Danh ngôn

Trong mọi cộng đồng, chúng ta cần một nhóm thiên thần gây rối.

We need, in every community, a group of angelic troublemakers.

(Bayard Rustin – trích bài phát biểu tại New York City 1963)

Trong mọi trường hợp, chắc chắn rằng sự thiếu hiểu biết, đi kèm với quyền lực, là kẻ thù tàn bạo nhất có thể có của công lý.

It is certain, in any case, that ignorance, allied with power, is the most ferocious enemy justice can have.

(James Baldwin - No Name in the Street 1972)

Các cuộc cách mạng và các cá nhân có thể bị giết hại, nhưng bạn không thể giết chết các ý tưởng.

While revolutionaries and individuals can be murdered, you cannot kill ideas.

(Thomas Sankara, một tuần trước khi bị ám sát, 1987)

Không có cảm giác nào cô đơn hơn việc bị chính đất nước mình trục xuất.

There's not a more lonely feeling than to be banished by my own country.

(Kiyo Sato – Kiyo’s Story 2009)

Ban Biên tập

Địa chỉ liên lạc:

1. Thơ

tho.vanviet.vd@gmail.com

2. Văn

vanviet.van14@gmail.com

3. Nghiên cứu Phê Bình

vanviet.ncpb@gmail.com

4. Vấn đề hôm nay

vanviet.vdhn1@gmail.com

5. Thư bạn đọc

vanviet.tbd14@gmail.com

6. Tư liệu

vanviet.tulieu@gmail.com

7. Văn học Miền Nam 54-75

vanhocmiennam5475@gmail.com

Tra cứu theo tên tác giả

Thứ Bảy, 28 tháng 10, 2017

Bữa điểm tâm của Trân Sa

Hồ Đình Nghiêm

clip_image002

clip_image004

đời ta đâu phải là cây mục

trôi với rong và rã với rêu

đời ta đâu phải là ga xép

đứng chờ đỗ lại một tàu xiêu.

Bài trên có tựa là “Tĩnh”. Còn dưới đây, thơ mang tên “Động”. Sắp chung một trang, được viết vào năm 1983.

đôi khi gió bão qua ngang núi

chim bay cuồng nơi ẩn trú đâu

đôi khi cỏ dại gai đầy lối

ngựa ngửng đầu ngơ ngác ngó quanh.

Biên giới giữa Tĩnh và Động, cái sự lọt vào, thứ trạng thái nhập nhằng ấy dường như không hiện diện trong thơ Trân Sa. Cô mềm lòng khi đứng bên này đường và cô cứng rắn khi đặt chân sang tới lề bên kia. Con người Trân Sa chẳng chấp nhận cái nửa vời. Nắng chan hoà trên từng câu thơ, đôi khi chữ chết chìm dưới một bầu trời sũng nước. Tôi đọc, không nhìn ra cái ui ui của thứ thời tiết tức giông nắng trốn. Ra ngô ra khoai, chẳng ỡm ờ!

Từ chỗ tôi ở đến thành phố Trân Sa trú ngụ cách nhau 6 giờ lái xe. Mưa ở Montréal mà nắng vàng ngập phố Toronto. Cách trở bao nhiêu cây số mà trái khoáy vậy? Tôi mua vé xe lửa (không tàu xiêu) và lần khác thì leo lên xe đò băng đồng vượt suối. Chúng tôi gặp nhau đúng ba lần (sự bất quá tam). Vậy thì cuộc hội ngộ còn lại là do “người về từ Toronto” tạo nên. Ba lần, trải dài qua tháng năm của thời điểm 1989 và 1990. Ôi, mới đó mà đã sang một thế kỷ rồi ư?

