – trích bài phát biểu tại New York City 1963)
Trong mọi trường hợp, chắc chắn rằng sự thiếu hiểu biết, đi kèm với quyền lực, là kẻ thù tàn bạo nhất có thể có của công lý.
It is certain, in any case, that ignorance, allied with power, is the most ferocious enemy justice can have.
(James Baldwin - No Name in the Street 1972)
Các cuộc cách mạng và các cá nhân có thể bị giết hại, nhưng bạn không thể giết chết các ý tưởng.
While revolutionaries and individuals can be murdered, you cannot kill ideas.
(Thomas Sankara, một tuần trước khi bị ám sát, 1987)
Không có cảm giác nào cô đơn hơn việc bị chính đất nước mình trục xuất.
There's not a more lonely feeling than to be banished by my own country.
(Kiyo Sato – Kiyo’s Story 2009)
Ban Biên tập
Địa chỉ liên lạc:
1. Thơ
tho.vanviet.vd@gmail.com
2. Văn
vanviet.van14@gmail.com
3. Nghiên cứu Phê Bình
vanviet.ncpb@gmail.com
4. Vấn đề hôm nay
vanviet.vdhn1@gmail.com
5. Thư bạn đọc
vanviet.tbd14@gmail.com
6. Tư liệu
vanviet.tulieu@gmail.com
7. Văn học Miền Nam 54-75
vanhocmiennam5475@gmail.com
Tra cứu theo tên tác giả
- A. A. Fadeev
- A. Puskin
- A. T.
- Abdulrazak Gurnah
- Abraham F. Lowenthal
- Ace Le
- Ace Lê
- Adam Gopnik
- Adonis
- Adrian Horton
- Agi Mishol
- Ajar
- Akiko Miki
- Alain Guillemin
- Alan Phan
- Alăng Văn Gáo
- Alăng Văn Giáo
- Aldous Huxley
- Alex Marshall
- Alex Smith
- Alex Thai
- Alex-Thái Đình Võ
- Alexander Fadeev
- Alexander Solzhenitsyn
- Alexandra Alter
- Alexandre FERON
- Alice Munro
- Alison Flood
- Allen Ginsberg
- Amanda Gorman
- Amartya Sen
- Amelia Glaser
- Amos Oz
- An Nam
- Anatoly Gavrilov
- André Menras
- André Menras – Hồ Cương Quyết
- André Menras Hồ Cương Quyết
- Andrea Hoa Pham
- Andrea Kendall-Taylor
- Andreas Fulda
- Andreas Wimmer
- Andrew Postman
- Andy Cao
- Anh Anh
- Anh Hồng
- Anh Hồng (nhà thơ)
- Ánh Liên
- Anh Nhi
- Anh Văn
- Anika Zeller
- Anna Akhmatova
- Anna Mitchell
- Anne Carson
- Anne Hébert
- Anne Henochowicz
- Annie Ernaux
- António Jacinto
- Antôn Nguyễn Trường Thăng
- Archimedes L.A. Patti
- Arlette Quỳnh Anh Trần
- Arnold Schwarzenegger
- Arthur Koestler
- Arty Abel
- Arvind Subramanian
- Augustina
- Aurélie Coulon
- Aurelien Breeden
- Ba Sàm
- Bá Thụ Đàm
- Bạch Cúc
- Bạch Hoàn
- Bách Mỵ
- Bách Thân
- Bạch X. Phẻ
- Bạch Xuân Phẻ
- Bakhtin
- Ban Mai
- Bàn Văn Thòn
- Ban Vận động Văn đoàn Độc lập Việt Nam
- Bảo Huân
- Bảo La
- Bảo Nhi Lê
- Bảo Ninh
- Bảo Phác
- Bão Vũ
- Barbara Demick
- Bashô
- Batrioldman
- Bauxite Việt Nam
- Bắc Đảo
- Bắc Phong
- Bằng Việt
- BB Ngô
- Bei Dao
- Benjamin Ramm
- Bertolt Brecht
- Bertrand Russell
- Bettina Rheims
- Bích Ngân
- Biếm họa
- Biên Cương
- Bilahari Kausikan
- Billy Collins
- Bình Nguyên Lộc
- Brahma Chellaney
- Branko Milanovic
- Brett Reilly
- Brian Pascus
- Brian Wu
- Brodsky
- Bryan
- Bùi An
- Bùi Bảo Trúc
- Bùi Bích Hà
- Bùi Chát
- Bùi Chí Trung
- Bùi Chí Vinh
- Bùi Công Thuấn
- Bùi Công Trực
- Bùi Đức Lại
- Bùi Giáng
- Bùi Hải Quảng
- Bùi Hoàng Tám
- Bùi Hoằng Vị
- Bùi Huệ Chi
- Bui Huy Hoi Bui
- Bùi Mai Hạnh
- Bùi Mạnh Hùng
- Bùi Mẫn Hân
- Bùi Minh Quốc
- Bùi Ngọc Tấn
- Bùi Quang Thắng
- Bùi Suối Hoa
- Bùi Thanh Hiếu
- Bùi Thanh Phương
- Bùi Thanh Tuấn
- Bùi Thụy Băng
- Bùi Tiến An
- Bùi Trân Phượng
- Bùi Trọng Hiền
- Bùi Văn Kha
- Bùi Văn Nam Sơn
- Bùi Việt Sỹ
- Bùi Vĩnh Phúc
- Bùi Xuân Bách
- Bùi Xuân Đính
- Bùi-Viết Văn Đức
- Bulgakov
- Bửu Chỉ
- C.D.
- Cái Lư Hương
- Cái Trọng Ty
- Cam Ly
- Cảnh Chánh
- Cao Bảo Vân
- Cao Bình Minh
- Cao Chi
- Cao Gia An
- Cao Hành Kiện
- Cao Huy Thuần
- Cao Kim Ánh
- Cao La
- Cao Quang Nghiệp
- Cao Tần
- Cao Thị Hồng
- Cao Thu Cúc
- Cao Việt Dũng
- Cao Xuân Hạo
- Cao Xuân Huy
- Carl Bildt
- Carl O. Schuster
- Carlos Assunção
- Cát Linh
- Cẩm Tú
- Cấn Thị Thêu
- Chan Phuong
- Chanh Tam
- Charles Bo
- Charles Bukowski
- Charles Simic
- Chau Doan
- Chân Minh
- Chân Pháp Xa
- Chân Phương
- Chân Xuân Tản Viên
- Châu Diên
- Châu Hải Đường
- Châu Hồng Thủy
- Châu Hữu Quang
- Chenn
- Chế Diễm Trâm
- Chế Lan Viên
- Chi Mai
- Chi Phương
- Chiêu Dương
- Chiêu Khiêm
- Chiharu Shiota
- Chim Hải
- Chim Trắng
- Chinh Ba
- Chính Tâm
- Chính Vĩ
- Chinua Achebe
- Christian Gampert
- Christian Welzel
- Christina Mary Hjortlund
- Christoph Giesen
- Christoph Sator
- Christopher Balding
- Christopher Goscha
- Christy Wampole
- Chu Dương
- Chu Hảo
- Chu Hoạch
- Chu Kim
- Chu Mộng Long
- Chu Quang Tiềm
- Chu Tử
- Chu Văn Lễ
- Chu Văn Sơn
- Chu Vĩnh Hải
- Chu Vương Miện
- Chu Xuân Diên
- Chung Le
- Claire Simon
- Clay Phạm
- Concepcion de Leon
- Connie Hoàng
- Cora Engelbrecht
- Costica Bradatan
- Cổ Ngư
- Cù An Hưng
- Cù Huy Hà Vũ
- Cù Mai Công
- Cù Tuấn
- Cung Minh Huân
- Cung Tích Biền
- Cung Trầm Tưởng
- Dạ Ngân
- Dạ Thảo Phương
- Dã Tượng
- DAD
- Dadolin Murak
- Damien Keown
- Dan Bilefsky
- Dana Gioia
- Danh ngôn
- Dani Rodrik
- Daniel Halpern
- Daniel Hautzinger
- Daron Accemoglu
- David Brown
- David Marchese
- David Weinberger
- Ðặng Thơ Thơ
- Demetrio Paparoni
- DEUTSCHE WELLE
- Di
- Di Li
- Diêm Liên Khoa
- Diễm Thi
- Diễm Tường
- Diễn đàn Thế kỷ
- Diệp Duy Liêm
- Diệp Huy
- Dino Buzatti
- Dipanjan Roy Chaudhury
- Dmitri Prokofyev
- Dmitry Burago
- Dmitry Muratov
- Doãn Mạnh Dũng
- Doãn Quốc Sỹ
- Dominique Lemieux
- Donald Inglehart
- Donna Ashworth
- Ðỗ Quang Nghĩa
- Ðỗ Quyên
- Du Tử Lê
- Dũng Phan
- Dũng Trung Kqd
- Dũng Vũ
- Duy Lam
- Duy Tân
- Duy Thanh
- Duy Thông
- Duyên Anh
- Dư Hoa
- Dư Kiệt
- Dư Thị Hoàn
- Dư Thu Vũ
- Dương Đại Triều Lâm
- Dương Đình Giao
- Dương Khánh Phương
- Dương Kiền
- Dương Ngạn
- Dương Nghiễm Mậu
- Dương Ngọc Thái
- Dương Như Nguyện
- Dương Phương Vinh
- Dương Thắng
- Dương Thiệu Tước
- Dương Thu Hương
- Dương Thuấn
- Dương Tú
- Dương Tường
- Dương Văn Ba
- Dylan Suher
- Đà Văn
- Đàm Hà Phú
- Đàm Hách Thành
- Đào An Khánh
- Đào Anh Kha
- Đào Công Tiến
- Đào Duy Anh
- Đào Hiếu
- Đào Lê Na
- Đào Ngọc Chương
- Đào Nguyên
- Đào Nguyễn
- Đào Nguyên Phương Thảo
- Đào Như
- Đào Phương Liên
- Đào Quang Toản
- Đào Tấn Phần
- Đào Thái Tôn
- Đào Thị Hương
- Đào Tiến Thi
- Đào Trung Đạo
- Đào Trường Phúc
- Đào Tuấn
- Đào Tuấn Ảnh
- Đào Văn Tiến
- Đào Vũ Anh Hùng
- Đặng Anh Đào
- Đặng Bích Phượng
- Đặng Chương Ngạn
- Đặng Đình Cung
- Đặng Đình Mạnh
- Đặng Hà
- Đặng Hải Sơn
- Đặng Hoàng Giang
- Đặng Hồng Nam
- Đặng Hùng Võ
- Đặng Hương Giang
- Đặng Hữu
- Đặng Mai Lan
- Đặng Mậu Tựu
- Đăng Nguyên
- Đặng Phùng Quân
- Đặng Sơn Duân
- Đặng Thái
- Đăng Thành
- Đặng Thân
- Đặng Thị Hảo
- Đặng Thơ Thơ
- Đặng Tiến
- Đặng Tiến (Thái Nguyên)
- Đặng Trung Nghĩa
- Đặng Túy
- Đặng Văn Dũng
- Đặng Văn Hùng
- Đặng Văn Ngữ
- Đặng Văn Sinh
- Đặng Vũ Vương
- Đặng Xuân Thảo
- Đặng Xuân Xuyến
- Đằng-Giao
- Điểm Thọ
- Đinh Bá Anh
- Đinh Cường
- Đinh Hoàng Thắng
- Đinh Hùng
- Đình Kính
- Đinh Linh
- Đinh Ngọc Thu
- Đinh Phương
- Đinh Phương Thảo
- Đinh Quang Anh Thái
- Đinh Thanh Huyền
- Đinh Thị Như Thúy
- Đinh Trường Chinh
- Đinh Từ Bích Thuý
- Đinh Từ Bích Thúy
- Đinh Văn Đức
- Đinh Vũ Hoàng Nguyên
- Đinh Ý Nhi
- Đinh Yên Thảo
- Đoàn Ánh Thuận
- Đoàn Bảo Châu
- Đoàn Cầm Thi
- Đoàn Hồng Lê
- Đoàn Huy Giao
- Đoàn Huyền
- Đoàn Khắc Xuyên
- Đoàn Lê Giang
- Đoàn Nhã Văn
- Đoàn Thanh Liêm
- Đoan Trang
- Đoàn Tùng Nguyễn
- Đoàn Tử Huyến
- Đoàn Việt Hùng
- Đoàn Xuân Kiên
- Đỗ Anh Tuấn
- Đỗ Cao Bảo
- Đỗ Duy Ngọc
- Đỗ Đức
- Đỗ Đức Đông Ngàn
- Đỗ Đức Hiểu
- Đỗ Hòa
- Đỗ Hoàng Diệu
- Đỗ Hồng Ngọc
- Đỗ Hữu Chí
- Đỗ Kh
- Đỗ Kh.
- Đỗ Khiêm
- Đỗ Kim Thêm
- Đỗ Lai Thuý
- Đỗ Lai Thúy
- Đỗ Lê Anh Đào
- Đỗ Mạnh Hoàng
- Đỗ Minh Tuấn
- Đỗ Nghê
- Đỗ Ngọc
- Đỗ Ngọc Thống
- Đỗ Quang Nghĩa
- Đỗ Quang Vinh
- Đỗ Quý Toàn
- Đỗ Quyên
- Đỗ Quỳnh Dao
- Đỗ Thắng Cảnh
- Đỗ Thiên Anh Tuấn
- Đỗ Trí Vương
- Đỗ Trọng Khơi
- Đỗ Trung Quân
- Đỗ Trường
- Đỗ Tuyết Khanh
- Đồng Chuông Tử
- Đông Hoài
- Đông Hồ
- Đông Kha
- Đông Ngàn Đỗ Đức
- Đông Nghi
- Đức Ban
- Đức Đàm
- Đức Flying Bay
- Đức Hoàng
- Đức Lê
- Đức Phổ
- Đức Tâm
- Đức Tiến
- E.E. Cummings
- E.M. Chernoivanenko
- Eamonn Butler
- Eckart Kleßmann
- Eduardo Galeano
- Edward Hirsch
- Elena Pucillo Truong
- Elias Canetti
- Ellen Bass
- Eloisa Amezcua
- Emiel Roothooft
- Emmanuelle Jardonnet
- Eric Weiner
- Erica Frantz
- Erik Harms
- Erik Korling
- Euan Ward
- Evgheni Dobrenko
- F.N.
