Danh ngôn

Trong mọi cộng đồng, chúng ta cần một nhóm thiên thần gây rối.

We need, in every community, a group of angelic troublemakers.

(Bayard Rustin – trích bài phát biểu tại New York City 1963)

Trong mọi trường hợp, chắc chắn rằng sự thiếu hiểu biết, đi kèm với quyền lực, là kẻ thù tàn bạo nhất có thể có của công lý.

It is certain, in any case, that ignorance, allied with power, is the most ferocious enemy justice can have.

(James Baldwin - No Name in the Street 1972)

Các cuộc cách mạng và các cá nhân có thể bị giết hại, nhưng bạn không thể giết chết các ý tưởng.

While revolutionaries and individuals can be murdered, you cannot kill ideas.

(Thomas Sankara, một tuần trước khi bị ám sát, 1987)

Không có cảm giác nào cô đơn hơn việc bị chính đất nước mình trục xuất.

There's not a more lonely feeling than to be banished by my own country.

(Kiyo Sato – Kiyo’s Story 2009)

Ban Biên tập

Địa chỉ liên lạc:

1. Thơ

tho.vanviet.vd@gmail.com

2. Văn

vanviet.van14@gmail.com

3. Nghiên cứu Phê Bình

vanviet.ncpb@gmail.com

4. Vấn đề hôm nay

vanviet.vdhn1@gmail.com

5. Thư bạn đọc

vanviet.tbd14@gmail.com

6. Tư liệu

vanviet.tulieu@gmail.com

7. Văn học Miền Nam 54-75

vanhocmiennam5475@gmail.com

Tra cứu theo tên tác giả

Thứ Hai, 6 tháng 2, 2017

Mùa thu Paris

Lữ Quỳnh

Tặng Jacques Ng.

1.

Bốn giờ sáng, taxi đưa ra ga Eurostar London St Pancras để lên chuyến tàu đầu tiên đi Paris, khởi hành lúc sáu giờ. Nhà ga rộng lớn, hiện đại chẳng khác gì một phi trường quốc tế. Cũng phải làm các thủ tục an ninh: bỏ giày, điện thoại, áo khoác, xách tay, và những thứ lỉnh kỉnh khác… vào khay cho qua máy. Rồi điền giấy khai hải quan… Vé lên tàu có ghi số toa, số ghế. Tàu sẽ dừng đúng số toa của mình, đầu mỗi toa có nhiều ngăn để hành lý. Tàu chạy với vận tốc 300 km / giờ, qua biển Manche. Mình chỉ nhận biết lúc tàu bắt đầu vào hầm tối và ra khỏi hầm, với thời gian hơn hai mươi phút. Kể từ ngày khai trương vào năm 1994, Luân Đôn và Paris không còn bị chia cắt bởi biển, chỉ có hơn hai tiếng đồng hồ để qua lại.

Đến Paris Gare Du Nord đúng 9 giờ 20. Đi hai đoạn metro ngắn là tới khách sạn đã đặt phòng trước. Vì ở Paris chỉ có ít ngày, nên phải lên lịch ngay, đi thăm một số nơi.

Thầm cám ơn các website văn học, vì nhờ đó mà Jacques đã đọc và lần mò hỏi ra địa chỉ email của tôi. Tên Việt của Jacques là Thạch, con nuôi của người cô họ tôi.

Lúc tôi trưởng thành, Thạch còn nhỏ lắm. Tôi thương Thạch vì cứ nghĩ đến nỗi buồn thiếu vắng tình thương cha mẹ ruột của nó. Tôi không nhớ những lần đi chơi với Thạch, đã cư xử, nói ra những gì. Chỉ biết lần cuối cùng gặp nhau vội vã ở Nha Trang vào giữa tháng 4 năm 1975, thời điểm những ngày tàn cuộc nội chiến. Rồi thời gian dài sống lăn lóc trong sa mù thời cuộc, như bầy gà bươi móc mỗi ngày để kiếm sống, ngụp lặn trong cái u tối đói nghèo, ngu dốt; còn chút ánh sáng nào đâu để soi rọi ký ức mình…

Cho đến một ngày đầu năm nay, tôi nhận email của Thạch, chỉ mấy dòng ngắn ngủi, luộm thuộm, thiếu dấu thiếu chữ, nếu là anh của email này thì trả lời em ngay. Tôi trả lời Thạch. Những thư tiếp theo. Lần cuối em gặp anh đến nay đã 36 năm rồi! Và Em đang sống ở Paris.