Trân Sa hơi gầy, hình như ngày cũ ở Nha Trang. Trân Sa nói giọng Huế chưa phai nhạt nước sông Hương, trầm, hơi khản tiếng; thứ chất giọng mà tôi nghĩ những người hát nhạc Jazz đều sở hữu. Tóc cắt ngắn, thật ngắn. Mang gương cận thị. Thích uống cà phê đen đậm đặc và ngồi bên nhau chừng hơn nửa giờ, hai đứa đã đốt khói bay 20 điếu thuốc trong chiều tà. Nhìn Trân Sa, tôi dấu ý nghĩ là cô đã vô tình chở trí nhớ tôi về lại Huế năm xưa, hồi tôi gặp nhà văn Trùng Dương theo nhật báo Sóng Thần đi viết bài tận vùng địa đầu giới tuyến. Ngồi với anh Đinh Cường trong Đại Nội có thể đón nhận cơn địa chấn lan về do hoả tiễn lẫn đại pháo chăm trút xuống cổ thành Quảng Trị. Có chút gì đọng trên gương mặt Trân Sa làm gợi tới Trùng Dương? Cái kính to trên gương mặt gầy tóc ngắn? Những cọng khói ẻo lã từ tay bay lên? Và văn chương. Và lên đường. Và nhập cuộc. (Có thời Trân Sa làm chủ biên tờ Trăm Con, đăng tải thơ văn nhiều bài đặc sắc nhưng chẳng thọ lâu do bởi những ngộ nhận, ngay tại Toronto).

Chúng tôi ngó phố phường, miệng mồm thì bận cà phê thuốc lá, nói chung là vụng về không biết tìm cách trao đổi lời qua tiếng lại. Mà nghĩ cũng chẳng cần thiết bởi vì cả Trân Sa và tôi dạo đó đều viết rất hăng. Mê muội gửi bài tới các tạp chí văn học. Đã đọc của nhau và vai đâu vai như giờ này cũng do chữ nghĩa tác thành để làm nên cuộc xúi dại, hơi ngây ngô, hơi khờ khạo. Ngoài thơ, những truyện ngắn của Trân Sa tựu trung đều là những hạt cát quý, lấp lánh (chẳng rành Hán Nôm nhưng tôi vẫn diễn dịch tên Trân Sa ra thế). Ý tưởng lạ, cách dựng truyện và không khí trong đó luôn để lại một thứ gì gần với xót xa. Một dụng công cố sắp xếp lại những đổ vỡ. Hạnh phúc vốn từ đau đớn mà phát sinh. Truyện ngắn “Giữa Những Hàng Ghế Trống” là một ví dụ. “Về Già Tôi Sẽ Đi Tu” là một chứng minh khác.

Tôi nghĩ, ngồi bên nhau mà người ta ít nói, gần như câm lặng, cũng nên được xem là họ đã hiểu lòng nhau. Nếu cho đó là nguỵ biện, thì có thể thưa rằng, e chúng đang bận suy tưởng, mỗi người tự truy đuổi riêng một nỗi niềm để về nhà dựng được một áng văn ghi dấu, đãi đằng nhau.

Chỉ ba lần, nhìn sâu vào mắt nói trong vô ngôn, rồi Trân Sa thầm lặng bỏ đi, biền biệt, mất dấu. Hỏi thăm bạn bè ở dưới đó, không một ai hay. Chưa già, chắc chắn là Trân Sa chẳng “Tôi sẽ đi tu”. Chợt nhớ lại bài thơ “Bơ Vơ” của người đang lẩn trốn vào bóng tối:

Phật ở bên tay trái

Chúa ở bên tay phải

Đối diện: một rừng người

Phía sau lưng: vực thẳm

Ngó xuống: toàn hư vô

Bàn chân tôi đứng lại

Giữa vô cùng bơ vơ

Xác thân chỉ tồn tại

Những nhịp sầu rất thơ.


Nhớ luôn cả bài “Bạn Xưa”:

trong giấc mơ người ám ảnh tôi

sáng hôm nay trời đất buồn rầu

tôi thay áo bước vào đời sống

quá khứ nặng bàn chân thế sao

tôi ở đây hồn ở đâu đâu

một cánh hoa lạc loài trong đầu

đem gửi tặng người qua trí tưởng

thấy môi ai cười khô héo thôi.

Tới ngang đây, tôi đành “nhớ” thêm các bài thơ khác của Trân Sa. Tôi mượn Trân Sa để gửi theo chút tâm tình mà mình chẳng đủ lời để thổ lộ. Tôi vẫn tự nhận tôi mãi kém thua bạn tôi. Và về già có thể tôi sẽ đi tu, tại gia. Ngồi diện bích, hồi tưởng: Chúng tôi đã có một thời như thế. Hồn nhiên trong sự già cỗi. Dấn thân trong hoạn nạn. Mê muội trong phụ rẫy. Tàn hơi trong lãng công. Chỉ còn nỗi nhớ trong thất lạc. Và chỉ còn thơ văn làm bồi đắp thứ tình bạn không tuổi tác. Một buổi điểm tâm Xanh.