- Feliks Kuznesov
- Filip Lech
- Flanny O’Connor
- Florence Noiville
- Florian Altenhöner
- Francis Fukuyama
- Francis Fukuyma
- Frank Dikötter
- Frank O'Hara
- Frankfurt
- Fred Hiatt
- Friedrich Dürrenmatt
- Friedrich Nietzsche
- Fritz J. Raddatz
- Gabriel García Márquez
- Gaither Stewart
- Gaiutra Bahadur
- Gary Leupp
- Gặp gỡ và trò chuyện
- Georg Bönisch
- Georg Trakl
- George Burchett
- George Orwell
- George Siemens
- Giang Dang
- Giang Lại Đức
- Giang Nam
- Giáng Vân
- Giáp Văn Dương
- Gideon Rachman
- Goethe
- Gonçalo Fernandes
- Gottfried Benn
- Graham Allison
- Grigory Yudin
- Günter Kunert
- Gyảng Anh Iên
- Hà Duy Phương
- Hà Dương Tuấn
- Hà Dương Tường
- Hà Đình Nguyên
- Hạ Đình Nguyên
- Hà Huy Sơn
- Hà Hương
- Hà Lệ Minh
- Hà Ngọc Hòa
- Hạ Nguyên
- Hà Nguyên Du
- Hà Nhật
- Hà Phạm Phú
- Hà Quang Vinh
- Hà Sĩ Phu
- Hà Thanh Vân
- Hà Thế
- Hà Thúc Sinh
- Hà Thủy Nguyên
- Hà Tùng Long
- Hà Tùng Sơn
- Hà Văn Thịnh
- Hà Văn Thùy
- Hà Vũ Trọng
- Hagi Kenaan
- Hai An Vu
- Hải Hạc
- Hải Ngọc
- Han Dang
- Hàn Vĩnh Diệp
- Hạnh Nguyên
- Hạnh Viên
- Hannah Beech
- Hào Thiện Nhân
- Haruki Murakami
- Hân Hương
- Heiko Buschke
- Heinrich Heine
- Henry David Thoreau
- Henry Wadsworth Longfellow
- Heriberto Araújo
- Hermann Hesse
- Hiền Trang
- Hiệp Ikaria
- Hiệu Minh
- Hiếu Tân
- Ho Lai-Ming
- Hòa Bình Lê
- Hoa Níp
- Hoài Hương
- Hoài Nam
- Hoài Thanh
- Hoài Việt
- Hoài Ziang Duy
- Hoan Doan
- Hoàn Nguyễn
- Hoàng Ánh
- Hoàng Anh Tuấn
- Hoàng Cầm
- Hoàng Chí Hiếu
- Hoàng Chính
- Hoàng Cường Long
- Hoàng Dũng
- Hoàng Dương Tuấn
- Hoàng Đăng Khoa
- Hoàng Đỗ
- Hoàng Đông
- Hoàng Đức Truật
- Hoàng Hà
- Hoàng Hải Thủy
- Hoàng Hải Vân
- Hoảng Hãn
- Hoàng Hưng
- Hoàng Khởi Phong
- Hoàng Kim Oanh
- Hoàng Lại Giang
- Hoàng Lan
- Hoàng Lan Chi
- Hoàng Lê
- Hoàng Lệ
- Hoàng Linh
- Hoàng Long
- Hoàng Mai Ðạt
- Hoàng Mạnh Hải
- Hoàng Minh Trí
- Hoàng Minh Tường
- Hoàng Nam
- Hoàng Nga
- Hoàng Ngọc Biên
- Hoàng Ngọc Hiến
- Hoàng Ngọc Nguyên
- Hoàng Ngọc Tuấn
- Hoàng Nguyễn
- Hoàng Nguyên Vũ
- Hoàng Nhuận Cầm
- Hoàng Phong Tuấn
- Hoàng Phủ Ngọc Tường
- Hoàng Quân
- Hoàng Quốc Hải
- Hoàng Thị Hường
- Hoàng Thị Thu Thủy
- Hoàng Thu Phố
- Hoàng Thúy
- Hoàng Thuỵ Anh
- Hoàng Tiến
- Hoàng Trung Thông
- Hoàng Tuấn Công
- Hoàng Tuấn Phổ
- Hoàng Tùng
- Hoàng Tuỵ
- Hoàng Văn Sơn
- Hoàng Vũ Thuật
- Hoàng Xuân Phú
- Hoàng Xuân Sơn
- Hoàng Xuân Tuyền
- Hoàng Yến
- Horst Bienek
- Howard Gardner
- Hồ Anh Thái
- Hồ Bạch Thảo
- Hồ Bất Khuất
- Hồ Diệu Vân
- Hồ Dzếnh
- Hồ Đắc Vũ
- Hồ Đình Nghiêm
- Hồ Hải Thụy
- Hồ Hữu Tường
- Hồ Minh Tâm
- Hồ Ngọc Đại
- Hồ Như
- Hồ Phú Bông
- Hồ Tịnh Tình
- Hồ Trường An
- Hồ Tú Bảo
- Hội những người ủng hộ GS. Chu Hảo
- Hồng Anh
- Hồng Hoang
- Hồng Lê Thọ
- Hồng Phú
- Huong Nguyen
- Huy Cận
- Huy Đức
- Huy Tưởng
- Huyền Thương
- Huỳnh Hoa
- Huỳnh Hữu Uỷ
- Huỳnh Hữu Ủy
- Huỳnh Kim Báu
- Huỳnh Kim Quang
- Huỳnh Lê Nhật Tấn
- Huỳnh Liễu Ngạn
- Huỳnh Ngọc Chênh
- Huỳnh Như Phương
- Huỳnh Sơn Phước
- Huỳnh Tấn Mẫm
- Huỳnh Thế Du
- Huỳnh Thục Vy
- Huỳnh Trọng Khang
- Huỳnh Tuấn Anh
- Hứa Chương Nhuận
- Hương Lan
- Hường Thanh
- Hương Thủy
- Hữu Danh
- Hữu Đông
- Hữu Loan
- Hữu Mai
- Hữu Phương
- Ian Bui
- Ian Johnson
- Ilza Burchett
- Inrasara
- Iris Radisch
- Isabella Kwai
- Issa
- Issac Bashevis Singer
- Italo Calvino
- Iya Kiva
- J. M. Lotman
- J.B Nguyễn Hữu Vinh
- Jacques Attali
- Jacques Prévert
- Jake Johnson
- James Borton
- James G. Zumwalt
- James Grossman
- James Poniewozik
- James Stavridis
- Janos Kornai
- Jason Lopata
- Jason Morris-Jung
- Jay Nordlinger
- Jaya K.
- Jean Chesnaux
- Jean d'Ormesson
- Jean Piaget
- Jean Przyluski
- Jean-Jacques Brochier
- Jean-Jacques Roth
- Jean-Louis Rocca
- Jean-Luc Chalumeau
- Jean-Marc Roberts
- Jean-Patrick Géraud
- Jean-Paul Sartre
- Jefferson Cowie
- Jeffrey Hanfover
- Jeffrey Nall
- Jessica Swoboda
- Jessie Yeung
- Jimmy Carter
- Joan Hua
- João Guimarães Rosa
- Joaquin Nguyễn Hòa
- John Barrow
- John Cheever
- John Freeman
- John Keane
- John McCain
- Jon Fosse
- Jonathan Dee
- Jonathan London
- Jorge Luis Borges
- Joschka Fischer
- Josée Lapointe
- Joseph Wright
- Josh Rogin
- Joshua Rothman
- Juan Pablo Cardenal
- Juan Pablo Cardenal & Heriberto Araújo
- Julia Cagé
- Julio Cortázar
- Jun’ichiro Tanizaki
- Kahil Gibral
- Kai Hoàng
- Kale
- Kalynh Ngô
- Kamel Daoud
- Kao Phú
- Kap Seol
- Kate Chopin
- Kenneth Nguyen
- Keorapetse Kgositsile
- Kerstin Holm
- Kều Jang
- Kha Lương Ngãi
- Khái Hưng
- Khaly Chàm
- Khang Quốc Ngọc
- Khánh
- Khánh Bình
- Khánh Duy
- Khánh Ly
- Khánh Mai
- Khanh Nguyen
- Khanh Pham
- Khánh Phương
- Khánh Trâm
- Khánh Trường
- Khét
- Khế Iêm
- Khiêm Nhu
- Khổng Đức Thiêm
- Khuất Đẩu
- Khuê Phạm
- Khuyết Thư
- Kiệm Hoàng
- Kiến Văn
- Kiệt Anh Hùng
- Kiệt Tấn
- Kiều Duy Vĩnh
- Kiều Loan
- Kiều Mai Sơn
- Kiều Maily
- Kiều Phong
- Kiều Thị An Giang
- Kim Chi
- Kim Dung
- Kim Hạnh
- Kim Thúy
- Kim Trần
- Kinh Bắc
- Kính Hòa
- Klaus Wiegerefe
- Kúm
- Kurt-Martin Mayer
- Kỳ Duyên
- Kyoko Numano
- L. V. H.
- La Khắc Hoà
- La Khắc Hòa
- Lã Nguyên
- Lại Nguyên Ân
- Lam Điền
- Lam Ngọc
- Lam Thái Hòa
- Lan Nguyên
- Lang Anh
- Langston Hughes
- LAP
- Larry Diamond
- Lars Vargö
- Laura Cappelle
- Laurent Sagalovitsch
- Lâm Chương
- Lâm Duyên
- Lâm Hạnh
- Lâm Lê
- Lâm Ngân Mai
- Lâm Quang Mỹ
- Lâm Thị Mỹ Dạ
- Leon Trotsky
- Leonard Cohen
- Lê An Thế
- Lê Anh Hoài
- Lê Ân
- Lê Bá Đảng
- Lê Bích Vượng
- Lê Chiều Giang
- Lê Công Định
- Lê Công Giàu
- Lê Công Tư
- Lê Ðình Nhất Lang
- Lê Dũng
- Lê Duy Nam
- Lê Đạt
- Lê Đăng Doanh
- Lê Đình Cai
- Lê Đình Khẩn
- Lê Đình Thắng
- Lê Đỗ Huy
- Lê Đức Dục
- Lê Đức Thôn
- Lê Giang Trần
- Lê Hải
- Lệ Hằng
- Lê Hiệp
- Lê Hoài Nguyên
- Lê Hoàng Diễm Trang
- Lê Học Lãnh Vân
- Lê Hồ Quang
- Lê Hồng Hà
- Lê Hồng Hiệp
- Lê Hồng Lâm
- Lê Hùng
- Lê Hùng Vọng
- Lê Huyền Ái Mỹ
- Lê Huỳnh Lâm
- Lê Hữu
- Lê Hữu Khoá
- Lê Hữu Khóa
- Lê Hữu Nam
- Lê Kế Lâm
- Lê Khải
- Lê Kim Duy
- Lê Ký Thương
- Lê Lạc Giao
- Lê Luân
- Lê Mã Lương
- Lê Mai
- Lê Mai Lĩnh
- Lê Mạnh Chiến
- Lê Mạnh Đức
- Lê Minh Chánh
- Lê Minh Hà
- Lê Minh Hiền
- Lê Minh Khuê
- Lê Ngân Hằng
- Lê Ngọc Luân
- Lê Ngọc Sơn
- Lê Nguyễn
- Lê Nguyễn Duy Hậu
- Lê Nguyễn Hương Trà
- Lê Nguyên Long
- Lê Nguyên Vỹ
- Lê Như Bình
- Lê Phan
- Lê Phú Khải
- Lê Quang
- Lê Quang Đức
- Lê Quảng Hà
- Lê Quang Hợp
- Lê Quang Thành
- Lê Quân
- Lê Quốc Anh
- Lê Quỳnh
- Lê Quỳnh Mai
- Lê Sa Long
- Lê Si Na
- Lê Sơn
- Lê Tất Đạt
- Lê Tất Điều
- Lê Thanh Dũng
- Lê Thanh Hải
- Lê Thanh Phong
- Lê Thanh Trường
- Lê Thân
- lê thi diem thuý
- Lê Thị Hồng Minh
- Lê Thị Huệ
- Lê Thị Hường
- Lê Thị Oanh
- Lê Thị Thấm Vân
- Lê Thiết Cương
- Lê Thiếu Nhơn
- Lê Thọ Bình
- Lê Thời Tân
- Lê Thời Thôi
- Lê Thu Hiền
- Lê Thúy Bảo Liên
- Lê Tiên Long
- Lê Trí Tuệ
- Lê Trinh
- Lê Trọng Nghĩa
- Lê Trọng Nguyễn
- Lê Trung Tĩnh
- Lê Trường Thanh
- Lê Tuấn Huy
- Lê Tuyết Hạnh
- Lê Văn Bỉnh
- Lê Văn Hảo
- Lê Văn Hiếu
- Lê Văn Hòa
- Lê Văn Luân
- Lê Văn Sơn
- Lê Văn Trung
- Lê Văn Tùng
- Lê Vĩnh Tài
- Lê Vĩnh Triển
- Lê Vũ Trường Giang
- Lê Xuân Khoa
- Lê Xuyên
- Li Edelkoort
- Li Zhongqin
- Liêu Diệc Vũ
- Liêu Thái
- Liễu Trương
- Linh Nguyên
- Linh Văn
- Linh Vân
- Linh-Chân Brown
- LKH
- Lorca
- Louis Aragon
- Louise Glück
- Lộc Vàng
- Luân Hoán
- Ludwig von Mises
- Luke Hunt
- Luke Turner
- Lữ Kiều
- Lữ Quỳnh
- Lương Đào
- Lương Thiệu Quân
- Lương Thư Trung
- Lưu Á Châu
- Lưu Bình Nhưỡng
- Lưu Diệu Vân
- Lưu Đức Trung
- Lưu Hà
- Lưu Hiểu Ba
- Lưu Khánh Thơ
- Lưu Mê Lan
- Lưu Minh Hải
- Lưu Na
- Lưu Nhi Dũ
- Lưu Quang Vũ
- Lưu Thuỷ Hương
- Lưu Thủy Hương
- Lưu Trọng Văn
- Lưu Uyên Khôi
- Lý Đợi
- Ly Hoàng Ly
- Lý Ngang
- Ly Phạm
- Lý Quang Hoàn
- Lý Thanh
- Lý Tiến Dũng
- Lý Toàn Thắng
- Lý Trực Dũng
- Lý Xuân Hải
- Lydia Davis
- Lynh Bacardi
- LysP
- M. Gorky
- M.L. Gasparov
- Mạc Phong Tuyền
- Mạc Văn Trang
- Mạc Việt Hồng
- Mạch Nha
- Mạch Quang Thắng
- Mai An Nguyễn Anh Tuấn
- Mai Anh Tuấn
- Mai Bá Ấn
- Mai Chanh
- Mai Hiền
- Mai Khôi
- Mai Kim Ngọc
- Mai Nhật
- Mai Ninh
- Mai Quốc Ấn
- Mai Quỳnh
- Mai Quỳnh Nam
- Mai Sơn
- Mai Thái Lĩnh
- Mai Thanh Sơn
- Mai Thảo
- Mai Tú Ân
- Mai Văn Hoan
- Mai Văn Phấn
- Mai Văn Tính
- Mamleev
- Mạnh Kim
- Marc Andrus
- Marcel Reich-Ranicki
- Marci Shore
- Marco Ferrarese
- Margarita Lyutova
- Maria Donovan
- Maria Ressa
- Mario Vargas Llosa
- Marion Hennebert
- Mark Binelli
- Mark Frankland
- Mark Strand
- Marta Hillers
- Martin Jankowski
- Martin Kulldorff
- Marty Robbins
- Mary Morose
- Mary Walsh
- Mathias Mayer
- Matthew Clayfield
- Matthew Crawford
- Maurice Blanchot
- Maximilian Steinbeis
- May
- Maya Angelou
- Mặc Đỗ
- Mặc Lâm
- Mân Côi
- McAmmond Nguyễn Thị Tư
- Media Văn Việt
- Michael Burawoy
- Michael Scammell
- Miêng
- Mike Ives
- Mikhail Shishkin
- Mikhail Viktorovich Zygar
- Milan Kundera
- Mimmi Diệu Hường Bergström
- MInh Anh
- Minh Huệ
- Minh Hùng
- Minh Luật
- Minh Quang – Lê Chiên
- Minh Quang Ho
- Minh Tâm
- Minh Thùy
- Minh Thư
- Minh Toàn
- Minh Tuấn
- Mỹ Hằng
- Mỹ Lan
- N. S. Khrushchev
- Nam Dao
- Nam Dao Nguyễn Mạnh Hùng
- Nam Đan
- Nam Đông
- Nam Nguyên
- Nam Sơn
- Natalia lacovelli
- Nataliya Zhynkina
- Natsume Sōseki
- Nay Aung
- ng. anhanh
- Ng.Uyển Nicole Dương
- Ngải Vị VỊ
- Ngân Xuyên
- Nghệ thuật
- Nghiêm Lương Thành
- Nghiêm Phương Mai
- Nghiêm Xuân Hồng
- Nghiên Cứu Phê Bình
- Ngo Thu
- Ngọc Anh
- Ngọc Duy Phan
- Ngoc Hien Bui
- Ngọc Linh
- Ngô Anh Tuấn
- Ngô Bảo Châu
- Ngô Đình Thẩm
- Ngô Đồng
- Ngô Hương Giang
- Ngô Khắc Tài
- Ngộ Không Phí Ngọc Hùng
- Ngô Liêm Khoan
- Ngô Minh
- Ngô Minh Khôi
- Ngô Ngọc Loan
- Ngô Ngọc Trai
- Ngô Nguyên Dũng
- Ngô Quốc Phương
- Ngô Quốc Thịnh
- Ngô Thế Vinh
- Ngô Thị Kim Cúc
- Ngô Thị Thanh Lịch
- Ngô Tùng Phong
- Ngô Tự Lập
- Ngô Văn
- Ngô Văn Giá
- Ngô Viết Nam Sơn
- Ngô Viết Trọng
- Ngô Vĩnh Long
- Ngô Xuân Hội
- Ngô Xuân Phúc
- Ngô Xuân Thảo
- Ngu Yên
- Nguyen Duc Thanh
- Nguyễn Hải Hoành
- Nguyễn Anh Dũng
- Nguyễn Anh Tuấn
- Nguyễn Anh Tuấn - đạo diễn
- Nguyễn Bá Chung
- Nguyễn Bách Việt
- Nguyễn Bảo Chân
- Nguyễn Bắc Sơn
- Nguyên Bình
- Nguyên Cầm
- Nguyên Chánh
- Nguyễn Chí Hoan
- Nguyễn Chí Trung
- Nguyễn Chí Tuyến
- Nguyễn Chinh Trung
- Nguyễn Cung Thông
- Nguyễn Cường
- Nguyễn Danh Bằng
- Nguyễn Danh Huế
- Nguyễn Danh Lam
- Nguyễn Ðăng Thường
- Nguyễn Duy
- Nguyễn Đạt
- Nguyễn Đắc Kiên
- Nguyễn Đắc Xuân
- Nguyễn Đăng Điệp
- Nguyễn Đăng Hưng
- Nguyễn Đăng Khoa
- Nguyễn Đăng Mạnh
- Nguyễn Đăng Na
- Nguyễn Đăng Quang
- Nguyễn Đăng Thường
- Nguyễn Đình Ấm
- Nguyễn Đình Bin
- Nguyễn Đình Bổn
- Nguyễn Đình Chú
- Nguyễn Đình Cống
- Nguyễn Đình Đăng
- Nguyễn Đình Huỳnh
- Nguyễn Đình Thắng
- Nguyễn Đình Thi
- Nguyễn Đình Toàn
- Nguyễn Đổng Chi
- Nguyễn Đông Thức
- Nguyễn Đức
- Nguyễn Đức Dương
- Nguyễn Đức Hiệp
- Nguyễn Đức Mậu
- Nguyễn Đức Sơn
- Nguyễn Đức Thắng