Khi biết tôi sẽ ghé Paris, Thạch vui lắm. Thạch hẹn gặp tôi ngay buổi trưa đầu tiên ở khách sạn. Rất đúng giờ, Thạch đến. Thay vì mừng rỡ vồ vập, tôi đứng lặng người nhìn Thạch. Trước tôi là một người Pháp già, lưng hơi còm, mái tóc muối tiêu, tên là Jacques.

Ôi, Thạch của ngày nào đây, chỉ còn nét mặt và giọng nói không thay đổi. Jacques cười, ông chủ khách sạn tưởng em là người Pháp nên nói toàn tiếng Tây! Thì em là người Pháp rồi còn gì, đã sống ở Paris 28 năm!

Chúng tôi ăn trưa ở quán Phở 14. Thạch nói quán phở này ngon nhất Paris đó anh. Trong lúc ăn, Thạch lên chương trình đưa tôi đi chơi một số nơi. Paris với hệ thống metro chằng chịt, trên cao dưới thấp, mà Thạch thuộc nó như trong lòng bàn tay. Vì thời gian hạn hẹp, chúng tôi không thể đi sâu vào mỗi nơi. Như khi phải đứng từ xa mới có thể nhìn hết đươc Viện bảo tàng Louvre, chứ đừng nói vào được bên trong, phải mất ít ra vài tuần mới đi thăm hết được. Louvre, công viên Tuilerie, quảng trường La Concorde, Khải Hoàn Môn nằm trên một trục thẳng. Cảnh vật suốt dọc các công trình rất đẹp và nhiều nơi ghi dấu lịch sử. Vườn Tuilerie, đang là mùa thu, lá vàng rơi đầy mặt đất. Đại lộ Champs Elysees có tiếng đep nhất thế giới, rất đông du khách đi bộ. Cái lạnh chớm thu nằm sau những chiếc khăn quàng của các bà các cô, rơi hững hờ trước ngực.

Giờ cao điểm ở các trạm metro, cứ hai phút có một chuyến, mọi người đứng sát nhau, không một biểu lộ khó chịu, cảnh đó rất bình thường trong sinh hoạt hằng ngày.

Để đến một địa chỉ, đôi khi phải đổi tàu vài ba lần, phải đi thang máy hoặc leo bậc cấp lên trạm metro phía trên, hay đi vòng xuống trạm phía dưới. Có những đường tàu nằm sâu cả mấy trăm mét trong lòng đất.

2.

Nước Pháp với dân số 67 triệu, mà khách du lịch nước ngoài hàng năm có tới 80 triệu người, dẫn đầu thế giới trước cả Mỹ, Ý, Tây Ban Nha. Những lúc nghỉ chân bên bờ sông hay trong công viên, Thạch kể về những tháng năm đầu tiên trên đất Pháp. Qua câu chuyện, tôi biết cuộc sống Thạch sau nhiều năm khó khăn vất vả ở xứ người, giờ đây đã ổn định, các con khôn lớn đều thành đạt.