Tuy chênh lệch đôi ba tuổi, nhưng Trân Sa tìm đến thơ văn trước tôi một chặng đường dài. Có bài làm năm 1973, 1975, lai rai về sau… Nhưng tôi yêu thơ Trân Sa ở thời điểm mà tôi vừa đến góp chung một tiếng nói. Chẳng hạn như bài “Đối Thoại Trong Một Cuốn Tiểu Thuyết” được viết vào tháng 11, năm 1988:


Họ nói về những bầy chim gẫy cánh giữa trời

về những con người chôn mặt mình trong đất

về cuộc đời giữa những còn và mất

về tương lai trống không và hiện tại chôn vùi

Họ nói về một vầng trăng chết đuối ngoài khơi

về một tình yêu không còn trong trí nhớ

về cái chết và về niềm hãi sợ

về hoang đảo cô liêu chỉ có một người

Họ quên nói với nhau về những tiếng cười

về những ban đêm không thể còn bóng tối

về không-một-trái-tim-nào-có-tội

về không-ai-là-dã-nhân khi còn biết thương đời

Họ bận rộn nhỏ lên nhau giọt lệ ngậm ngùi

nên quên nói với nhau những lời hy vọng

Họ mải miết với quá nhiều phủ nhận

nên không còn gì ở giữa những đôi môi.


MỘT

tâm hoa nở rộ khắp mùa

thương em búp nhỏ bao giờ ra bông

tay ai khuấy nước trên sông

thương em gợn sóng tan vào hư vô

a ha địa ngục tang bồng

ta quăng cực lạc nhập vòng tử sinh

bước chân lạc lõng u minh

môi cười bình lặng tỉnh điên cũng là

bao giờ em hiểu ra ta

ý thân nhất thể ta là chính em.

(4/88)


LẠNH

tôi đã đi rồi tôi đến đâu

không về. nhất định chẳng về đâu

trời ơi. sao đất vô cùng lạnh

dưới một dòng sông gãy nhịp cầu.

(1987)

NHỚ

đã ra đi

đã qua đường

tình xưa

còn động

vết thương ngọt ngào

đã quay lưng

đã tay chào

hôm nay

còn nhớ

hôm nào,

rưng rưng.

(6/86)


NGƯỜI

đêm

nâng ly café

thấy Nét Đẹp Em Người Da Đen

buổi sáng

châm điếu thuốc

hồng Lửa Ấm Anh Người Da Đỏ

trưa

một ly sữa nhỏ

mát rượi Diễm Phúc Người Da Trắng

chiều

tĩnh lặng

Tôi Người Da Vàng trực nhận mối tương quan

đầy thân ái

nhân loại bao la

dưỡng sinh và huỷ phá

Tôi xin yêu Người

Da Đen Da Đỏ Da Trắng Da Vàng

Tôi xin vô cùng yêu Anh yêu Em yêu Tôi

Dù sao.

(1984)


NỖI NHỚ

yêu từ cái thuở

trăng còn Rằm

thuở Hoa

đơm nụ mới

đầu năm

bao nhiêu

Thu rụng

Đông tàn úa

Xuân Hạ

còn nguyên

nỗi nhớ

Xanh.


TÂM TRẠNG

có khi rớt xuống huyệt

có khi bay lên trời

có khi đùa mải miết

có khi sầu không nguôi

có khi tôi yêu người

có khi lòng lạnh nhạt

có khi hát yêu đời

có khi gần tự sát

có khi ngồi nghĩ mãi

điều vô lý đời mình

có khi chợt kinh hãi

lặng lẽ kiếp nhân sinh.

BAO DUNG

lặng im mà ngó

mưa về

ngó trời đất

sụp

gần kề hai chân

lặng im

rơi lệ xuống

thầm

trái tim nhẫn nhục

ôm chầm bão giông

từ đêm

địa chấn tới gần

lặng im nghe

tiếng chim gầm mái hiên

lặng im nghe

tiếng khóc phiền

lặng im nhìn

những sắc hình

rụng phơi

lặng im

môi hé

nửa vời

tiếng bao dung

thoảng

giữa trời bụi che.