- Nguyễn Đức Tiến
- Nguyễn Đức Tùng
- Nguyễn Đức Tường
- Nguyễn Gia Trí
- Nguyên Giác
- Nguyên Giác Phan Tấn Hải
- Nguyễn Hà Luân
- Nguyễn Hải Hoành
- Nguyễn Hải Yến
- Nguyễn Hàn Chung
- Nguyễn Hiến Lê
- Nguyễn Hoa Lư
- Nguyễn Hoài Nam
- Nguyễn Hoài Văn
- Nguyễn Hoài Vân
- Nguyễn Hoàn
- Nguyễn Hoàng Ánh
- Nguyễn Hoàng Anh Thư
- Nguyễn Hoàng Diệu Thủy
- Nguyễn Hoàng Diệu Thúy
- Nguyễn Hoàng Giao
- Nguyễn Hoàng Linh
- Nguyễn Hoàng Trung
- Nguyễn Hoàng Văn
- Nguyễn Hồng Anh
- Nguyễn Hồng Giao
- Nguyễn Hồng Hưng
- Nguyễn Hồng Lam
- Nguyễn Hồng Nhung
- Nguyễn Hồng Thục
- Nguyễn Huệ Chi
- Nguyễn Hùng
- Nguyễn Huy Hoàng
- Nguyễn Huy Thiệp
- Nguyễn Huy Vũ
- Nguyên Hưng
- Nguyễn Hưng Quốc
- Nguyễn Hương
- Nguyễn Hữu Đễ
- Nguyễn Hữu Hồng Minh
- Nguyễn Hữu Liêm
- Nguyễn Hữu Nhật
- Nguyễn Hữu Sơn
- Nguyễn Hữu Thiết
- Nguyễn Hữu Việt Hưng
- Nguyễn Hữu Vinh
- Nguyễn kc Hậu
- Nguyễn Khải
- Nguyễn Khánh Duy
- Nguyễn Khánh Trường
- Nguyễn Khắc An
- Nguyễn Khắc Bình
- Nguyễn Khắc Mai
- Nguyễn Khắc Phê
- Nguyễn Khắc Phi
- Nguyễn Khắc Phục
- Nguyễn Khiêm
- Nguyễn Khôi
- Nguyễn Kiến Phước
- Nguyễn Kiều Dung
- Nguyễn Kiều Hưng
- Nguyên Lạc
- Nguyễn Lãm Thắng
- Nguyễn Lan Phương
- Nguyễn Lân Bình
- Nguyễn Lân Thắng
- Nguyễn Lê Hồng Hưng
- Nguyễn Lệ Uyên
- Nguyễn Linh Giang
- Nguyễn Linh Quang
- Nguyễn Lộ Trạch
- Nguyễn Luận
- Nguyễn Lương Hải Khôi
- Nguyễn Lương Ngọc
- Nguyễn Lương Vỵ
- Nguyễn Mai
- Nguyễn Man Nhiên
- Nguyễn Mạnh An Dân
- Nguyễn Mạnh Côn
- Nguyễn Mạnh Đẩu
- Nguyễn Mạnh Tiến
- Nguyễn Manh Trinh
- Nguyễn Mạnh Trinh
- Nguyễn Mạnh Tuấn
- Nguyễn Mạnh Tường
- Nguyễn Minh Anh
- Nguyễn Minh Hòa
- Nguyễn Minh Kính
- Nguyễn Minh Nhị
- Nguyễn Minh Nhựt
- Nguyễn Minh Thuyết
- Nguyễn Mộng Giác
- Nguyên Ngọc
- Nguyễn Ngọc Chu
- Nguyễn Ngọc Giao
- Nguyễn Ngọc Hoa
- Nguyễn Ngọc Lanh
- Nguyễn Ngọc Liễm
- Nguyễn Ngọc Lung
- Nguyễn Ngọc Tâm
- Nguyễn Ngọc Thiện
- Nguyễn Ngọc Tú Anh
- Nguyễn Ngọc Tư
- Nguyên Nguyên
- Nguyễn Nguyên Bình
- Nguyễn Nhật Tín
- Nguyên Nhi
- Nguyễn Như Huy
- Nguyễn Phạm Hùng
- Nguyễn Phú Yên
- Nguyễn Phúc Vĩnh Ba
- Nguyễn Phượng
- Nguyễn Phương Đình
- Nguyễn Phương Mai
- Nguyễn Phương Mạnh
- Nguyễn Quang
- Nguyễn Quang A
- Nguyễn Quang Bình
- Nguyễn Quang Duy
- Nguyễn Quang Dy
- Nguyễn Quang Đồng
- Nguyễn Quang Hồng
- Nguyễn Quang Hưng
- Nguyễn Quang Lập
- Nguyễn Quang Thạch
- Nguyễn Quang Thân
- Nguyễn Quang Thiều
- Nguyễn Quang VInh
- Nguyễn Quân
- Nguyễn Quốc Lâm
- Nguyễn Quốc Thái
- Nguyễn Quốc Toàn
- Nguyễn Quốc Trụ
- Nguyễn Quốc Tuấn
- Nguyên Sa
- Nguyễn Sĩ Dũng
- Nguyễn Sơn Lâm
- Nguyễn Sỹ Phương
- Nguyễn Sỹ Tế
- Nguyễn Tà Cúc
- Nguyễn Tài Cẩn
- Nguyễn Tấn Cứ
- Nguyễn Tất Nhiên
- Nguyễn Thạch Giang
- Nguyễn Thái Hòa
- Nguyễn Thái Hợp
- Nguyễn Thái Sơn
- Nguyễn Thái Tuấn
- Nguyễn Thanh Bình
- Nguyễn Thanh Châu
- Nguyễn Thanh Giang
- Nguyễn Thanh Hiện
- Nguyễn Thanh Hùng
- Nguyễn Thanh Huyền
- Nguyễn Thanh Mỹ
- Nguyễn Thành Nam
- Nguyễn Thanh Nghị
- Nguyễn Thanh Nguyệt
- Nguyễn Thành Phong
- Nguyễn Thanh Sơn
- Nguyễn Thành Sơn
- Nguyễn Thanh Tâm
- Nguyễn Thành Thi
- Nguyễn Thanh Tuyền
- Nguyễn Thanh Văn
- Nguyễn Thanh Việt
- Nguyễn Thế Hùng
- Nguyễn Thế Thanh
- Nguyễn Thị Bích Hậu
- Nguyễn Thị Bích Ngà
- Nguyễn Thị Bình
- Nguyễn thị Cỏ May
- Nguyễn Thị Dư Khánh
- Nguyễn Thị Hải
- Nguyễn Thị Hậu
- Nguyễn Thị Hiền
- Nguyễn Thị Hoàng
- Nguyễn Thị Hoàng Bắc
- Nguyễn Thị Khánh Minh
- Nguyễn Thị Khánh Trâm
- Nguyễn Thị Kim Chi
- Nguyễn Thị Kim Phụng
- Nguyễn Thị Minh Ngọc
- Nguyễn Thị Minh Thương
- Nguyễn Thị Ngọc Hải
- Nguyễn Thị Ngọc Nhung
- Nguyễn Thị Oanh
- Nguyễn Thị Phước
- Nguyễn Thị Thanh Bình
- Nguyễn Thị Thanh Hải
- Nguyễn Thị Thanh Lưu
- Nguyễn Thị Thanh Xuân
- Nguyễn Thị Thanh Yến
- Nguyễn Thị Thảo An
- Nguyễn Thị Thúy Hạnh
- Nguyễn Thị Thùy Linh
- Nguyễn Thị Thụy Vũ
- Nguyễn Thị Tịnh Thy
- Nguyễn Thị Từ Huy
- Nguyễn Thị Vinh
- Nguyễn Thiện Tống
- Nguyễn Thói Đời
- Nguyễn Thông
- Nguyễn Thu Quỳnh
- Nguyễn Thu Trang
- Nguyễn Thùy Dương
- Nguyễn Thúy Hạnh
- Nguyễn Thụy Long
- Nguyễn Thuỵ Phương
- Nguyễn Thùy Song Thanh
- Nguyễn Thỵ
- Nguyễn Thy Anh
- Nguyễn Tiến Dũng
- Nguyễn Tiến Lập
- Nguyễn Tiến Trung
- Nguyễn Tiến Văn
- Nguyễn Trần Bạt
- Nguyễn Tri Phương Đông
- Nguyễn Triệu Nam
- Nguyễn Trọng Bình
- Nguyễn Trọng Chức
- Nguyễn Trọng Huân
- Nguyễn Trọng Khôi
- Nguyễn Trọng Tạo
- Nguyễn Trung
- Nguyễn Trung Bảo
- Nguyễn Trung Dân
- Nguyễn Trung Hiếu
- Nguyễn Trung Kiên
- Nguyễn Trung Thuần
- Nguyễn Trường Giang
- Nguyễn Trường Huy
- Nguyễn Trường Uy
- Nguyễn Tuấn
- Nguyễn Tuấn Anh
- Nguyễn Tuấn Khoa
- Nguyễn Tùng Linh
- Nguyễn Tuyết Lan
- Nguyễn Tuyết Lộc
- Nguyễn Tư Nghiêm
- Nguyễn Tử Siêm
- Nguyễn Tường Bách
- Nguyễn Tường Thiết
- Nguyễn Tường Thụy
- Nguyễn Ước
- Nguyễn Vạn Phú
- Nguyễn Văn
- Nguyễn Văn Ba
- Nguyễn Văn Chính
- Nguyễn Văn Ðậu
- Nguyễn Văn Dũng
- Nguyễn Văn Đài
- Nguyễn Văn Gia
- Nguyễn Văn Hạnh
- Nguyễn Văn Hùng
- Nguyễn Văn Huyên
- Nguyễn Văn Lợi
- Nguyễn Văn Lục
- Nguyễn Văn Miếng
- Nguyễn Văn Nghệ
- Nguyễn Văn Nho
- Nguyễn Văn Phong
- Nguyễn Văn Phú
- Nguyễn Văn Phước
- Nguyễn Văn Sâm
- Nguyễn Văn Sơn
- Nguyễn Văn Tao
- Nguyễn Văn Thiệu
- Nguyễn Văn Thọ
- Nguyễn Văn Trọng
- Nguyễn Văn Trung
- Nguyễn Văn Tuấn
- Nguyễn Văn Vĩnh
- Nguyễn Văn Xuân
- Nguyễn Vi Khải
- Nguyễn Vi Yên
- Nguyễn Viện
- Nguyễn Việt Anh
- Nguyễn Việt Chiến
- Nguyễn Viết Lãm
- Nguyễn Vĩnh Nguyên
- Nguyễn Vũ Hiệp
- Nguyễn Vũ Tiềm
- Nguyễn Vỹ
- Nguyễn Vy Khanh
- Nguyễn Xuân Diện
- Nguyễn Xuân Hằng
- Nguyễn Xuân Hoàng
- Nguyễn Xuân Hưng
- Nguyễn Xuân Khánh
- Nguyễn Xuân Nghĩa
- Nguyễn Xuân Nha
- Nguyễn Xuân Quang
- Nguyễn Xuân Thiệp
- Nguyễn Xuân Thọ
- Nguyễn Xuân Tiệp
- Nguyễn Xuân Tường Vy
- Nguyễn Xuân Xanh
- Nguyễn Ý Thuần
- Nguyên Yên
- Nguyễn-Chương Mt
- Nguyễn-hòa-Trước
- Nguyệt Chu
- Nguyệt Quỳnh
- Nguyệt Vi
- Ngự Thuyết
- Người Buôn Gió
- Ngyễn Trung Bảo
- Nh. Tay Ngàn
- Nhã
- Nhã Ca
- Nhã Duy
- Nhã Thuyên
- Nhan Do Thanh
- Nhân Hồng
- Nhật Chiêu
- Nhật Lệ
- Nhất Linh
- Nhật Tiến
- Nhật Tuấn
- Nhất Uyên
- Nhị Linh
- Nhị Ngã
- Nhóm Vì một Hà Nội xanh
- Như Huy
- Như Không
- Như Quỳnh
- Như Quỳnh de Prelle
- Như Ý
- Nhược Thủy
- Niall Ferguson
- Nick Hilden
- Nicolas Casey
- Nikulin
- Nina McPherson
- Ninh Dương
- Ninh Kiều
- Nobert Hummelt
- Nông Hồng Diệu
- NP Phan
- Obama
- Ocean Vương
- Octavio Paz
- Oksana Zabuzhko
- Oleg Kashin
- Ondrej Slowik
- onggiaolang
- Orlando Figes
- Orwell
- Oscar Salemink
- Oscar Wilde
- Pablo Neruda
- Palmer
- Patrick Lodge
- Paul Auster
- Paul Celan
- Paul Hoover
- Paul Mendez
- Paul Mozur
- Paul Theroux
- Paul-François Paoli
- Paulus Lê Sơn
- Pavel Basinsky
- Pavlo Vyshebaba
- Pawel Kuczynski
- Paweł Łepkowski
- Percy Mabandu
- Pervez Hoodbhoy
- Peter Hansen
- Peter Kleiner
- Peter Singer
- Phạm Anh Tuấn
- Phạm Biểu Tâm
- Phạm Cao Hoàng
- Phạm Châu
- Phạm Chí Dũng
- Phạm Chi Lan
- Phạm Chu Sa
- Phạm Công Luận
- Phạm Công Thiện
- Phạm Công Út
- Phạm Duy
- Phạm Duy Nghĩa
- Phạm Đình Trọng
- Phạm Đình Vy
- Phạm Đoan Trang
- Phạm Hải Anh
- Phạm Hải Âu
- Phạm Hiền Mây
- Phạm Hoàng Quân
- Phạm Hồng Sơn
- Phạm Hùng Việt
- Phạm Huy Thông
- Phạm Khiêm Ích
- Phạm Kiều Tùng
- Phạm Kỳ Đăng
- Phạm Lệ Quyên
- Phạm Lê Vương Các
- Phạm Linh
- Phạm Lưu Vũ
- Phạm Minh Hoàng
- Phạm Minh Ngọc
- Phạm Minh Quân
- Phạm Minh Trung
- Phạm Ngọc Lư
- Phạm Ngọc Thái
- Phạm Ngọc Tiến
- Phạm Nguyên Trường
- Phạm Phan Long
- Phạm Phú Cường
- Phạm Phú Hải
- Phạm Phú Minh
- Phạm Phú Phong
- Phạm Phú Thứ
- Phạm Phú Viết
- Phạm Phúc Thịnh
- Phạm Phương
- Phạm Quang Ái
- Phạm Quang Long
- Phạm Quang Trung
- Phạm Quang Tuấn
- Phạm Sỹ Sáu
- Phạm Tăng
- Phạm Thành
- Phạm Thành Hưng
- Phạm Thanh Nghiên
- Phạm Thảo Nguyên
- Phạm Thế Cường
- Phạm Thị
- Phạm Thị Anh Nga
- Phạm Thị Hoài
- Phạm Thị Kiều Ly
- Phạm Thị Ngọc
- Phạm Thị Phương
- Phạm Thiên Ân
- Phạm Thiên Thư
- Phạm Tín An Ninh
- Phạm Toàn
- Phạm Trần
- Phạm Trọng Chánh
- Phạm Trung Nghĩa
- Phạm Tuấn
- Phạm Tư Thanh Thiện
- Phạm Tường Vân
- Phạm Văn
- Phạm Văn Khoái
- Phạm Văn Quang
- Phạm Văn Tình
- Phạm Văn Vũ
- Pham Viem Phuong
- Phạm Viêm Phương
- Phạm Viết Đào
- Phạm Việt Hưng
- Phạm Vũ Lửa Hạ
- Phạm Xuân Đài
- Phạm Xuân Hùng
- Phạm Xuân Nguyên
- Phạm Xuân Trường
- Phan An Sa
- Phan Ba
- Phan Bội Châu
- Phan Cẩm Thượng
- Phan Châu Thành
- Phan Cự Đệ
- Phan Đạo
- Phan Đắc Lữ
- Phan Đình Diệu
- Phan Độc Lập
- Phan Hải-Đăng
- Phan Hồng Giang
- Phan Huy Dũng
- Phan Huy Đường
- Phan Huy Lê
- Phan Huyền Thư
- Phan Kế Toại
- Phan Khôi
- Phan Lặng Yên
- Phan Mạnh Quỳnh
- Phan Nam Sinh
- Phan Ngọc
- Phan Nguyên
- Phan Nhật Nam
- Phan Nhiên Hạo
- Phan Ni Tấn
- Phan Phương Đạt
- Phan Quang
- Phan Tấn Hải
- Phan Tấn Uẩn
- Phan Thanh Bình
- Phan Thắng
- Phan Thế Hải
- Phan Thị Hà Dương
- Phan Thị Kim Phúc
- Phan Thị Trọng Tuyển
- Phan Thị Vàng Anh
- Phan Thúy Hà
- Phan Trang Hy
- Phan Trí Đỉnh
- Phan Trọng Hoàng Linh
- Phan Văn Giưỡng
- Phan Văn Thắng
- Phan Vũ
- Phan Xine
- Phan Xuân Sinh
- Phannguyên Psg
- Phanxipăng
- Phaolô VI
- Pháp Hoan
- Pháp Vân
- Phapxa Chan
- Phát biểu nhận giải Văn Việt
- Phil Caputo
- Philip Larkin
- Philip Roth
- Phong Linh
- Phong Nguyen
- Phong Quang
- Phố Văn
- Phú Quang
- Phù Sa
- Phúc Lai GB
- Phúc Tiến
- Phunchok Stobdan
- Phùng Anh Kiệt
- Phùng Hi
- Phùng Hoài Ngọc
- Phùng Học Vinh
- Phùng Ngọc Kiên
- Phùng Nguyễn
- Phùng Quán
- Phùng Thành Chủng
- Phùng Thị Hạ Nguyên
- Phùng Thị Như Hà
- Phuong Ta
- Phương Hương
- Phương Phương
- Phương Thảo
- Phương Thuý
- Phương Uy
- Pierre Darriulat
- Pierre Lemieux
- Prashanth Parameswaran
- Qladimir Pyljow
- Quách Hạo Nhiên
- Quách Tấn
- Quách Thoại
- Quảng Diệu Trần Bảo Toàn
- Quang Dũng
- Quang Đức
- Quang Minh
- Quang Phan
- Quảng Tánh Trần Cầm
- Quế Hương
- Quốc Dũng
- Quốc Phương
- Quốc Toản
- Quyên Di
- Quyên Hoàng
- Quỳnh Iris de Prelle
- Quỳnh Vi
- Rabindranath Tagore
- Rainer Maria Rilke
- Ralph Chaplin
- Rebecca Solnit
- Reiner Traub
- Remo Verdickt
- Riccardo Gazzaniga
- Richard C. Paddock
- Richard Millet
- Richard Serra
- Robert McCrump
- Roger Vu
- Roland Barthes
- Romain Rolland
- Ronald F. Inglehart
- Ruben David Gonzalez Gallego
- Ruth Ingram
- Ryszard Legutko
- Salman Rushdie
- Salvatore Babones
- Sam Dresser
- Sạn chữ
- Sandra Kerschbaumer
- Sara Teasdale
- Sarah Pulliam Bailey
- Sarah Thornton
- Sáu Nghệ
- Sergio Bitar
- Shakespeare
- Shannon Van Sant
- Sheila Fischman
- Sheila Ngoc Pham
- Sheri Berman
- Shigeeda Yutaka
- Shukshin
- Simon Johnson
- Sire Apm Lukwesa
- Slavoj Žižek
- Sohaniim
- Son Kieu Mai
- Song Chi
- Song Hà
- Song Nguyễn
- Song Phạm
- Song Phan
- Song Thao
- Số đặc biệt
- Sơn Ca
- Sơn Hoàng Liên
- Sơn Kiều Mai
- Sơn Nam
- Stefano Harney
- Stephan Koester
- Stephen B. Young
- Steve Earle
- Susan Sontag
- Suzuki Katsuhiko
- Sương Nguyệt Minh
- Sương Quỳnh
- Svetlana Alexievich
- Svetlana Alexievitch
- Svetlana Alexiévitch
- T. Đ.