Hơn ba mươi năm trước hai vợ chồng với ba cháu nhỏ sống nheo nhóc dưới gầm cầu thang nhà người mẹ nuôi, chưa được sáu mét vuông diện tích, ở một thành phố miền trung. Nhớ mỗi lần tôi ghé thăm, vợ Thạch vội vã chạy qua quán giải khát cạnh nhà đem về một chai cam vàng với ly đá. Không có chỗ đặt chai nước, tôi cầm ly đá trong tay, đứng hỏi chuyện Thạch vài ba điều rồi ra ga đi chuyến tàu tối vào nam. Tình cảm trân trọng, quý mến người bà con xa trong cảnh nghèo khó của vợ chồng Thạch làm tôi xót xa. Mấy năm sau Thạch và gia đình được định cư ở Pháp theo diện con lai. Thạch bị bệnh thận nặng, phải lọc máu mỗi tuần ba lần suốt năm năm nay, thế mà vẫn đi thoăn thoắt, bước hai bậc cấp một, thỉnh thoảng còn dừng lại chờ tôi.

Xuống metro, lên metro, chỉ hai phút là có tàu, tôi phải bước thật nhanh mới theo kịp Thạch, dù hắn luôn quay lui nhìn tôi giữa đám đông chỉ thấy đầu người nhấp nhô vội vã.

Trước khi đến nhà thờ Notre-Dame, chúng tôi đi bộ trên Rue De La Paix. Đây là một đại lộ đẹp có nhiều cửa hàng bóng lộn, rất đông du khách, dẫn đến quảng trường Vendome nơi đặt tượng đài Napoleon.

Lúc chúng tôi dừng chân trước Notre Dame de Paris, du khách đã xếp hàng dài để lần lượt đi vào cánh phải của nhà thờ. Ngay cửa vào có một quầy bán tượng và hình ảnh lưu niệm. Rải rác bên trong, đặt những chiếc máy như máy rút tiền ATM, để du khách tự động bỏ vào hai euro và nhận lại một medal kim loại tròn mạ vàng, trên một mặt khắc hình nhà thờ, mặt kia có hình thập tự với giòng chữ Cathedrale Notre-Dame de Paris.

Nhà thờ này xây dựng từ 1163 nhưng vì có nhiều sự cố, mãi đến 1345 mới hoàn thành. Mái vòm cao với những khối đường nét tuyệt mỹ. Những khung kính lớn lộng lẫy nhiều màu sắc tồn tại từ bao thế kỷ nay. Rất nhiều tượng mang ý nghĩa trong Kinh Thánh, mà tôi là người mến Chúa nhưng ngoại đạo, không thể nào hiểu hết.

Cùng với các tín đồ đang cầu nguyện, tôi ngồi xuống một băng ghế sát tường, bên cạnh tôi là Kim. Thạch ngồi ở dãy ghế giữa. Tôi nhìn tượng Chúa trên cao, cảm thấy lòng thanh thản. Đây là lần thứ hai tôi vào nhà thờ, không ngờ lại là một nhà thờ nổi tiếng, mà văn hào Victor Hugo đã lấy bối cảnh để viết tác phẩm bất hủ The Hunchback of Notre-Dame (ở Việt Nam, anh Trần Quang Huề chuyển ngữ “Thằng Gù Nhà Thờ Đức Bà” trước năm bảy lăm).

Còn lần thứ nhất tôi đến giáo đường, cách nay hơn bốn mươi năm, ở một thành phố nhỏ ven biển miền trung. Lần đó còn rất trẻ, vào một buổi sáng tôi đưa người bạn gái vào đây. Nhà thờ vắng vẻ. Những hàng ghế trống im lìm. Chúng tôi đứng cạnh nhau sau hàng ghế cuối, tôi bảo nàng nhìn lên tượng Chúa và im lặng. Rất trang trọng, mấy phút sau tôi hỏi, Kim có biết tôi vừa nói gì với Chúa không. Nàng gật đầu, mắt long lanh ướt. Tôi thầm cám ơn Chúa và nắm tay Kim rời nhà thờ. Tôi đã cầu hôn nàng như thế đó.

