Danh ngôn

Trong mọi cộng đồng, chúng ta cần một nhóm thiên thần gây rối.

We need, in every community, a group of angelic troublemakers.

(Bayard Rustin – trích bài phát biểu tại New York City 1963)

Trong mọi trường hợp, chắc chắn rằng sự thiếu hiểu biết, đi kèm với quyền lực, là kẻ thù tàn bạo nhất có thể có của công lý.

It is certain, in any case, that ignorance, allied with power, is the most ferocious enemy justice can have.

(James Baldwin - No Name in the Street 1972)

Các cuộc cách mạng và các cá nhân có thể bị giết hại, nhưng bạn không thể giết chết các ý tưởng.

While revolutionaries and individuals can be murdered, you cannot kill ideas.

(Thomas Sankara, một tuần trước khi bị ám sát, 1987)

Không có cảm giác nào cô đơn hơn việc bị chính đất nước mình trục xuất.

There's not a more lonely feeling than to be banished by my own country.

(Kiyo Sato – Kiyo’s Story 2009)

Ban Biên tập

Địa chỉ liên lạc:

1. Thơ

tho.vanviet.vd@gmail.com

2. Văn

vanviet.van14@gmail.com

3. Nghiên cứu Phê Bình

vanviet.ncpb@gmail.com

4. Vấn đề hôm nay

vanviet.vdhn1@gmail.com

5. Thư bạn đọc

vanviet.tbd14@gmail.com

6. Tư liệu

vanviet.tulieu@gmail.com

7. Văn học Miền Nam 54-75

vanhocmiennam5475@gmail.com

Tra cứu theo tên tác giả

Thứ Bảy, 24 tháng 2, 2018

Trịnh Y Thư, nỗi hoang mang của gã ôm đàn

Nguyễn Đức Tùng

clip_image002



Trịnh Y Thư quan tâm đến sự chính xác, tiết kiệm chữ, nhưng anh cũng để cho khả năng nhạy cảm với mặt trái của xã hội, sự tra tấn, nỗi đau khổ làm bùng vỡ ngôn ngữ. Anh ý thức về sự hữu hạn của kiếp người, thứ sự thật tương đối, về cái chết, mặt tối đen của số phận, các ảo tưởng. Trịnh Y Thư thuộc những nhà thơ hiện đại, tiến rất xa tới gần các biên giới, trở thành một người lạ, đôi khi.


Gió tây bắc hốt hoảng bữa cơm chiều đạm bạc


như một kẻ dại khờ tìm ánh lửa khoan dung


làn tóc rối che giấu


niềm cảm thông vội vã


rồi vụng trộm khép lại


ước vọng thuở đầu đời


(Phế tích của ảo ảnh [4])


 Có những bài thơ của anh như lời độc thoại, như một người đứng trên sân khấu nhưng quay lưng lại với khán giả, tự nói với mình, nhắc đến những kỷ niệm và những ấn tượng mà chỉ mình hiểu được. Khi đó bài thơ của anh đóng kín, sự cảm thông giữa người đọc và tác giả bị tối thiểu hóa. Tuy nhiên, giữa những độc thoại như thế, với cảm giác cô quạnh, giận dữ làm ta ngạc nhiên:


That stupid duplicitous body


I just want to throw away 


Cái thân thể trắc nết ngu xuẩn này


Tôi muốn vứt cho xong1


 Là sự giải thích dịu dàng của anh:


But listen. I also hear the pipes clanking



Nhưng nghe này. Tôi còn nghe tiếng ống sắt rổn rảng1


(Song of The Night)


 Như mở một cánh cửa, bạn tưởng đã hoàn toàn đóng kín.

Sự chuyển hóa tâm linh trong thơ Trịnh Y Thư là sự thay đổi của những tình huống bên ngoài, nội tâm hóa chúng. Cảnh vật trong thơ anh không còn là sông núi, phố phường, hàng xóm nhưng chính là chiều sâu của tâm thức, là tâm cảnh. Giọng điệu trong thơ là một thứ giao hòa giữa thế giới riêng tư, bí ẩn và thế giới công cộng, bên ngoài, xã hội.


Họ là ai tôi tự hỏi


những bản văn tự không ấn giấu


xung quanh một bến nước


có tiếng hát phù trầm


quay quắt một đêm mưa


hàng cau đánh sập sân từ đường


vỡ vụn những viên gạch


khép nép nghìn thu.


(Phế tích của ảo ảnh [3])


 Đôi khi không phải anh trở lại căn nhà cũ, mà chính tình yêu cũ trở về với anh, trong giấc mộng, bên kia tường, trên chiếc bàn đầu giường, dưới ngọn đèn. Những hình ảnh phát ra tiếng nói của chúng, mạnh mẽ đến nỗi những bày tỏ của anh chính là tự biểu hiện của sự vật, những dàn xếp hóa ra là ngẫu hứng, hiện thực chẳng qua là phản chiếu của chính nó.