- T.Vấn
- Tạ Anh Thư
- Tạ Chí Đại Trường
- Tạ Duy Anh
- Tạ Tỵ
- Tạ Văn Tài
- Tạ Văn Thông
- Tạ Xuân Hải
- Tadeusz Rósewicz
- Tam Ích
- Tamarchenko
- Tàn Tuyết
- Taras Shevchenko
- Tăng Quang
- Tâm An
- Tâm Chánh
- Tâm Don
- Tâm Thường Định
- Tâm Việt
- Tấn An
- Teolinda Gersão
- Teresa Mỹ Chúc
- Thạch Đạt Lang
- Thạch Quỳ
- Thạch Thảo
- Thái Bá Tân
- Thái Bá Vân
- Thái Bảo
- Thái Hà
- Thái Hạo
- Thái Kế Toại
- Thái Kim Lan
- Thái Ngọc San
- Thái Sinh
- Thái Thanh
- Thái Thăng Long
- Thái Tuấn
- Thái Văn
- Thái Văn Đào
- Thái Vũ
- Thạnh Đà
- Thanh Hằng - Anh Khoa
- Thành Lộc
- Thanh Nam
- Thanh Ngọc
- Thanh Phương
- Thanh Tâm Tuyền
- Thanh Thảo
- Thanh Thuỷ
- Thanh Trúc
- Thanh Tùng
- Thanh Xuân
- Thanhhà Lại
- Thảo Dân
- Thao Dinh
- Thảo luận
- Thảo Nguyên
- Thảo Trường
- Thảo Vy
- Thẩm Đống
- Thận Nhiên
- Thân Trọng Mẫn
- Thân Trọng Sơn
- Thế Dũng
- Thế Giang
- Thế Quân
- THẾ THANH
- Thế Uyên
- Thi Hoàng
- Thi Nguyên
- Thi sỹ ỦA
- Thi Vũ
- Thích Nhất Hạnh
- Thích Nữ Chân Không
- Thích Phước An
- Thierry Leclère
- Thierry Lentz
- Thiên Di
- Thiên Điểu
- Thiền Lâm
- Thiền Nguyễn
- Thiên Thai
- Thiện Tùng
- Thiện Ý
- Thiết Thạch
- Thiếu Khanh
- Thiều Mai Lâm
- Tho Nguyen
- Thomas A. Bass
- Thomas Bo Pedersen
- Thomas Mahler
- Thomas S. Mullaney
- Thông Đặng
- Thơ
- Thu Phong
- Thu Vàng
- Thuận
- Thuần Ngô
- Thuận Paris
- Thuận Thiên
- Thục Quyên
- Thụy An
- Thùy Dung
- Thụy Khuê
- Thùy Linh
- Thụy My
- Thư Bạn Đọc
- Thường Quán
- Thy An
- Tịch Ru
- Tiet Hung Thai
- Tiêu Dao Bảo Cự
- Tiêu Kiện Sinh
- Tiểu Tử
- Tillman Miller
- Timothy Garton Ash
- Timothy Snyder
- Tina Hà Giang
- Tô Đăng Khoa
- Tô Hải
- Tô Hoàng
- Tố Hữu
- Tô Lan Hương
- Tô Ngọc Vân
- Tô Thẩm Huy
- Tô Thùy Yên
- Tô Văn Trường
- Tôi Đây
- Tôn Thất Thông
- Tống Văn Công
- Trà Đóa
- Trà Nhiên
- Tracy K. Smith
- Tran Dinh Dung
- Tran Nam Dung
- Trang Châu
- Trang Hạ
- Trang Thanh
- Trang Thế Hy
- Trangđài Glassey Trầnguyễn
- Trangđài Glasssey-Trầnguyễn
- Trao đổi
- Trầm Tử Thiêng
- Trần Anh Hùng
- Trần Bá Đại Dương
- Trần Bang
- Trần Bình Nam
- Trần Cao Lĩnh
- Trần Cao Tường
- Trần Công Tâm
- Trần Công Tín
- Trần Dạ Từ
- Trần Dần
- Trần Doãn Nho
- Trần Dũng Thanh Huy
- Trần Duy
- Trần Duy Phiên
- Trần Duy Trung
- Trần Đăng Khoa
- Trần Đăng Tuấn
- Trần Đĩnh
- Trần Đình Bút
- Trần Đình Hoành
- Trần Đình Lương
- Trần Đình Sơn Cước
- Trần Đình Sử
- Trần Đình Triển
- Trần Đình Trợ
- Trần Độ
- Trần Đồng Minh
- Trần Đức Anh Sơn
- Trần Đức Thảo
- Trần Đức Tiến
- Trần Đức Tín
- Trần Đức Toản
- Trần Gia Huấn
- Trần Gia Ninh
- Trần Hà Linh
- Trần Hạ Tháp
- Trần Hạ Vi
- Trần Hạnh
- Trần Hậu
- Trần Hoài Anh
- Trần Hoài Thư
- Trần Hoàng Phố
- Trần Hoàng Trúc
- Trần Hoàng Vy
- Trần Hùng
- Trần Huy Bích
- Trần Huy Minh Phương
- Trần Huy Quang
- Trần Huỳnh Duy Thức
- Trần Hữu Dũng
- Trần Hữu Khánh
- Trần Hữu Quang
- Trần Hữu Tá
- Trần Hữu Thục
- Trần Khánh Triệu
- Trần Kiêm Đoàn
- Trần Kiêm Trinh Tiên
- Trần Kim Trắc
- Trần Kỳ Trung
- Trần Lam
- Trần Lê Sơn Ý
- Trần Lương
- Trần Lý Trí Tân
- Trần Mạnh Hảo
- Trần Mạnh Tuấn
- Trần Minh Phi
- Trần Minh Quốc
- Trần Mộng Tú
- Trần Nam Bình
- Trần Ngân Hà
- Trần Nghi Hoàng
- Trần Ngọc Cư
- Trần Ngọc Hiếu
- Trần Ngọc Tuấn
- Trần Ngọc Vương
- Trần Nguyên Đán
- Trần Nhã Thụy
- Trần Nhương
- Trần Phong Giao
- Trần Phong Vũ
- Trần Quang Đức
- Trần Quang Lộc
- Trần Quốc Nam
- Trần Quốc Thuận
- Trần Quốc Toàn
- Trần Quốc Trọng
- Trần Quốc Vượng
- Trân Sa
- Trần Song Hào
- Trần Thành
- Trần Thanh Ái
- Trần Thanh Cảnh
- Trần Thanh Huy
- Trần Thanh Vân
- Trần Thắng
- Trần Thế Vĩnh
- Trần Thị Băng Thanh
- Trần Thị Diệu Tâm
- Trần Thị Lai Hồng
- Trần Thị Lam
- Trần Thị NgH.
- Trần Thị Nguyệt Mai
- Trần Thị Phương Phương
- Trần Thị Thanh Thoả
- Trần Thị Trường
- Trần Thiện Đạo
- Trần Thùy Mai
- Trần Tiến
- Trần Tiễn Cao Đăng
- Trần Tiến Dũng
- Trần Tiễn Khanh
- Trần Tố Nga
- Trần Trọng Dương
- Trần Trọng Thức
- Trần Trọng Vũ
- Trần Trung Chính
- Trần Trung Đạo
- Trần Tuấn
- Trần Từ Mai
- Trần Vàng Sao
- Trần Văn Chánh
- Trần Văn Đỉnh
- Trần Văn Khê
- Trần Văn Minh
- Trần Văn Nam
- Trần Văn Thọ
- Trần Văn Thủy
- Trần Văn Tý
- Trần Vấn Lệ
- Trần Việt Hà
- Trần Viết Ngạc
- Trần Vinh Dự
- Trần Vũ
- Trần Vũ Hải
- Trần Vương Thuấn
- Trần Vương Thuận
- Trần Wũ Khang
- Trần Xuân Hoài
- Trần Xuân Linh
- Trần Xuân Lĩnh
- Trần Xuân Thảo
- Trần Yên Hòa
- Trần Yên Nguyên
- Trên
- Trên Facebook
- Trên Facebook/Minds
- Trên kệ sách
- Trên trang diaCRITICS
- Trí Hiệu Dân
- Triều Anh
- Triều Hoa Đại
- Triêu Nhan
- Triều Sơn
- Triệu Tử Dương
- Trịnh Anh Tuấn
- Trịnh Bá Phương
- Trịnh Bách
- Trịnh Cao Hòa Thanh
- Trịnh Chu
- Trịnh Công Sơn
- Trịnh Cung
- Trịnh Duy Kỳ
- Trịnh Hữu Long
- Trịnh Kim Tiến
- Trịnh Lữ
- Trịnh Minh Tuấn
- Trịnh Sơn
- Trịnh Thanh Thủy
- Trịnh Thu Tuyết
- Trịnh Vĩnh Phúc
- Trịnh Xuân Thuận
- Trịnh Xuân Thủy
- Trịnh Y Thư
- Trọng Anh
- Trọng Phú
- Trọng Thành
- Tru Sa
- Trúc Giang
- Trúc Thông
- Trúc Ty
- Trump
- Trung Bảo
- Trung Dũng Kqd
- Trùng Dương
- Trung Trung Đỉnh
- Trư Sa
- Trường An
- Trương Anh Ngọc
- Trương Anh Thụy
- Trương Chính
- Trương Duy Nhất
- Trương Đăng Dung
- Trương Điện Thắng
- Trương Đình Phượng
- Trương Hồng Quang
- Trương Huy San
- Trường Minh
- Trương Ngọc Chương
- Trương Nguyên
- Trương Nguyện Thành
- Trương Nhân Tuấn
- Trương Phượng
- Trương Quang
- Trương Quang Đệ
- Trương Quang Nhuệ
- Trương Quang Vĩnh
- Trương Thị Ngọc Hân
- Trương Thiên Phàm
- Trương Thu Hiền
- Trương Tố Hoa
- Trương Trọng Nghĩa
- Trương Tửu
- Trương Văn Dân
- Trương Văn Vĩnh
- Trương Vũ
- Trương Xuân Thiên
- Tú Mỡ
- Tù Quốc Hoài
- Tù Sâm
- Tú Trung Hồ
- Tuấn Khanh
- Tuân Nguyễn
- Tuấn Thảo
- Tuệ Anh
- Tuệ Đăng
- Tuệ Nguyên
- Tuệ Nhật
- Tuệ Sĩ
- Tuệ Sỹ
- Tùng Dương Cola
- Tung Nguyen
- Turner
- Túy Hồng
- Tuyết Nghi
- Tư
- Từ Dung
- Tư liệu
- Tử Linh
- Từ Mai Trần Huy Bích
- Từ Quốc Hoài
- Từ Sâm
- Từ Thức
- Tưởng
- Tương Lai
- Umberto Eco
- Uông Tăng Kỳ
- Uông Triều
- Uyển Ca
- Uyên Nguyễn
- Uyên Thao
- Uyên Vũ
- V. Erofiev
- Vàng A Giang
- Varlam Shalamov
- Vasco Gargalo
- Vasily Makarovich
- Văn
- Văn Biển
- Văn Cao
- Văn Chinh
- Văn Công Hùng
- Văn Giá
- Văn học
- Văn học Miền Nam 54-75
- Văn Như Cương
- Văn Quang
- Văn Tâm
- Văn Việt
- Vấn đề hôm nay
- Vận Động Ứng Cử Đại Biểu Quốc Hội 2016
- Vân Hạ
- Vân Phi
- Velcrow Ripper
- Veronica Melkozerova
- Vi Lãng
- Vi Trần
- Vi Yên
- Viet Thanh Nguyen
- Viên Linh
- Việt Bách
- Việt Bình
- Việt Dzũng
- Việt Khang
- Việt Phương
- Viktor Maslov
- Vinh Anh
- Vĩnh Hảo
- Vĩnh Quyền
- Virginia Heffernan
- Virginia Woolf
- Vladimir Nabokov
- Võ An Đôn
- Võ Anh Minh
- Võ Anh Thơ
- Võ Bá Cường
- Võ Đắc Danh
- Võ Định Hình
- Võ Đức Phúc
- Võ Hồng
- Võ Huy Tâm
- Võ Kỳ Điền
- Võ Ngàn Sông
- Võ Phiến
- Võ Thị Hảo
- Võ Thị Thu Hằng
- Võ Tiến Cường
- Võ Trí Hảo
- Võ Văn Quản
- Võ Văn Tạo
- Võ Văn Thôn
- Võ Xuân Quế
- Võ Xuân Sơn
- Volodymyr Vynnychenko
- Volodymyr Zelenskyy
- Vũ Bằng
- Vũ Biện Điền
- Vũ Cao Đàm
- Vũ Cát Tường
- Vũ Đình Hòe
- Vũ Đình Huỳnh
- Vũ Đình Liên
- Vũ Đình Phòng
- Vũ Đức Khanh
- Vũ Đức Phúc
- Vũ Đức Sao Biển
- Vu Gia
- Vũ Hà Văn
- Vũ Hạnh
- Vũ Hoàng Chương
- Vũ Hoàng Thư
- Vũ Hồng Ánh
- Vũ Huy Ngọc
- Vũ Huy Quang
- Vũ Khắc Hoè
- Vũ Khắc Khoan
- Vũ Kim Hạnh
- Vũ Kim Thu
- Vũ Lâm
- Vũ Lập Nhật
- Vũ My Lan
- Vũ Ngọc Giao
- Vũ Ngọc Hoàng
- Vũ Ngọc Tâm
- Vũ Ngọc Tiến
- Vũ Nho
- Vũ Oanh
- Vũ Quang Việt
- Vũ Quí Hạo Nhiên
- Vũ Quốc Ngữ
- Vũ Quỳnh Hương
- Vũ Quỳnh Nh.