Bây giờ người con gái thuở ấy đang có mặt ở đây, trong ngôi nhà thờ danh tiếng Notre-Dame, cách xa nhà thờ năm xưa nửa vòng trái đất. Người con gái với áo dài lụa trắng được đón đưa trước cổng trường Sư Phạm ngày nào, giờ đây với mái tóc điểm nhiều sợi bạc, hạnh phúc vượt qua những tháng năm khó khăn, gian khổ bên cạnh chồng con.

Tôi nhìn lên tượng Chúa nhân từ giữa giáo đường uy nghi rộng lớn, và như khi đứng trước Chúa bốn mươi năm về trước ở quê nhà, tôi thầm ngỏ lời cám ơn.

Thạch ngồi ở hàng ghế giữa, mắt nhắm, miệng lâm râm cầu nguyện.

Chúng tôi đi vòng lối ra ở cánh trái nhà thờ. Những bức tường bên ngoài với nhiều phù điêu, hình tượng nghệ thuật rất đẹp được trang trí công phu, nói lên tài nghệ tuyệt vời của điêu khắc gia những thế kỷ trước.

Từ sân nhà thờ băng qua đường, chúng tôi ghé một quán cà phê, ngồi ở dãy bàn đặt dọc vỉa hè giữa đám đông du khách. Thạch luôn miệng hỏi, anh có mệt không? Tôi thấy thương Thạch vì bệnh mỗi tuần phải lọc máu ba lần, lại luôn quan tâm đến người tương đối còn sức khỏe dù tuổi có cao.

3.

Ở thế hệ chúng tôi, trước những năm sáu mươi ngồi ghế nhà trường trung học, không ai là không nhớ bài học thuộc lòng “Ngày Tựu Trường” của Thanh Tịnh, và đoạn văn của Anatole France tả cậu bé với chiếc cặp trong tay, đi qua vườn Lục Xâm Bảo vào một buổi sáng mùa thu, lá vàng rơi trên những pho tượng trắng… Ngờ đâu nửa thế kỷ sau, tôi lại được ngồi trong công viên Luxembourg cũng vào một buổi sáng mùa thu, giữa những bức tượng trắng và lá vàng rơi đầy mặt đất.

Luxembourg, công viên lớn thứ hai của Paris, sau Tuilerie, được đặt nhiều tượng danh nhân như Beethoven, Paul Verlaine, Georges Sand, Saint-Geneviere… Công viên cũng là bối cảnh nổi bật trong tác phẩm Les Miserables của Victor Hugo. Nhiều chiếc ghế dựa bằng sắt có thể xê dịch được, để du khách thoải mái chọn góc nhìn ngồi nghỉ ngơi. Cuối công viên bên phải là một lâu đài có hồ nước lớn phía trước, tiếp với một vườn hoa đầy sắc màu rực rỡ.

Hơn năm mươi năm trôi qua, từ một cậu bé lòng như khăn mới thêu, từng xúc động bởi hình ảnh mùa thu ở vườn Lục Xâm Bảo ngày nào, nay với mái tóc bạc đang ngồi đếm tháng năm còn lại của đời mình trên đầu ngón tay. Nhìn những pho tượng trăm năm còn đứng đó, nhớ đến cậu bé của Anatole France ngày nào cùng những người đã một lần qua đây, mà ngậm ngùi làm sao!

Một ngày lang thang dưới bầu trời đầy mây và trong những đường hầm metro, tôi không giấu đươc nét mệt mỏi dù cho nhiều thắng cảnh, di tích lịch sử ở đây luôn cuốn hút bước chân mình. Jacques thường nhìn tôi với ánh mắt ái ngại. Còn tôi tham lam giành giựt với thời gian, phải tận mắt nhìn cho được những gì mà mình chỉ biết qua sách báo và chuyện kể. Thạch đưa chúng tôi đi bộ qua nhiều nơi.