MEN MÙA HẠ

chiều mang tiếng nói đi theo gió

mang theo ngọn nắng khuất về tây

có chi trong nắng mà tôi nhớ?

một giọng cười hay sợi tóc bay?

có chi trong tiếng mà tôi nhớ?

một chút ân cần một chút vui?

có chi như mật trên môi đó

ngọt với muôn người hay chỉ tôi?

có chi như thể trong vườn lạ

nở một nhành ôi đẹp bất thường

có chi xanh mượt như cây lá

vẽ lại trần gian vốn thật buồn

có chi như thể hương mùa hạ

tiễn một mùa đông đã quá dài

ô hay cứ tưởng tim thành đá

lại đập hồn nhiên mấy nhịp sai

cứ đến rồi đi rồi trở lại

cứ cho tôi nhớ hết đêm này

ngày mai cứ nắng đừng mưa nhé

cứ vẫn ngọt ngào như bữa nay

chiều mang tiếng nói đi theo gió

mang theo ngọn nắng khuất về tây

có chi trong nhớ mà tôi ngỡ

men nồng chưa chuốc vội vàng say…"

Những bài thơ hiển thị ở trên, tôi nhặt ra từ hai thi tập “nàng thơ” ký tặng năm xưa (đã qua thế kỷ rồi sao?): “Thơ Trân Sa” (Tập Họp xuất bản năm 1989) và “Điểm Tâm Cho Người Tình” (Tân Thư xuất bản năm 1990). Cả hai thi tập đều không ghi đôi dòng tiểu sử tác giả và những trang thơ giờ này thảy đều úa màu. Thứ sắc màu vàng vọt có trong thơ Nguyễn Tất Nhiên:

Nắng bờ sông như màu trang vở cũ

Thuở học trò em làm khổ ai chưa?

Tôi từng khổ và tôi đang hối hận. Giá mà ngày ấy thực hiện được một buổi chuyện trò cùng bạn, để tìm hiểu do đâu, ngọn nắng nào đã soi rọi vào, tác thành nên những hạt cát lấp lánh có tên gọi Trân Sa. Bởi chăng chúng ta đều bị cuốn vào thứ đời sống hối hả chuyện mưu sinh. Không thể cưỡng chống, chẳng thể nghe theo lời Bùi Giáng:

“Áo cơm bỏ lại bên đời

Bỏ tan lìa mộng bên lời tử sinh”.

Bạn còn đâu đó ở Toronto? Hay “khi về già tôi sẽ trở lại chốn xưa”? Sài Gòn, Phan Thiết, Đà Lạt hay Nha Trang? Thành phố mà nhà văn Nguyễn Xuân Hoàng từng gọi: “Hang động của tuổi thơ”. Có lẽ bạn chẳng hay biết “chuyện nhỏ” về tai ương mà tôi từng hứng trong mùa Đông khắc nghiệt chốn này. Khi ấy, tôi gượng cơn đau, nhớ thơ bạn vụt hiện:

“đi ngang bãi tuyết

thấy đời dễ thương

ngã trong đám tuyết

ôi lạnh khôn cùng”.

Mùa đông lại sắp về, tôi chống gậy đi tới quán cà phê cũ kỹ mà chúng ta từng ngồi hun khói. Tôi nhớ lại nhân dáng bạn, khuôn mặt bạn, đang ngồi ghế đối diện. Ừ, nỗi nhớ hiện ra “giữa những hàng ghế trống”. Tôi chép lại thơ bạn, một cách thiếu sót, cũng là một cách làm ấm lại. Chúng ta, chẳng ai có cảm tình về một khoảng trống cả. Phương ấy, bạn còn khổ tâm chêm đầy vơi những câu thơ? Và quan trọng hơn, bây chừ lòng bạn đang Tĩnh hay đang Động?

Chỉ một chút

thoáng động

trên

ngọn cỏ ướt mưa

ngoài ngắt xanh biển rộng

con cá nằm

ngủ trưa.”

Hồ Đình Nghiêm

song thập, 2017