- Vũ Thành Sơn
- Vũ Thanh Tùng
- Vũ Thành Tự Anh
- Vũ Thế Khôi
- Vũ Thị Hải
- Vũ Thị Nhuận
- Vũ Thị Phương Anh
- Vũ Thị Phương Lan
- Vũ Thị Thanh Mai
- Vũ Thư Hiên
- Vũ Tiến Lập
- Vũ Trọng Khải
- Vũ Tuấn Hoàng
- Vũ Từ Trang
- Vũ Tường
- Vũ Viết Tuân
- Vũ Xuân Tửu
- Vương Bích Ngọc
- Vương Đan
- Vương Huy
- Vương Ngọc Minh
- Vương Tiểu Nhị
- Vương Trí Nhàn
- Vương Trọng
- Vương Trùng Dương
- Vương Trung Hiếu
- Vy Thảo
- W. H. Auden
- Wa Praong
- Walt Whitman
- Walter Isaacson
- Wayne Karlin
- Wells
- Wilhelm Schmid
- Will Nguyen
- William Carlos Williams
- William Nee
- William Stafford
- Winston Phan Đào Nguyên
- Wislawa Szymborska
- Wolf Biermann
- Wolfgang Borchert
- Wynn Gadkar Wilcox
- Xie Tao
- Xuân Ba
- Xuân Diệu
- Xuân Dương
- Xuân Đài
- Xuân Minh
- Xuân Phượng
- Xuân Sách
- Xuân Thọ
- Xuân Vũ
- Xương Văn
- Y Chan
- Ý Nhi
- Y Uyên
- Yevgeny Yevtushenko
- Yên Ba
- Yên Khắc Chính
- Yến Năng
- Yên San
- Yên San Thụy Miên
- Yiyun Li
- Yoko Ogawa
- Yōko Ogawa
- Yuliya Ilchuk
- Yuno Bigboi
- Yves Sintomer
- Yvette Tan
- Zac Herman
Văn Hải ngoại sau 1975 (kỳ 38): Hồ Trường An
Tên thật Nguyễn Viết Quang. Sinh ngày 11/11/1938 tại Long Đức Đông, tỉnh Vĩnh Long. Sĩ quan quân lực Việt Nam Cộng Hoà. Hiện cư ngụ tại Troyes, Pháp.
Trong nước, đã cộng tác với các báo: Bách Khoa, Tin Văn, Tin Sách, Tranh Thủ, Tiền Phong, Tiền Tuyến, Tiểu Thuyết Thứ Năm, Bút Hoa...
Ra hải ngoại, cộng tác với các báo: Quê Mẹ, Hồn Nước, Đất Mới, Văn, Văn Học Nghệ Thuật, Văn Học, Bút Lửa, Lạc Hồng, Viên Giác, Đẹp, Tự Do (Texas), Tự Do (Canada), Chiêu Dương, Xây Dựng, Lửa Việt, Làng Văn, Hợp Lưu, Thế Kỷ 21, Hải Ngoại Nhân Văn, Cỏ Thơm...
Tác phẩm của Hồ Trường An gồm trên 20 truyện dài, trên 10 tập truyện ngắn, gần 20 tập biên khảo, ký sự, bút ký…
Bèo bọt
Năm nay ông Nhưn Giáp cảm thấy mình mỏi mệt và yếu sức lắm rồi, nên bàn với vợ:
- Chắc là tôi khó thể theo nghề thương hồ nữa. Vợ chồng mình hãy còn một ít vốn liếng, nên thu xếp về Đạo Thạnh. Bà nên mua một con heo nọc đi bỏ giống kiếm ăn qua ngày. Còn tui trở lại nghề thiến heo, chắc cũng không đến nỗi chết đói đâu.
Bà Nhưn Giáp nghiến răng:
- Tui đã thề với má tui là không bao giờ tui trở về Đạo Thạnh. Nay ông ứng bà hành gì mà mà ông lại có ý nghĩ kỳ cục đó? Thà tụi mình tấp vào xứ khỉ ho cò gáy nào đó để “trụ” còn hơn là quay về cái xứ Đạo Thạnh bạc bẽo đó?
Bà nguýt chồng rồi lần ra trước mũi ghe mở khạp gạo xúc gạo nấu cơm. Chiều nay ghe chở than củi của hai vợ chồng đã đến chợ Cái Răng thuộc tỉnh Cần Thơ. Họ mua than ở U Minh Thượng lần hồi về đây. Bà vốn thực tế. Ngoài việc chở than bà còn mua thuốc cao đơn hườn tán, bán dọc đường. Đã gần hai mươi năm qua, hai vợ chồng sống nghề thương hồ. Họ mua đi bán lại đủ thứ loại hàng hoá: lúa than, mắm, lá chầm, đồ gốm, mía… Hai mươi năm trước, cả hai sống bằng nghề buôn theo gót du canh, theo nghĩa là đoàn người khẩn hoang đến từ địa danh hoang vu này đến địa danh khỉ ho cò gáy khác. Đoàn người khẩn hoang kia đốn tràm, đốt sậy làm rẫy, làm ruộng, lập vườn,… Cuộc đất vừa hình thành có khách trú tới mở tiệm tạp hoá, tiệm trà, tiệm trồn răng vàng, tiệm bán đồ sắt…
Đạo Thạnh là một làng nằm gần Ngả Ba Trung Lương thuộc tỉnh Mỹ Tho, nổi tiếng về mận hồng đào, một loại mận màu hường lợt nhưng không ngọt bằng mận da người. Đạo Thạnh cách ga xe lửa Trung Lương một cây số, cách châu thành tỉnh Mỹ Tho bốn cây số. Cách đây ba mươi năm, có lần bà Nhơn Giáp theo về Đạo Thạnh. Chỉ về quê cũ một lần thôi mà tâm tư bà còn ê ẩm cho tới bây giờ.
Số là bà Tám Liệu, má của bà Nhơn Giáp vốn là người làng Đạo Thạnh hồi mười sáu tuổi theo cô Hai Ngọc Loan, con bà Thông Đàn về Vĩnh Long vì cô Loan lấy chồng xa, cần có người tớ gái tâm phúc để đỡ đần tay chân và bậu bạn sớm hôm. Chồng cô Loan là thầy Ba Phương, con ông Hương Cả Thành mới hai mươi tuổi mà đã có tương lai sáng sủa. Thầy làm thông ngôn cho quan Chánh Chủ Tỉnh người Pháp ở Vĩnh Long, được ông giúp đỡ để tiến thân vào làm trong Soái Phủ Nam Kỳ. Sau mười bảy năm ở đợ. Tám Liệu không nghe cô Loan lúc đó đã trở thành bà Phủ Phương, tính chuyện lứa đôi cho mình. Tám Liệu dan díu với Hai Báu, làm thợ rèn trong làng, có chửa, bị chủ đánh đập rồi đuổi đi. Tám Liệu sống nghèo khổ với Hai Báu ở trong lò rèn bên sông Cổ Chiên; mãi đến khi con Tý (tức bà Nhưn Giáp bây giờ) lên mười tuổi bà tính về thăm Đạo Thạnh một chuyến. Hai Báu can vợ:
- Đi xa làm ăn có khá giả thì khi về thăm quê, xóm giềng cũ mới trọng vọng mình. Má nó bỏ xứ suốt 27 năm rồi, người thân thuộc lớp chết, lớp tứ tán đến nơi khác, còn ai đâu mà về thăm? Lại nữa, má nó về Đạo Thạnh chẳng có một phân vàng nào đeo, chẳng có quần hàng áo lụa để diện thì về đó ai mà thèm chứa?
Bà Tám Liệu không nghe dắt con gái lên đò máy về Đạo Thạnh. Bà chỉ có bộ đồ vải xiêm đen bóng lớp hồ gọi là tươm tất. Tai bà đeo bông chuỗi hỗ phách, cườm tay đeo chiếc huyền. Cô con gái mặc chiếc áo vải in bông đã cũ, quẩn vải ú. Đúng như lời Hai Báu tiên đoán. Dân làng Đạo Thạnh hầu hết không ai nhìn ra bà Tám Liệu. Có vài chỗ bà con xa lạ lại thấy bà ăn mặc lôi thôi tỏ ra lợt lạt không thèm mời ăn trầu uống nước chứ đừng nói là mời ăn cơm. Buồn tủi quá, bà Tám Liệu mua bánh bò, bánh ích và nhang đèn tìm đến mồ mả cha mẹ cúng vái rồi dắt con ra ga xe lửa Trung Lương ngủ đỡ một đêm, để sáng sớm cả hai đến Ngả Ba Trung Lương đón xe đò về Vĩnh Long.
Cô Tý lớn lên được cha mẹ gả cho một anh kép hát bội tên Giáp cũng xuất thân từ Đạo Thạnh. Kép Giáp mặt mũi khôi ngô, nhưng đến tuổi 30 thì hư tiếng, phải làm kẻ nhắc tuồng cho đào kép, mà người trong nghề gọi là Nhưn… Nhưn Giáp đêm đêm đứng ở cánh gà nhắc tuồng cho đào kép mãi đâm chán nên bỏ đi làm nghề thương hồ khá hơn…
Ba mươi năm thấm thoát trôi qua.
Giờ đây chiều xuống êm đềm. Bên kia sông, sát bến nước là chỗ phơi lưới cá, có chiến vó vừa cất lên. Sau chỗ phơi lưới cá là chiếc lò gạch nóc tròn, màu gạch đỏ rực trong ánh hoàng hôn. Bà Nhưn Giáp đợi cơm sôi, sẵn mẻ than nướng mấy con khô sặc sửa soạn dọn mâm nhậu cho chồng.
Cũng đã từ lâu khi thấy cảnh vợ chồng không con không cái mà cứ trôi nổi bình bồng trên chiếc ghe thương hồ hoài, bà cũng tự hỏi, rồi đây cả hai chết dọc đường thì thi thể tìm đâu ra miếng đất an táng? Bà cũng tự giận mình, hồi 40 tuổi mà không chịu nuôi một đứa con để cậy nhờ lúc tuổi già bóng xế.
Ông Nhưn Giáp hiện giờ có một người em gái tên là cô Ba Ất, đi tu từ nhỏ, có lập một cái am nhỏ ở làng Lộc Hoà tỉnh Vĩnh Long. Vợ chồng ông Nhưn Giáp hễ làm có tiền, sắm vàng rồi gửi cho em, tính đến nay cũng súc tích được mười bảy lượng vàng rồi. Ông bà không dám lận tiền trong mình vì trên bước đường thương hồ dẫy đầy trộm cướp. Sư bà Diệu Pháp, pháp danh của Ba Ất đã bao phen khuyên anh chị nên “trụ” lại bất cứ một địa danh nào thích hợp, rồi cất nhà rồi lần hồi buôn bán, sắm vườn, có cơ ngơi vững chắc để gởi nắm xương tàn về sau. Ông Nhưn Giáp sực nhớ đến chuyện lũ voi rừng già, dù có kiệt quệ thế mấy, mà khi gần chết cũng tìm về cho được chốn bỏ thây của đồng loại mình để xương cố và cặp ngà của mình được gần xương cốt và cặp ngà của đồng loại.
Dù sao ở Đạo Thạnh ông Nhưn Giáp cũng còn một mảnh vườn hai sào đất, giáp với vườn làng (tức là vườn thuộc về ban Hương Chức Hội Tề), ở đó có phần mộ cha mẹ ông. Bấy lâu hai sào đất đó, ông cho đứt một đứa em bà con nhà chú để hắn trồng cây đinh hương cân bán cho tiệm thuốc bắc cùng trông khoai từ, khoai môn, khoai sọ.
Tuy ghét làng Đạo Thạnh, tuy thấy chồng lẩn thẩn chưa chi mà tính việc hậu sự, nhưng bà Nhưn Giáp cũng cảm thấy kiếp sống thương hồ phải chấm dứt trong vòng năm tới. Gặp trời lạnh, trời ẩm ướt các khớp xương bà đau nhức, lòng ngực như chứa sa mù đặc sệt khiến cho hơi thở của bà khò khè.
Ông Nhưn Giáp ngồi trước mũi nghe nhậu một mình cho tới lúc bóng trăng trồi lên khỏi ngọn bần ven sông Bassac ba sào. Trong khoang ghe, bà Nhưn Giáp thắp ngọn đèn dầu mỡ cá, rồi lấy chiếc tượng sành đổ vào đó một ít cơm nóng và rưới một muỗng nước cá kho sền sệt. Vậy là xong bữa ăn tối. Cơm xong, bà giăng mùng đi ngủ sớm, trong lúc ông lấy cây đờn cò kéo ò e những bản Xuân Nữ, Tây Thi, Văn Thiên Trường…
Trong mùng, bà Nhưn Giáp chạnh nghĩ tới những đoạn đời tha phương cầu thực: những gánh hát nhỏ di chuyển bằng ghe, những kẻ du canh, nhưng khách thương hồ. Có một hôm nọ, cách đây bốn năm ông Nhưn Giáp bán trúng kỳ dưa hấu lời năm mươi phần trăm số vốn, nên đưa vợ đi ăn ở một tiệm cơm Tàu tại chợ Vang Xáng, thuộc huyện Hoả Lựu, tỉnh Rạch Giá. Đây cũng có thể gọi là cao lâu, vì nó có căn gác rộng, mái lợp ngói móc, trần gỗ.
Ông mặc bộ bà ba vải xiêm đen, vai quàng khăn rằn tất cả đều mới tinh. Bà mặc chiếc áo xuyến trắng, quần lãnh trơn, tóc chải láng, đeo một vài món nữ trang bằng vàng pha đồng, đi guốc sơn đen mới. Cả hai mạnh dạn bước lên lầu, gọi phổ ky đem món ăn lại. Bên cạnh bàn hai ông bà đã có một chiếc bàn sắp sẵn một vài dĩa thức ăn, cơm canh cùng nhạo rượu và 4 ly uống rượu. Giữa bàn là một bát nhang, có cắm sẵn nén nhang huyền đàn tuôn khói nghi ngút. Một người đàn bà tuổi ngoại tứ tuần, ốm tong teo, lưỡng quyền nhô lên cao đang khấn lạy, nước mắt tuôn lai láng. Sau khi rót rượu ra cúng, bà ta còn khóc thêm chặp nữa và thu mình trong góc căn lầu… chờ nhang cháy hết, cầm đũa ăn cơm.
Hai vợ chồng ông Nhưn Giáp bồi hồi nhìn nhau. Cả hai đều biết người đàn bà đó đang làm đám giỗ cho người thân; nhưng vì chưa về nhà kịp (hoặc vì không có nhà) nên đành cúng kiếng ở tiệm ăn. Cảnh tượng gợi lên kiếp người bèo bọt, cái số phận cô độc của một vài người đã từng quen biết với cặp vợ chồng không con này.
Vốn tò mò, bà Nhưn Giáp muốn hỏi người đàn bà rằng: “Cô giỗ ai đó?” Nhưng ông chồng vừa thoáng thấy vẻ tò mò của vợ, vội vàng nắm áo kéo và lại. Theo ông, chuyện muốn biết người được giỗ cúng là ai không cần thiết. Bà vợ ông có thể đoán ngược, đoán xuôi mà vẫn thấm thía cuộc đời bèo bọt như thường. Quả vậy, hôm đó trở về ghe, bà Nhưn Giáp khóc cả buổi. Ông cũng không biết phải khuyên can, an ủi bà cách nào? Từ lâu, cảnh già không con, cuộc sống bềnh bồng làm cho vợ chồng bao phen suy nghĩ, và càng lúc nó trở thành một ám ảnh không nguôi, một ám ảnh vằng vặc. Thế mà cả hai không ai dám nói ra. Vì cả hai vẫn còn có ảo tưởng mình khoẻ mạnh, nếu không đeo đuổi nghề thương hồ thì biết làm nghề gì hơn? Nhưng giờ đây cảnh cúng giỗ dọc đường xuôi ngược nhắc nhở họ nên “trụ” lại, và vô tình nó làm cho hai vợ chồng cảm thấy mình yếu đi nhiều, sức khoẻ không còn vững vàng như hồi năm ngoái.
Rồi đó một hôm ghe chở lúa của cặp vợ chông thương hồ kia phải ghé nhà thờ Cái Răng, vì hôm đó bà ngã bịnh ban cua lưỡi trắng. Vị linh mục nhân từ khuyên ông đưa vợ đi nhà thương ở Cần Thơ điều trị. Chừng bà bình phục, ông vẫn neo thuyền dưới bến nước nhà thờ. Dù là đạo Phật nhưng vì mến linh mục, ông Nhưn Giáp vẫn dư lễ Chúa Nhật vẫn mang hoa huệ dâng Đức Mẹ, và vì hiếu kỳ ông, ông chú tâm nghe lời Cha giảng Kinh. Và đau khổ cho ông biết bao, bao nhiêu lời giảng đạo bay vuột qua khỏi trí óc của ông, chỉ trừ một câu: Chồn cáo có hang, chim có tổ, con người không có chỗ gối đầu.