Nơi tôi đứng chiều nay


những mái nhà nâu


những chiếc cầu lung linh bóng nước


sẽ tan biến cả và còn lại


chỉ là phế tích của ảo ảnh – rớt rơi


(Phế tích của ảo ảnh [1])


 Trịnh Y Thư nói về ảnh hưởng của quá khứ lên hiện thực hôm nay. Anh hoài niệm nhưng không dừng lại ở đó, như một người vừa ra khỏi căn nhà cũ, ngước nhìn bầu trời, lắng nghe tiếng động của cuộc sống, ghi nhớ với một cảm quan sắc bén bất ngờ của người từ xa tới. Mọi vật trở nên sắc sảo, đường nét đậm hơn, mùi vị trở nên mạnh mẽ hơn đối với một người như thế. Đó là sự chú ý vượt ra ngoài ngôn ngữ. Trịnh Y Thư giống nhiều nhà thơ thuộc thế hệ của anh, một nửa Việt Nam, một nửa đời sống xứ người, đôi khi họ tự gọi mình là kẻ lưu vong.


Thốt nhiên tôi quay về hướng mặt trời


một ngày thoát thân – xác quạ lót đường đi


những đám mây tích vô tích sự


(Phế tích của ảo ảnh [2])


 Anh tái hiện năng lượng của các chi tiết đời sống, sự cô đơn, lòng thương tiếc, hối hận, những sai lầm. Thơ tự do của anh có nhạc tính. Có lẽ vì anh là người chơi nhạc. Và mặc dù không hay xuất hiện trước công chúng, Trịnh Y Thư đã dùng một ngôn ngữ có yếu tố giao tiếp, đối thoại.


Cơn gió mùa hè thổi qua thành phố


Vắng bóng những đôi tình nhân


(Cơn gió mùa hè)

hoặc:


Tôi là người về từ đại dương trầm tích


(Phế tích của ảo ảnh [10])


 Tính phức tạp và đa giá trị của thơ đương đại muốn người đọc không ngừng thiết lập và thiết lập trở lại mối quan hệ giữa cá nhân và cộng đồng, giữa hiện tại và quá khứ. Sau cuộc chiến tranh Việt Nam, lịch sử bạo động, những dối trá và giết người, thơ ca có thể làm được điều gì? Không nhiều lắm.

Tập thơ Phế tích của ảo ảnh gồm nhiều bài Trịnh Y Thư viết trong những khoảng thời gian khác nhau, nhan đề là tên của phần đầu tiên của tập thơ gồm ba phần: Phế tích của ảo ảnh; Trong bóng tối ta chẳng tìm thấy nhau; Con nước vô danh2. Có những bài thơ dài, những bài lục bát, thể haiku, thơ có vần và thơ tự do, thơ năm chữ và thơ Tân Hình thức, như vậy trong một cuốn sách khoảng một trăm năm mươi trang, người đọc có thể nhìn thấy gần như tất cả những thể thơ Việt phổ biến trong mấy chục năm nay.


Bao nhiêu năm ở nơi đây


tôi yêu bóng tối phủ đầy quanh tôi


(Con nước vô danh [8])


 Trịnh Y Thư cũng có những câu thơ cũ, rõ ràng chịu ảnh hưởng của người khác:


hồn ai rụng giữa giang hà


tình xanh quyến niệm trên tà áo mơ


(Con nước vô danh [26])


 Tuy nhiên bài thơ của anh thường có khả năng vượt qua sự lẫn lộn giữa một bên là các yếu tố lịch sử, bằng chứng, và một bên là ký ức, trí tưởng tượng. Công chúng đọc thơ ngày càng nhỏ lại nhưng không chịu biến mất. Sự sống sót của họ, công chúng đọc thơ, là sự sống sót của tác giả, của tâm hồn nhân loại. Chỉ riêng điều đó thôi cũng đủ an ủi chúng ta.


Tôi trở về đây vòng quay của đất trời tê tái



thăm hỏi những con người bị lãng quên


nằm chen chúc


dưới đám ruộng


chiêm trũng


lúc giao mùa phất phơ.


(Phế tích của ảo ảnh [3])


 Herbert Marcuse từng viết rằng, sau thảm kịch Auschwitz mà còn làm thơ thì thật là có tội. Thảm kịch Auschwitz của dân tộc Việt Nam đã đến từ lâu, không phải ai cũng đều nhận ra.


Tôi vừa chia tay một linh hồn


tôi vừa gieo vào một đôi mắt


tôi vừa ôm ấp một mái đầu


tôi vừa giẫm nát một con sâu


tôi vừa dụi mắt giấc mơ nào


(Những phiến lá từ tâm)


 Có những giây phút chuyển hóa siêu việt, khi anh đi tìm sự mới mẻ, tìm một tương lai khác và do đó một hoài niệm kiểu khác. Sự giao cảm, đồng cảm của tác giả với người đọc qua những thời gian khó khăn, đã đồng hóa tác giả với số phận của những nhân vật. Tâm lý học của một cộng đồng hay một dân tộc có lẽ chi phối tâm lý một cá nhân ở mức sâu xa đến nỗi trong một số trường hợp chúng chỉ là một.