Ông Nhưn Giáp bao phen rùng mình khi nghĩ tới cái quên hương vĩnh viễn của con người. Sống gửi thác về… Nếu về dưới âm phủ địa ngục thì buồn quá để rồi lại sống gởi trên trần gian bao nhiêu lượt nữa? Đi về rồi lại đi về. Vậy thì cõi âm phủ đâu phải là quê hương vĩnh viễn của con người? Nếu nó vĩnh viễn thì đâu có vụ đi đi về về, đâu còn cái vụ “sống gửi thác về?” Lại nữa cõi âm là cõi của kẻ bị trừng phạt, cõi u tối đầy tiếng rên than. Vậy thì quê hương đau khổ đến vậy sao?
Cô Ba Ất, em của ông Nhưn Giáp vốn sinh trưởng ở Đạo Thạnh, sau theo cha mẹ về Cầu Dài, một ngoại ô của tỉnh Vĩnh Long cách thành phố con rạch Long Hồ. Vậy mà, có lần theo cha mẹ đi Lộc Hoà mua bán, khi đi ngang doi đất có có cây gừa, cây đa, cô bỗng bảo:
- Hồi đó tui ở đây.
Bà mẹ mắng:
- Đồ khùng, mày ở hồi nào tới giờ theo vợ chồng tao ở hai nơi là Đạo Thạnh và Cầu Dài… Mày ở hồi nào?
Cô Ba Ất rơi nước mắt:
- Tui là con gái ông Hương Cả Bình. Hồi đó tui tên Hoà.
Cha mẹ ông Nhưn Giáp kinh hoảng và ngạc nhiên tột độ. Cả hai dọ hỏi thì mới biết Lộc Hoà có gia đình ông Hương Cả Bình. Ông này có cô con gái út tê Hoà, chết hồi 18 tuổi.
Cô Út khẳng định:
- Tự dưng qua đây, tui nhớ lại quê nhà hồi kiếp trước.
Và cô than thở:
- Ba má nghĩ coi, kiếp trước tui có một quê hương, kiếp này tui có hai ba quê hương. Con người không có chỗ “trụ” vũng chắc, muốn ở yên không được, cứ trôi nổi hoài. Thôi xin ba má tha tội bất hiếu cho tui, tui muốn ở đây tu hành. Vì ở đây có am sư cô Diệu Mãn.
Dầu có ráo nước miếng khuyên lơn, nhưng vì thấy con gái quyết chí xuất gia nên đành để cô Ba Ất đến am Thanh Liêm tu hành.
Tối nay, trong cơn gió sông hiu hiu, dưới ánh trăng bạc nhược lọc qua lớp sa mù ẩm đục, tự dưng ông Nhưn Giáp nhớ lại ánh đèn dầu chong dưới mái am. Cô Ba Ất giờ đây trở thành sư bà Diệu Pháp, tu hai pháp môn Thiền Tông và Tịnh Độ - Thiền Tịnh Song Tu. Tết năm ngoái, vợ chồng ông có về Lộc Hoà thăm sư bà. Mỗi khi nhìn vầng trán cao sáng sủa đôi mắt hiền lành của em, ông Nhưn Giáp ôn lại chuyện tiên kiếp của sư bà. Ông không tin rằng em mình bịa đặt. Làm sao ai có thể cắt nghĩa cái hiện tượng nhớ lại kiếp trước của em ông? Tai mắt con người có giới hạn, làm sao thấy xa và nghe xa trên cõi trần, huống hồ gì tới chuyện tiền kiếp? Nhưng nhà ông Hương Cả Bình ở Lộc Hoà còn đó. Sự thác sanh của cô Hoà vẫn có thiệt. Làm sao một kẻ chưa từng đi Lộc Hoà bao giờ như em gái ông lại biết được? Lại nữa, em gái ông khi đến nhà ông Hương Cả Bình còn chỉ cho người đào ở gần hông nhà, dưới đám cây bồ công anh, gặp một cái chén da rạn, một cái dĩa quả tử mà hồi xưa cô Hoà đã chôn lén.
Quê hương bao kiếp trước. Quê hương kiếp này. Quê hương bao kiếp sau. Đó là chỉ nói quê hương trên cõi trần. Lại còn quê hương vào lúc “thác về” tức là cõi âm phủ. Thì ra con người có quê hương thật sự bao giờ đâu! Phải đi đi về về suốt qua hai cảnh giới. Hồi còn mạnh khoẻ, còn hăng hái bán buôn, còn say mê cảnh sôgn hồ, chưa bao giờ ông nghĩ tới chuyện sống chết luân hồi. Nhưng, lúc sức lực cạn vơi, và sau bao năm xuôi ngược trên sóng nước, tự dưng trong cõi sâu thẳm của tâm linh ông bỗng loé ra một tia sáng bạc nhược, nhưng cũng đủ cho ông biết rằng: Ngay trên cõi tạm này là cõi trần gian, có mấy ai suốt đời ở một nơi cố định? Dù vui hay khổ về chuyện xê dịch, nhưng đến lúc già yếu, ai cũng phải tìm cho ra một chỗ “trụ”. Chuyện đầu thai, chuyện luân hồi, dù chưa có ứng nghiệm, dù tin hay không tin, nhưng ông đủ thấu hiểu rằng con người sinh ra đời chẳng phải là một tình nguyện, mà con người như một mảy lông ném vào cơn vận chuyển không ngừng nghỉ.
“Chồn cáo có hang chim có tổ, con người không có chỗ gối đầu?” Đã bao lần, ông Nhưn Giáp lặp lại câu đó để rồi ngậm ngùi thương xót cho kẻ chết dọc đường, để rồi thương cho lũ voi khi gần chết cố gượng sức lết về hang động của tổ tiên, đồng loại để gửi ngà gửi xương.
Sau khi bán than cho các vựa than ở Cái Răng, ở chợ Cần Thơ, ông bà Nhưn Giáp lần hồi về đến chợ Vĩnh Long. Dọc đường họ bán thuốc cao đơn hườn tán, bán dây chuyền, kim hát máy, bán cuốn bài ca và các tuồng thu tranh trong dĩa nhạc, bán luôn cả dĩa nhựa.
Ông nói với bà:
- Kỳ này, vợ chồng mình mò mẫm đi Lái Thiêu mua lu hũ, chén sành, liễng kiếng để bán dạo khắp vùng Tiền Giang. Mình bán hết chuyến chót thì năm cùng tháng tận, rồi về Lộc Hoà ăn Tết với sư bà. Ra giêng mình phải dọ hỏi ruộng đất, hoặc chỗ nào có thể “trụ” để sanh sống… trên bờ thì mua.
Bà vợ nói:
- Ông có cái tật… lên bờ nhớ sông, xuống sông nhớ bờ thì còn nước non gì. Tui còn nhớ lần ông về Lộc Hoà thăm sư bà. Ông nói rằng ông là cá, lên bờ phát ngộp thở như cá mắc cạn.
Về đến chợ Vình Long mà không có hàng hoá thuộc loại thổ sản thì cũng ngặt cho bà. Nhưng bà biết ông thích gặp các tay thương hồ để mặc sức mà đàm đạo chuyện sông hồ, chuyện anh hùng bốn bể, từ chuyện trên nguồn có kẻ đốn củi hầm than tới chuyện ngoài vàm khơi có kẻ chài cá.
Đã ghé bến chợ, bà Nhưn Giáp đi viếng chợ, một một con cá chẻm, một con cá bông để làm món nhậu cho chồng. Khi về tới ghe, bà đã thấy ông chồng đang quạt than nướng khô cá gộc, khô cá thiều. Mùi khô thơm ngát bay toả khắp dãy ghe đậu từ phía bến nước chợ cá tới bến Chú Cụt. Cạnh ghe thương hồ của vợ chồng bà là ghe chở khô mắm Cà Mau. Chủ ghe giữ phần đà công (lái ghe) còn đứa cháu giữ chân trạo phu. Ghe mắm đã bán hết cho vựa bà Tám Phuông bên kia bến chợ, tức là về phía bến Cầu Dài, gần dãi trạm lá chầm. Nhưng còn khô cá sưởu, khô cá lăng sình thì chủ ghe bán lẻ ở tại chợ cá Vĩnh Long.
Bà Nhưn Giáp vừa thấy ông Bảy Tịnh chủ ghe mắm và khô đang lui cui luộc trứng vịt lộn, trứng ung thì biết chốc nữa đây sẽ có cuộc nhậu nhẹt… Ngoài ông Bảy Tịnh còn có ông Ba Chất chủ ghe lươn, ông Năm Bảnh chủ ghe đồ gốm… Thế cũng đủ cho tiệc rượu thêm xôm tụ. Các tuý tửu phiên vương kia có thể nhâm nhi cả lít rượu đế. Bà Nhưn Giáp xưa kia vốn khôgn ưa không ghét chuyện nhậu nhẹt của chồng. Nhưng từ một năm nay, bà thích dỏng tai nghe ké chuyện kể của các tay thương hồ. Bà càng lúc càng muốn chia sẻ tâm sự với họ, nên bà thường tham dự tiệc nhậu, để có dịp hỏi han họ chuyện nọ chuyện kia.
Chiều tối. Thành phố lên đèn. Vì bên rông đầy rác rến, lại gần cầu tiêu chợ, nên ai muốn tắm rửa thì chèo ghe đến khúc sông để tắm gội nấu cơm và xách nước đổ vào hũ, vào khạp, lóng phèn cho nước trong để dành xài. Bà Nhưn Giáp lôi trong rổ những trái cốc, những trái khế, những trái me xanh, rồi gọt vỏ cốc, và rửa khế, me cho sạch, bày tất cả lên dĩa. Trái cây chua chấm mắm ruốc giã tõi ớt cũng là món nhắm đọc đáo rồi. Bà xào nấu hai món nhậu bằng cá chẽm và cá bông rồi dọn vào mâm lớn cho chồng.
Ông Nhưn Giáp hướng về phía chiếc ghe mũi lá chầm, trên đó có chị đàn bà ngoài bốn mươi mặt mày tiều tuỵ, mắt sâu hoắm, tóc tai biếng chải.
- Nè thím Sáu Ách, thím kêu chồng thím qua ghe tui nhậu một phen.
Vợ Sáu Ách hỏi:
- Tụi nhậu ké được không anh Nhưn?
- Có mụ vợ tui, thím tháp tùng qua nhậu cho vui.
Vợ Sáu Ách nói:
- Để tụi này chèo ghe qua bên An Thành tắm rồi lựa trái bần về ăn kèm với mắm cá sặc chắc là ngon.
Chị ta réo bà bán vôi bột đậu ghe ké bên ghe mình, mượn cục xà bông sả đi tắm gội cho thơm tho. Bà Nhưn Giáp nghĩ thầm:
- Con này biết… chuyện. Vợ chồng nó không tắm xà bông sả thì ai mà dám ngồi gần.
Bà vừa chùi nồi, soong vừa cười chúm chím khi nhớ lại cái hôm đầu tiên gặp vợ chồng Sáu Ách. Sáng hôm đầu tiên ngồi tại chợ Vĩnh Long bán khô, bà Nhưn Giáp bỗng chột bụng, mắc đi cầu. Bà liền nhờ bà bán mắm ruốc kế bên coi chừng sạp khô giùm mình và đi lẹ về phía cầu tiêu công cộng cất dựa bến chợ. Vừa xổ bụng xong, thì bà nghe có tiếng cằn nhằn của người đàn bà ngồi dưới sàn cầu tiêu.
- Hôm nay, vừa ra ngõ là mình gặp một chị đàn đàn chửa nên mình xui tận mạng. Nãy có ba ông, ột bà vào đây tiêu chảy thì mình còn kiếm chát được gì đâu.
Thì ra chị đàn bà chuyện nghề đi vớt phân thiên hạ, vò tròn bằng bụm tay, phơi khô rồi bán cho mấy người Tiều (Triều Châu) chuyên nghề làm rẫy.
Đêm đó trằn trọc mãi trong khoang ghe, bà Nhưn Giáp bỗng nghe ở ghe đậu cách ghe bà ba bốn chiếc ghe có tiếng than khóc. Bà rủ ông chui ra ngồi đầu ghe nghe ngóng. Trên trời trăng sáng vằng vặc. Thành phố vào nửa khuya hãy còn ồn ào. Nhưng tiếng ồn ào ở xa văng vẳng mơ hồ vì ngược theo chiều gió chướng thổi lao xao. Tiếng than khóc vì thuận chiều gió, đến tai đôi vợ chồng già rõ mồn một:
Người đàn bà bỗng ngừng khóc đổi qua giọng the thé:
- Hồi đó tui bào anh đi tập hát cải lương. Anh nghe lời ôgn bầu gánh Rương Đen, đi theo nghề hát bội. Giờ đây hát bội hết thời, không ai thèm coi. Gánh Rương Đen rã tại chợ Lách, may mà tui còn chút đỉnh tiền mua chiếc ghe để về đây vớt phân thiên hạ. Vớt ba cái thứ thúi tha hoài, rồi chẳng biết ngày nào về quê quán đây? Năm cùng tháng tận rồi mà mình chưa mua được chai rượu, con vịt để dành ăn Tết.
Tiếng người đàn ông lè nhè:
- Tao biểu mày nín. Số tao là số bần cùng, dẫu có đi theo cải lương, thì với cái giọng thùng thiết bể chắc gì tao được làm kép chánh đâu. Nghề hát bội là nghề ông cha tao, nuôi các cô, các chú, các anh chị em tao đã hai đời rồi; có lẽ nào tao phụ nó? Bộ mày tưởng hễ ai đi hát cải lương rồi cũng ngang hàng với Bảy Nhiêu, Năm Châu, Tư Út hết hay sao? Có nhiều gánh cải lương đi hát ở miễu đình, gặp lúc trời mưa thưa khách thì sáng hôm sau họ đi bắt cóc nấu cháo.
- Thịt cóc coi vậy mà thơm tho, nói cho anh biết.
- Ấy, mình với cứt sanh nhai chớ có ăn cứt đâu nà. Dầu sao đi nữa, mình cũng đắp đổi qua ngày nhờ nghề vớt hạ tiện này. Mày chê nó thì mày ngu như ăn cứt.
Vốn là nghệ sĩ, ông Nhưn Giáp cảm xúc lắm. Vào thập niên 30, các gánh cải lương thuộc loại trung ban khi lưu diễn thì dùng ghe chài. Còn các gánh hát bội, gánh tiểu ban chuyên lưu diễn ở làng, ở quận, thì dĩ nhiên lấy sông nước làm đường di chuyển, lấy rạch con, kinh nhỏ để vào tận các làng hẻo lánh. Hồi xưa ông Nhưn Giáp đi gánh hát Rương Vàng, chuyên diễn tại các miễu, các đình nằm dọc trên rạch Long Hồ, trên sông Cổ Chiên. Gánh Rương Đen rã ba phen. Ông bầu phải trở về nghề làm ruộng rẫy để rồi có đủ tiền, ông hội đào kép cũ dựng lại gánh. Ông bầu cũng là một kép lão đóng vai Tỷ Can trong vở Mổ Tim Tỷ Can hay thần sầu. Đã trót lâm đời nghệ sĩ, đã mắc nợ tổ nghiệp, ai mà rứt khỏi nghiệp cầm ca dễ dàng?
Sáng hôm sau, vợ chồng ông Nhưn Giáp tìm ghe người vớt cứt. Hỏi ra đó là Sáu Ách, em của Hai Canh, mà Hai Canh là bạn chí thân của ông Nhưn Giáp khi cả hai cùng thay phiên đóng các vai chính trên sân khấu Rương Đen. Không ngần ngại, ông Nhưn Giáp lấy năm chục đồng trao cho Sáu Ách, mời hai vợ chồng qua ghe mình dùng cơm, viết một bức thư cho sư bà Diệu Pháp, nhờ sư bà tìm cách giúp đỡ vợ chồng Sáu Ách khi họ về Lộc Hoà.
Khi các bợm nhậu bày tiệc thì bóng trăn tròn trịa đã nằm vắt vẻo trên dãy cây đen thẫm bên kia cù lao An Thành. Riêng cậu Hai Chí Thành, cháu ông Bảy Tịnh không biết nhậu. Cậu vốn ăn chay trường, nhưng cũng đến mâm chậu trái cây chua chấm muối ớt để hóng chuyện sông hồ. Vợ chồng Sáu Ách được tắm gội bằng xà bông sả, họ mặc nguyên bộ quần áo bằng vải ú còn mới thơm mùi lông não.
Mấy hôm rày, ông Năm Bảnh thèm thịt chó, nhưng ông Ba Chất không chịu bảo rằng:
- Con chó vốn là loài thú vật gần gũi với con người, lại hết lòng trung tín với người. Mình ăn thịt nó hoá ra mình ăn thịt thủ hạ mình hay sao? Thủ hạ của mình có khi còn phản phúc nữa là… Còn con chó trước sao sau vậy?
Ông Nhưn Giáp có vẻ yêu mến nể nang cậu Hai Chí Thành lắm. Khuôn mặt của cậu hiền, cậu tươi cười nhưng không có hậu ý gì. Thần thái của cậu sáng rỡ. Hết màng trái cây chua, cậu xin ly nước trà ngồi nhâm nhi hầu chuyện các bậc “trưởng thượng”. Bà Nhưn Giáp đem dĩa bánh xôi vị mời cậu, và nhấn đi nhấn lại đây là món bánh chay.
Các bợm nhậu hết nói về huyền thoại, về truyền kỳ các cuộc đất mà họ đi qua, rồi đề cập cách sinh hoạt các dân vùng khai hoang khẩn đất, về thổ sản. Mới đó mà đã hết một lít rượu ngâm hoài sơn, thục địa và cam thảo. Bà Nhưn Giáp lấy thêm bốn chai rượu nếp than màu nâu đỏ, đặc sền sệt khi rót ra thơm ngào ngạt. Từ ba mươi năm qua, cuộc sống thương hồ đã làm cho tâm hồn bà phong phú, kiến thức bà dồi dào, nhưng giờ đây ám ảnh về chỗ “trụ” đã có một chỗ đứng trong tâm hồn bà, càng ngày càng lớn rộng, càng vững bền. Vợ chồng Sáu Ách sau khi vớt phân thiên hạ, có thể tắm gội bằng xà bông sả là mùi xú khí bay đi, nhưng giấc mộng trở về quê của họ làm sao mà tắt mất? Ông Nhưn Giáp có thể mượn rượu tiêu sầu giải muộn, nhưng khi men rượu thoảng qua, ám ảnh về chỗ “trụ”càng vằng vặc, càng sáng ngời… Còn bà, bà cũng mệt rồi, cần một “chỗ gối đầu” để nghỉ ngơi.
Ông Ba Chất đang lúc ngà ngà vụt tâm sự:
- Bà con biết tại sao tui không ăn thịt chó không? Hồi đó tui sanh đẻ tại Tân Hiệp, thuộc tỉnh Mỹ Tho. Tía tui làm nghề thuốc nam, chuyên nghề sửa những người trặc chân, nghề cắt giác. Tía má tui sanh đầu đuôi có hai anh em tui. Anh lớn tui tên là Hai Chơn. Rồi một ngày nọ, có một người đàn ông xứ Quảng Nam từ Tân An thả xuống, bán quế, kỳ nam, thuốc dán (tức là loại thuốc cao). Ông ta ăn nói vui vẻ tính tình bãi buôi. Tía tui hợp ý với ông ta kết làm anh em, ổng nhỏ hơn tía tui một tuổi làm nghĩa đệ. Dè đâu ôgn này tán tận lương tâm thấy má tui có bóng sắc nên lén tía tui ve vãn má tui. Má tui cũng mê cái mã khôi ngô của ông Quảng Nam, xiêu lòng. Lúc đó, tía tui mắc chứng bệnh phù thủng, không hiểu sao biết được tự sự. Phẫn uất quá, vào lúc sáu giờ sáng, tía tui lết ra đường rầy xe lửa Mỹ Tho - Sài Gòn cho xe lửa cán nát thây. Má tui sau một năm để tang cho tía tui, chánh thức sống chung với ông Quảng Nam. Ổng bắt hai anh em chúng tui đi chăn trâu mướn cho ông Hương Sư Kỉnh ở xóm Tre, cách xóm tôi hai cây số. Thiệt tình, hai anh em tui lúc mới mồ côi cha, còn nhỏ quá đâu hiểu chuyện thương tâm của tía tui. Lại nữa, trẻ con trong xóm hễ vừa mới lớn lên là đi chăn trâu, ở đợ. Hai anh em tui được vợ chồng ông Hương Sư thương tình, cho ở ngoài chòi khá rộng, cất giữa ruộng, có chõng tre, mùng mền, có nồi niêu. Anh tui có nuôi một con chó Vá. Hai anh em tui coi nó như đứa em út trong nhà. Vì mồ côi, nên hai anh em tui thương yêu, trìu mến nhau lắm. Không hiểu ai đó học lại chuyện tự vận của tía tui cho anh tui nghe. Bắt đầu từ đó, ảnh tư lự, buồn bực lắm nên thường đến chùa Kim Quang luôn. Đêm nọ, hai anh em lạnh quá vì vào tiết lập Đông, cả hai ômg chặt nhau ngủ mà không đủ ấm. Ảnh đốt mẻ lửa ở chiếc cà ràng, rồi than thở:
- Ba à, mày thấy chuyện nhà mình thảm thiết lắm không? Lớn lên mày cũng đừng thèm cưới vợ, sanh con làm gì? Đừng có nghĩ nối dòng, nối giống làm chi? Dòng mình là dòng nghèo nàn, làm nghề lặt vặt, hoặc đi làm mướn ở đợ, có gì vẻ vang đâu mà nối? Mà mày cũng đừng oán hận gì ông tía ghẻ tụi mình. Chẳng qua tại kiếp trước, tía tụi mình có làm gì oan trái với ổng, nên kiếp này ổng báo oán.
Rồi một hôm nọ, anh tui tìm về nhà mẹ và tía ghẻ, bảo rằng thôi không làm mướn. Tía ghẻ tụi tui đánh ảnh thiếu điều nứt đít. Ảnh khóc:
- Xin chú đừng giận con tội nghiệp. Con về đây để có chết được thấy mặt má con.
Con chó theo ảnh, chồm lên táp vào cánh tay tía ghẻ tụi tui rồi chạy mất. Má tui liền can gián và lấy muối xức vào vết roi cho anh tui. Đêm đó anh tui nổi cơn nóng lạnh. Sáng ra mình mẩy ảnh đầy mụt đỏ. Ảnh bị trái giống và chết vì bệnh oan nghiệt này. Tía ghẻ tui toan đi thưa làng nước, để đem xác ảnh thiêu ra tro. Má tui khóc, năn nỉ ổng, vào nửa đêm bó chiếu thây ảnh rồi chôn gần chòi tui. Tội nghiệp con chó Vá, cứ mỗi chiều nó ra mộ ảnh nằm rạp, rồi cất mỏ tru lên từng hồi thảm thiết. Mấy cây ổi quanh chòi, cây nào do anh tôi trồng, tôi cắt miếng vải trắng, gọi là để tang cho ảnh. Con Vá chỉ nằm dưới những tàn cây mang mụn vải trắng. Rồi đó, liên tiếp ba ngày tui bị sốt rét, nóng me man, nằm lì trong chòi. Nhờ ông Hương Sư thương tình, mời thầy thuốc nên tôi mới gượng ngồi dậy. Kỳ đó tui đau ban trắng, uống mỗi ngày hai gói cảm mạo phát tán. Con chó Vá cứ quanh quẩn theo tui. Lúc đó, vào mùa Vu Lan, mưa tháng bảy cứ dầm dề. Suốt ba ngày, tui không thấy con Vá. Đến khi mưa tạnh, thằng Ân, tên hầu trà nước của ông Hương Sư đến thăm tôi, và cho tôi biết con Vá đã chết, xác nó nằm úp trên mộ anh tui. Chuyện vẫn chưa hết đâu. Sáu tháng sau, ông tía ghẻ tui phát điên vì nọc chó, cứ rống, cứ tru và như ngộp thở, le lưỡi thở hào hển. Ổng chết. Đó là điều tui rất khổ tâm vì cái cảnh goá bụa của má tui, cảnh côi cút của lũ em khác cha, sau hai năm cư tang cho ông tía ghẻ thứ nhất. Bà sống lận đận với cái nghề mua thúng bán bưng ở ga xe lửa Trung Lương, ở chợ Bến Chùa. Tôi bỏ nhà làng ra đi, để khỏi thấy mấy đứa em tôi bị ông tía ghẻ thứ hai hành hạ. Ông này vốn ghiền rượu, hễ say sưa là ổng đánh má tôi và các em tôi còn hơn kẻ thù. Năm năm sau má tôi qua đời. Các em tôi được người chú đem về Thủ Thừa dạy. Tôi về xóm cũ, chỉ thấy nền nhà cỏ mọc. Sau đó, tôi ở chơi với bà con lối xóm một tháng, thăm mộ tía má tôi, mộ tía ghẻ, và mộ anh tôi, cùng mộ con chó có nghĩa, bồi đắp các ngôi mộ cho tử tế, rồi đi Thủ Thừa thăm các em. Từ đó trên hai mươi năm, tôi vẫn sống đời chợ gạo sông nước, chưa có dịp nào về nơi cố quán cả.
Bóng trăng giờ đây đã lưng chừng trời. Ngoài vàm, một chiếc ghe giương buồm chạy về phía Bắc Mỹ Thuận. Ông Năm Bảnh buồn rầu nói:
- Tui bỏ quê chừng hai mươi năm, trở về thăm quê thì lớp người sanh trước tui rủ nhau thăm ông bà tổ tiên. Điều đó chẳng nói làm chi. Còn những người đồng hành với tui thì cũng đi tứ tán theo kiểu tha phương cầu thực; mà nếu kẻ còn ở lại thì họ cũng già cả lẩn lộ. Tụi nhỏ mới tấn lên, nhìn tui một cách tò mò, ghẻ lạnh. Quê của mình mà làm mình buồn tủi còn hơn quê người. Cảnh vật thay đổi làm mình như lạc lõng ở rừng, ở hóc Bà Tó…
Nãy giờ, cậu Ba Chí Thành yên lặng ngồi nghe các bậc “trưởng thượng” đàm đạo. Cậu chỉ cười hiền, ánh mắt sáng ướt, môi cười chúm chím. Ông Nhưn Giáp liền gợi chuyện với cậu:
- Sao chú Ba? Nãy giờ, cháu chưa kể chuyện về quê quán của cháu cho các chú, các bác cháu ở đây biết. Quê cháu ở đâu?
Cậu Ba Chí Thành nhỏ nhẹ thưa:
- Thưa các bác, các chú, bác Bảy của cháu chắc cũng đã kể qua cho các bác, các chú quê quán của hai bác cháu rồi. Quê cháu ở làng Mỹ An cách tỉnh Vĩnh Long mười lăm cây số. Cháu mồ côi cha mẹ hồi sáu tuổi. Bác Bảy cháu đi buôn, nên giử cháu cho sư bà Diệu Đức ở chùa Sơn Thắng nuôi dưỡng. Sư bà dạy cháu học kinh kệ, và cho học chữ ở nhà trường. Khi 15 tuổi, cháu rời Vĩnh Long, đi lưu học ở Mỹ Tho, tới năm thứ hai chương trình Pháp. Vì thấy sư bà yếu quá, cháu trở về chùa phụng dưỡng sư bà. Thiệt sự, sư bà là kế mẫu của má cháu, nhưng cháu thương bà còn hơn là bà ngoại ruột. Trước khi viên tịch, sư bà muốn cháu đi đây đó để kinh qua thế sự, trước khi trở về chùa tu lại. Mấy năm nay, cháu theo bác Bảy đi thương hồ, có lẽ năm tới cháu trở về chùa, thọ giới sa-di…
Bà Nhưn Giáp nói:
- Vậy thì cậu còn có chỗ trụ; đó là chùa Sơn Thắng chớ gì?
Cậu Ba Chí Thành vẫn giữ giọng ôn nhu:
- Dạ thưa bác Nhưn gái, chùa ở đâu đối với cháu cũng vậy, cũng vừa là nơi tạm, mà cũng vừa là quê hương. Quê hương chỉ là điều mê vọng, chỗ nào ở cõi Ta Bà này cũng chỉ là mê vọng, như vậy thì chỗ nào cũng là quê hương cả. Quê hương thiệt sự có chăng là do ở tâm mình mà thôi.
Ba Chất giả bộ cung kính, xá dài cậu Ba Chí Thành:
- A di đà Phật. Chí Thành Bồ Tát nói cao xa quá tui không hiểu gì hết trọi á. Còn tui chỗ nào có bán rượu là quê hương của tui.
Cậu Ba Chí Thành cười vui vẻ, chớ không cãi cho ra lẽ.
Đêm đó, sau khi tiệc rượu dẹp đi, ai về ghe nấy, ông bà Nhưn Giáp vẫn trằn trọc. Ông thì nhớ lại lời kể của ông Ba Chất mà thương cảm cho kẻ bỏ làng nước để trốn tránh cái tuổi thơ đầy nước mắt của mình và ông thương luôn con chó nằm chết bên mộ chủ. Ông cũng đã xa quê, bỏ lại cái chòi lá xiêu vẹo bên ven ao cuối xóm, bỏ luôn con chó cái và bốn con chó con mới đẻ đầy tháng. May phước con chó cái dắt con đến nhà một bà điền chủ nhơn đức, được bà nuôi luôn. Vậy mà, mười lăm năm sau, tình cờ đi ngang quê cũ, ông có ghé lại thăm, bà con lối xóm kể lại rằng chiều chiều khi bóng hoàng hôn nhuộm vàng một nửa mảnh cái ao, con chó cái dắt con đến chỗ nền chòi xưa, cất tiếng tru lên thẳm thiết. Từ đó, mỗi chiều, khi ghe đậu ở một bên sông nào, ông Nhưn Giáp cũng lắng tai nghe tiếng cho tru để hoài niệm loài nghĩa thú kia. Nhưng đồng thời tiếng chó tru lại thúc giục ông tìm cho mình một quê hương. Tiếng thúc giục đó có khi lẩn vào tiếng gà gáy lẻ tẻ ở một thôn xóm vào buổi trưa lặng ngắt; tiếng gà trưa gợi nên cảnh sống nơi thông ổ trù mật, có tình lân lý, có kỷ niệm trong lễ thánh hội đình.
Còn bà, bà cũng không ngủ vì bứt rứt. Bấy lâu nay đành rằng bà thích chỗ trụ, nhưng nhứt định chỗ trụ không phải làng Đạo Thạnh bên đường rầy xe lửa, gần Ngả Ba Trung Lương. Bà cũng không thích nuôi heo nọc vì bà nhờm gớm cái mùi hôi hám của nó. Ông bà kể như tuyệt tự, có lẽ một dạo ông làm nghề thiến heo, làm tuyệt tự nhiều con heo nên lãnh cái quả xấu ngày nay vậy. Ai đời, ông Nhưn Giáp muốn vợ mình gây giống cho heo, còn ông thì làm tuyệt giống loài heo bằng nghề thiến heo, xây dựng làm chi rồi phá vỡ, ngẫm nghĩ có kỳ cục hết chỗ nói hay không?
Ông Bảy Tịnh nhứt quyết cùng vợ chồng ông Nhưn Giáp vượt sông Cổ Chiên, sông Hàm Luông để xuôi về miền Đông, đến Lái Thiêu mua đồ gốm và liễng kiếng. Liễng kiếng là một thứ liễng làm bằng gương, trên mắt gương dài họ vẽ từng câu chữ nho, có trang trí chung quanh rìa bằng hoa lá, chim bướm, dơi, rồng phụng, tiên cô, tiên ông.
Vào một buổi trưa, hai chiếc ghe tới một bãi hẫm, phía trên bãi hẫm là một vùng cây trầm thuỷ như cây bần, cây đước, cây mắm, và trên nữa là rừng tre, đan chằng chịt dây mây, dây choại, dây cóc kèng…
Nước lớn dồn đầy sông. Sông quá lớn. Đứng bên này bờ sông nhìn qua bên kia, ông Nhưn Giáp chỉ thấy một vệt cây đen thẫm chìm trong hơi nước mù xanh. Gió thổi lồng lộng. Sóng dữ chồm lên từng lượn lớn như vồng khoai tràn vào bãi hẫm rồi rút đi để lại bọt trắng lẫn bọt vàng ngàu vướn víu trên đám lác, đám lục bình.
Ông Bảy Tịnh hỏi ông Nhưn Giáp:
- Nè anh Nhưn, đây là đâu?
Ông Nhưn giáp nói:
- Đây là một khúc quẹo trên con sông Hàm Luông.
Trời ơi, chưa có vượt qua sông lớn lần nào nên hôm nay ông sợ hãi vu vơ. Từ rừng tre, tiếng gà gáy vang. Bình thường tiếng gà trong những thôn ổ tịch mịch vào buổi trưa làm cho ông bồi hồi cảm khái. Còn tiếng gà gáy ở đây sao mà rợn óc. Gà gáy từng chập, không dứt. Và trong cơn gió rào rào từ giữa sông, từ vàm biển đưa lại, có những tiếng rít như tiếng roi mây hươi lên vun vút.
Ông Bảy Tịnh hỏi:
- Mình có nên vượt sông không?
Ông Nhưn Giáp nhìn lên bầu trời không một gợn mây rồi bảo:
- Hôm nay tốt trời, tuy có gió, nhưng không có giông. Ở sông lớn thì gió lúc nào cũng lồng lộng, không bao giờ thoang thoảng như ở kinh rạch. Thôi thì mình vượt sông cho sớm, để rút ngắn hành trình.