Tôi nhìn thấy gì trong đôi mắt lá răm


ở nơi có ánh chiều tháng Chạp


và những quả ổi mơn mởn xanh


rầu rầu liếp mía


con giẻ cùi phụ họa


lời ru mái nhà nâu hiu hắt à ơi.


(Phế tích của ảo ảnh [4])


 Liệu các nhà thơ có trách nhiệm gì đối với xã hội hay không? Thật khó trả lời. Tôi nghĩ nhà thơ chỉ có trách nhiệm trong chừng mực mà đề tài của một bài thơ cụ thể hướng về các vấn đề xã hội, chính trị hay luân lý. Ngoài ra, anh ta là một kẻ hát rong, một người đi lang thang trên đường, một người viết không thuộc vào một hệ tư tưởng nào, không phục vụ cho một thể chế nào. Việc nhà thơ bầu cho một chính khách hay chính thể trong đời thực không can hệ gì đến tiếng nói của nhà thơ ấy trong tác phẩm. Chính nhờ thế mà văn chương trở nên nhẹ nhõm, và sự an ủi là cái nhìn trong sáng đối với sự thật.


Bóng ma quá khứ không làm cô sợ hãi


miểng bom cắm trên hương thờ trở thành linh thiêng


(Phế tích của ảo ảnh [4])


 Nơi Trịnh Y Thư, thơ ca đến gần sự kết hợp giữa Tây phương và Đông phương. Anh ít nói về mình, thường không tự bày tỏ, dưới một vẻ ngoài xông xáo là một tâm hồn nhạy cảm, có lúc yếu đuối, có khi mặc cảm, bên dưới sự kiềm chế, một hình thức gần như kỷ luật tinh thần là sự sôi nổi phóng khoáng, mặc dù không hoàn toàn hoang dại. Bên cạnh một cố gắng kết nối với dĩ vãng và truyền thống là tâm thức chia lìa, tự tách rời của một người ngày càng đi xa nguồn cội, không hẳn là hạnh phúc nhưng tự bằng lòng với chọn lựa của mình. Tham vọng của thơ trữ tình là chinh phục tâm hồn của người khác và, do đó, lịch sử kiến tạo nên họ. Trịnh Y Thư không viết về chính trị nhưng sự bày tỏ của anh đều có thể đưa đến những diễn dịch, xa hay gần. Hoài niệm chỉ là hình thức khổ đau mới, câu nói của Charles Baudelaire, mà Trịnh Y Thư ghi trong phần dẫn đề, nói đúng tâm trạng của người đọc và người viết hôm nay, xa xứ hay lưu vong trên chính đất nước mình.


Trăm lần như một tôi không có chọn lựa nào


(Phế tích của ảo ảnh [2])


 Trịnh Y Thư viết ít, các bài thơ không dài lắm, nhưng anh không phải là người quá gọt giũa câu văn. Sự phát triển hay sự trương nở, tôi thiết nghĩ, trong một số trường hợp mang lại nhiều ích lợi hơn cho văn chương. Ở những người viết có tài năng, sự phóng túng, sự buông lỏng mang lại niềm vui thú khó sánh được.


Người con lịch sử khuôn mặt ngươi ở đâu


sau tấm biển quảng cáo nịt vú đàn bà


hay bên kia rừng trảng thâm u


bên dưới những nấm mồ oan khốc


(Phế tích của ảo ảnh [2])


 Đó là một bài thơ xuất sắc: nó có thể thở được. Nó chứa đựng trong đó những số phận, những bi kịch, quang cảnh của một đất nước, của một tâm trạng. Hơn thế nữa nó mang lại nhịp điệu, như một làn sóng nước liên tục có thể đi qua những nhát cắt, trong quá khứ, đổ máu, hay trong hiện tại, hệ ý thức. Tôi tin là người nào có dịp đọc thơ Trịnh Y Thư sẽ yêu mến anh hơn, như một nhà thơ, như một người cùng chia sẻ các số phận; và đằng sau vẻ ngoài lặng lẽ và tiết chế, là một tâm hồn nồng nhiệt và sự phán xét trong sáng.

– Nguyễn Đức Tùng


(Viết sau mấy ngày nằm bệnh, 2/2018)


 Chú thích:


1 Bắc Phong dịch từ nguyên tác tiếng Anh.


2 Phế tích của ảo ảnh, NXB Văn Học, 2017, 149 trang có đánh số, tranh bìa: Nguyễn Đình Thuần; kí họa chân dung và thiết kế bìa: Ái Lan; phụ bản: Thái Tuấn, Đinh Cường, Nguyên Khai, Hoàng Xuân Sơn.