Ông Nhưn Giáp điều khiển lái, bà Nhưn Giáp chèo ở trước mũi. Nhưng ghe bên kia thì cậu Ba Chí Thành khôgn làm trạo phu nữa mà giành làm đà công. Gặp sông dài sóng dữ nầy thf phải điều khiển bánh lái một cách dẻo dai mới được.
Hai chiếc ghe mạnh dạn ra giữa dòng. Nhưng lúc đầu thì sóng gối đầu từ giữa sông tràn từng lượn vào bờ, nên ghe có thể nương theo từng lượn một cách nhẹ nhàng . Nhưng tới gần giữa sông, ông Nhưn Giáp hét lên:
- Trời ơi! Sóng lưỡi búa, sóng bạc đầu kìa.
Bà Nhưng Giáp rụng rời. Sóng không di chuyển từng lượn nữa. Chúng trồi lên hụp xuống một chỗ. Ghe không thể gối đầu để tránh cơn úp chụp của sóng nữa. Sóng chồm lên như phủ nhoà chiếc ghe. Ông Nhưn Giáp nghiến răng chèo lướt phăng lên đầu ngọn sóng. Bên kia ông Bảy Tịnh hét lên người cháu:
- Chèo mạnh lên, hễ lướt qua vũng sóng bạc đầu là sẽ tới chỗ sóng gối đầu.
Bà Nhưn Giáp chỉ còn biết niệm Phật, và với một bản năng mù mờ, bà ngước nhìn về phía cậu Ba Chí Thành mà không hiểu tại sao? Có lẽ trong tiềm thức bà, hình ảnh trầm tĩnh dịu dàng của cậu đã đem cho bà niềm thanh thản, an lạc vô bờ bến, nên giữa lúc nguy biến như vậy, bà muốn bấu víu vào cậu để quên bớt cơn kinh hoàng. Quả nhiên cậu Ba Chí Thành không hề đổi sắc mặt. Hai mái chèo của cậu vẫn quạt vun vút để ghe vượt lên hai đầu ngọn sóng lớn như gò cát rồi hạ xuống chỗ trũng của ngọn sóng gối đầu, và từ chỗ trũng sâu thăm thẳm ghe cậu gối đầu ngọn sóng thứ ba và được sóng đưa nhẹ lên cao.
Bên này lúc đầu vì không được bình tĩnh, ông Nhưn Giáp bị ba lượn sóng bạc đầu úp lên ghe và phân nửa chiếc ghe ngập nước. Trong lúc đó cậu Ba Chí Thành gọi lớn:
- Bác Nhưn hãy chèo theo cháu, vùng sóng gối đầu không xa, chèo nhanh lên bác.
Tiếng gọi của cậu lanh lảnh và không bị gió quạt đi. Nó làm cho ông Như Giáp cảm thấy đôi tay mình thêm sức mạnh không thể ngờ. Đôi mái chèo ông đẩy mạnh nối theo đuôi ghe cậu, rớt giữa thung lũng sông và kịp gối đầu lên ngọn sóng cao, ghe không cần đẩy mái chèo mà tự động lên cao xa vùng sóng bạc đầu ác hiểm.
Dù gió rít ghê rợn, nhưng hai chiếc ghe êm đềm thoăn thoắt theo từng lượn sóng đưa vào bờ.
Khi biết mình thoát hiểm, bà Nhưn Giáp gác chèo ngồi trước mũi khóc hu hu. Cậu Ba Chí Thành vẫn cười điềm đạm bảo ông Bảy Tịnh:
- Thưa bác, mình nên neo ghe nghỉ mệt rồi nấu cơm. Tối nay nếu có gió xuôi mình trương buồm cũng không muộn.
Ông Nhưn Giáp như mất hết nội lực, nói xuôi:
- Tối ni là mười ba âm lịch, trăng bắt đầu tròn rồi đó.
Hai chiếc ghe đậu sát bên nhau cạnh một bãi hẫm mọc đầy cây trầm thuỷ như cây vạt sành, cây bần. Trong lúc bà Nhưn Giáp lẩm bẩm khấn vái tạ ơn Trời Phật thì cậu Ba Chí Thành nhúm lửa nấu nước. Ông Bảy Tịnh thở hào hển, rồi khoe với ông Nhưn Giáp:
- Thằng cháu tui thì lúc nào cũng bình tĩnh, coi cái chết như không.
Bà Nhưn Giáp hỏi cậu Ba Chí Thành:
- Bộ cháu không sợ hay sao? Hoặc là cháu gượng làm tỉnh để cho tụi tui đừng mất tinh thần?
Cậu Ba Chí Thành:
- Cháu không sợ - Giọng cậu đều đều và êm nhẹ - Sống hay chết cũng là mê vọng cả, y như giấc chiêm bao.
Ông Bảy Tịnh cười hề hề, lòng tràn ngập thương mến thằng cháu tài giỏi. Ông nói:
- Ừ, sống gửi thác về.
Ông Như Giáp cằn nhằn:
- Về âm phủ thì buồn quá. Nếu nói âm phủ là cái quê quán thiệt sự của mình thì tui không ham rồi đa.
Cậu Ba Chí Thành vẫn cười hiền:
- Thưa đâu phải vậy, cõi trần, cõi âm phủ cũng chỉ là giấc mê mà thôi. Sống ở âm phủ mà lòng mình không khiếp sợ, không đau khổ thì âm phủ còn đâu là âm phủ nữa. Theo cháu, quê hương ở chính cái tâm mình.
Bà Nhưn Giáp tuy không hiểu thủng những gì cậu Ba Chính Thành nói, nhưng bà cảm thấy từ khuôn mặt, từ lời nói, từ dáng điệu, cử chỉ của cậu như toát ra một niềm an lạc, dịu mát nên bà rợn ngợp, nao nao nên không muốn hỏi han lôi thôi gì nữa. Ông Nhưn Giáp cũng như vợ, nhưng hơn vợ ở chỗ là ông như chập chờn nắm bắt được cái ý nghĩa của câu nói của cậu Ba Chí Thành, tuy bắt hụt, nhưng lòng ông như trải rộng ra êm đềm…
Bỗng một chiếc ghe chở lúa thong thả bơi ngang qua. Đà công là một người đàn ông ngoài bốn mươi tuổi, mình mẩy hơi gầy hơi khô, nhưng bắp thịt rắn chắc nổi cuồn cuộn. Người đàn bà chèo trước mũi là một chị đàn bà cũng trạc tứ tuần, da bánh ích, nhưng mặt mũi sáng rỡ, miệng nhai trầu chóc chách, mắt ướt lẳng lơ.
Đà công hỏi lớn:
- Bà con vừa vượt qua sông, phải không?
Ông Bảy Tịnh nói:
- Một lần vượt qua khúc sông nầy là tụi tui như chết đi sống lại.
Chị đàn bà hỏi:
- Trước khi qua sông, bà con có cúng kiếng gì chưa?
Bà Nhưn Giáp nói:
- Tụi tui nào có biết cúng ai? Đây là đâu vậy?
Chị đàn bà chắc lưỡi:
- Muốn qua sông mà bà con gan quá, không cúng kiếng Cậu, hèn chi cậu giận cũng phải. Nhưng mà phước đức của bà con ở đây lớn lắm nên ghe mới không chìm. Nhưng chắc chắn bà con phải một phen hồn phi phách tán.
Ghe lúa ngừng lại. Người đà công nói:
- Các bác và chú em đây xuôi về Mỹ Tho phải không?
Ông Nhưn Giáp gật đầu xác nhận. Người đàn ông biểu vợ cắm sào rồi sửa soạn cơm nước. Chiều dần xuống. Sóng gió vẫn cuồng nộ giữa sông. Chị vợ nói:
- Các bác và chú em cho tụi nầy vầy đoàn với. Hễ tối nay, gió đổi chiều là mình trương buồm cho ghe chạy đua, và mình kể chuyện tào lao cho đỡ buồn.
Ghe lúa chật chội, ông Bảy Tịnh mời vợ chồng chú lái lúa qua chiếc ghe lườn có mui của mình. Ba ghe cùng hùa đem gạo nấu cơm chung trong cái nồi đồng lớn của bà Nhưn Giáp. Canh, cá kho, thịt kho dọn chung nên mâm cơm có vẻ ê hề lắm. Ông Bảy Tịnh lấy chai rượu đế ra rót năm ly. Cậu Ba Chí Thành dùng cơm chay và uống trà. Bà Nhưn Giáp hỏi chú lai lúa:
- Đây là đâu vậy, chú?
Chú lái lúa trợn mắt:
- Trời ơi, bác khôgn biết hay sao? Đây là khúc sông Dinh Cậu. Ai mà nghe nói tới hai tiếng “Dinh Cậu” mà lại chẳng sợ ớn xương sống? Người ta đồn rằng Cậu đây là con trưởng nam của Hà Bá cai quản sông Hàm Luông. Ở đây, khách thương hồ lập miễu thờ Cậu. Miễu tuy nhỏ nhưng đẹp đẽ, cất theo lối thượng thực hạ hư như kiểu nhà sàn, nóc có chạm cặp rồng tranh trái châu, phía trong cũng chạm tứ linh, sơn son thếp vàng hực hỡ. Miễu tuy nhỏ nhưng làm dinh thự cho Cậu. Khách thương hồ nếu muốn vượt sông thì phải lên dinh cúng cho Cậu cặp gà ta và lên nhang đèn khấn vái Cậu thì cậu mới phù hộ vượt qua sông. Còn nếu thiếu sót thì Cậu nhận ghe cho chìm. Bởi đó, ở rừng tre chung quanh “dinh”, gà thả đầy lỉnh nghỉnh. Lâu ngày, từ gà nhà chúng biến thành gà rừng. Gà rừng thì gáy bất kể sớm tối. Chúng sợ chồn cáo nên làm tổ trên nhánh tre nữa là khác.
Người vợ nói:
- Dưới đáy khúc sông nầy, ghe chìm lểnh nghểnh còn hơn bến chợ Cầu Ông Lãnh ở Thầy Gòn . Trước kia, khi muốn nhận chìm ghe ai, Cậu cho cặp ngỗng trắng ở thuỷ phủ trồi lên. Nhưng tầu xà lang của Tây cậy có súng nên tụi Tây đâu thèm sợ cậu, sợ ngỗng. Vừa thấy cặp ngỗng trồi lên là tụi nó bắn chết, máu ngỗng lan rộng cả một khúc sông. Tuy vậy mà Cậu vẫn linh, ai khi dễ cậu là đố qua khỏi sông mà bình yên cho được?
Cậu Ba Chí Thành lắc đầu cười, nhưng không cãi cọ hoặc bàn tán ngang dọc gì hết. Vừa thấy cái lắc đầu nhẹ của cậu, ông Nhưn Giáp chợt hiểu thủng lời nói lúc nãy của cậu mà ôgn không hiểu tại sao mình lại hội được ý của cậu qua cái lắc đầu kín đáo kia. Trước hết ông không tin huyền thoại ác ôn của khúc sông này. Mà nếu Cậu có thật chăng nữa cũng là thứ ta thần, tham của hối lộ khách thương hồ. Sắc mặc thanh thản của cậu Ba Chí Thành như thầm bảo cho ông biết rằng: vào tuổi già bóng xế, bởi ông lo sợ thiếu quê hương, thiếu “chỗ trụ” để gửi nắm xương tàn nên ông lo lắng, ông bất an. Thiệt sự, đâu phải chỉ tìm được “chỗ trụ”, “chỗ gối đầu”, mà ông sẽ được an ổn hưởng cái tuổi già nhà nhã? Về Đạo Thạnh rủi ông gặp tai ương, gặp chuyện bực mình thì cái “chỗ trụ”, “chỗ gối đầu” kia có khác gì âm phủ đâu. Mới hồi xế đây, nếu cuộc vượt sông thất bại, ghe ông chìm đáy nước, vợ chồng ông chết trôi và bên kia cõi chết, vợ chồng ông còn uất ức cái tai ương thì khổ biết bao. Nhưng nếu vợ chồng ông bình thản đón nhận tai nạn, và nếu trong cõi chết cố tâm của cả hai vẫn tiêu dao, bình thản, thì cõi chết còn hạnh phúc hơn “chỗ trụ”, “chỗ gối đầu” muôn vạn lần.
“Quê hương ở tâm!” Trời ơi, câu nói đó dễ hiểu mà khó, khó hiểu mà dễ. Ông Nhưn Giáp cũng biết rằng mình chưa đủ cái lợi căn để nhận diện cái quê hương ở nơi cái Tâm. Làm sao ông có cái tâm bình thản, vững mạnh như cậu Ba Chí Thành. Bởi đó ôgn cần phải có “chỗ trụ”, “chỗ gối đầu”. Nhưng mà “chỗ trụ”, “chỗ gối đầu” đâu cần phải là Đạo Thạnh nói có môg mả tổ tiên ông, nơi đã từng chôn nhau cắt rún của ông. Ông đã hiểu rằng “chỗ trụ”, “chỗ gối đầu” sẽ là bất kỳ ở đâu, có thể là cái am của sư bà Diệu Pháp, chớ chẳng thu hẹp ở Đạo Thạnh, miễn là nơi đó ông tu tập để tìm được cái tâm an lạc.
Đêm đó, gió đổi chiều, trăng sáng vằng vặc. Ba chiếc ghe cùng trương buồm chạy trên dòng nước lao xao sóng vỗ và lấp loáng ánh trăng.
Ngồi giữ lái, ông Nhưn Giáp chưa bao giờ cảm thấy tâm hồn yên tĩnh và bát ngát như giờ phút nầy. Ông cất tiếng hát. Bà Nhưn Giáp cũng cảm thấy bớt lo sợ về viễn ảnh chỗ trụ. Bà chưa tìm được “cái quê hương ở nơi tâm” như cậu Ba Chí Thành bảo. Nhưng nghe ông hát nho nhỏ dưới ánh trăng, bà cảm thấy một cách rõ rệt mà không sao giải thích được là từ đây ông đã qua một giai đoạn sống mới mẻ, không còn nghĩ tới Đạo Thạnh nữa. Tiếng hát của ông khàn đặc, run rẩy, yếu ớt vì tuổi già, không phải là để làm sống lại thời kỳ ông đi lưu diễn gánh “Rương Vàng” đâu. Nó là tiếng vang của tâm hồn ông trước giai đoạn mới của cuộc đời. Bà cảm thấy mình sẽ nương tựa vào chồng để tìm ra cho được “Quê hương ở tâm”, để khỏi nhọc công tìm kiếm “chỗ trụ”, “chỗ gối đầu” ở Đạo Thạnh hay bất cứ ở đâu.
Bên kia ghe lúa, chị vợ nhúm bếp nấu nước pha trà. Trăn sáng vằng vặc dễ làm thao thức lòng người. Làm sao mọi người có thể ngủ trong lúc trăng đẹp trăng trong như vầy? Ghe đi sâu vào khúc sông mà sóng bớt gào thét, và gió chỉ thổi lao rao. Chị vợ lái lúa chõ miệng qua ghe ông Bảy Tịnh năn nỉ cậu Ba Chí Thành:
- Hát huê tình, hát vọng cổ chơi, cậu em.
Cậu Ba nói:
- Tôi không biết hát huê tình. Nhưng tôi cũng đang muốn hát một bài kệ…
Chị vợ lái lúa cười:
- Trên trăng dưới nước cảnh hữu tình như vầy mà hát một bài kệ thì… mà thôi, miễn là cậu hát rồi cậu thưởng thức theo cái đạo tâm của cậu, còn tui thưởng thức theo cái trần tâm của tui. Cậu em hát bài… mặc kệ đi cậu.
Rồi chị ỏn ẻn hỏi chồng:
- Mình, em nói vậy mà có nhằm lẽ, không mình?
- Nhằm lẽ lắm.
- Nhằm lẽ mà hữu tình nữa, hén mình?
- Ừ.
Bà Nhưn Giáp bực cười mắng thầm: “Con này ngựa quá!”
Nhưng lòng bà chẳng có gợn một chút ác cảm nào đối với chị ta. Bà lẳng lặng chờ cậu Ba Chí Thành hát.
Cậu Ba cất giọng lúc đầu hơi e ấp, sau giọng trở nên dạn dĩ và rõ ràng:
Trời đất liếc hề ôi mênh mang
Chống gậy thả rong hề ra chốn ngoại phương
Hoặc đến đỉnh cao hề núi thẳm
Hoặc vào nước sâu hề đại dương
Đói ăn cơm hề do muôn nơi góp lại
Mệt giấc ngủ hề chỗ chẳng quê hương
Hưng thời thổi hề sáo không lỗ
Lặng sẽ đốt hề giải thoát hương (*)
Troyes, ngày 1-5-86
(*) Dịch bài “Phóng Cuồng Ca” của Tuệ Trung Thượng - Sĩ Trần Quốc Tảng.
Bản điện tử của Văn Việt (theo văn bản trên tạp chí Văn Học (Hoa Kỳ) số 6 năm 1986)