Nào Place Vendome ở trung tâm Paris, nối liền với đại lộ De La Paix. Giữa quảng trường là tượng Napoleon đứng chót vót trên một trụ đồng tròn có chạm trổ hoa văn hình xoắn ốc cao trên hai trăm mét, để kỷ niệm ngày chiến thắng quân Áo năm1805. Ông là một vĩ nhân, được ca tụng là người “khi trên lưng ngựa thì chiến đấu lẫy lừng, lúc xuống ngựa là một nhà cai trị đất nước kiệt xuất”. Sau cách mạng Pháp, ông lập ra triều đại Bonaparte, với những cải cách về luật pháp, bộ luật Napoleon đã ảnh hưởng rất lớn đến chính trị thế giới. Về giáo dục, các trường đại học được mở, đào tạo sinh viên bằng tiền nhà nước. Ông thành lập đơn vị hành chánh tự cai quản và xử lý lấy công việc. Napoleon mất năm 1821. Lăng mộ ông sáng lòa có thể nhìn thấy từ tháp Eiffel.

Nào Khải Hoàn Môn (The Arc de Triomphe), đài kỷ niệm nổi tiếng nhất, với 50 mét chiều cao, 45 mét bề rộng, từng chứng kiến biết bao thăng trầm của lịch sử nước Pháp: Năm 1940 Đức đánh chiếm Paris đã cho quân diễn hành qua đây, trong khi thủ đô bỏ trống, mở đầu cuộc kháng chiến chống phát xít. Qua năm 1944, Paris được giải phóng, đoàn quân chiến thắng của nước Pháp Tự Do trở về ca khúc khải hoàn, lại diễn hành qua Khải Hoàn Môn lịch sử này.

4.

Buổi chiều đứng trên cầu Notre-Dame ngắm sông Seine, Jacques giành máy ảnh chụp tôi cho bằng được. Hắn nói anh toàn chụp cảnh không, ít ra phải có vài tấm để làm kỷ niệm chứ. Sông Seine đẹp, nhất là cảnh vật thơ mộng hai bên bờ. Tôi vừa đọc đâu đó, chỉ khúc sông chảy qua Paris đã có đến 37 cây cầu, mà nổi tiếng là Pont Neuf, cổ nhất, được xây bằng đá từ cuối thế kỷ thứ 16, có tượng vua Henri IV ngồi trên lưng ngựa. Tiếp đến là Pont Marie, Pont Royal, Pont Louis Philippe… Theo Jacques, cây cầu đẹp nhất là Pont Alexandre III, gần nơi an nghỉ của Napoleon. Hắn tiếc rẻ là tôi ở Paris ít ngày quá, không thể đi thăm hết đươc, và anh mới biết chưa được một phần trăm Paris!

Đâu cần đi thuyền trên sông Seine, mà dù có muốn cũng không có thời gian, chúng tôi đứng tựa thành cầu, nhìn những chiếc tàu lớn lộ thiên chở đầy du khách chạy trên sông, luồn qua chân cầu hình vòm cung, thật êm ả.

Sông Seine. Trước mắt tôi là sông Seine. Bỗng cảm thấy có cái gì vướng nơi đáy cổ, cùng với nắng chiều đang tắt dần, khi nhớ Trịnh Công Sơn lần đầu tiên qua Pháp trở về, khoảng đầu những năm chín mươi; ngồi uống rượu với anh, nghe anh kể về những ngày vui và bận rộn với bạn bè ở Paris, tôi nảy ý làm một phỏng vấn nhỏ. Bài viết gần như một tạp văn, lấy tựa “Trịnh Công Sơn, từ sông Hương đến sông Seine”, sẵn dịp nhà thơ Thái Ngọc San về Sài Gòn in báo, đã lấy bài này đăng trên tạp chí Sông Hương. Giờ đây hai anh đã đi vào cõi vĩnh hằng, đâu biết có kẻ còn lận đận ở trần gian, đang đứng bên dòng sông Seine của anh ngày nào, nhớ về sông Hương với các bạn Thái Ngọc San, Võ Quê, Lê Văn Ngăn… trong lần uống rượu vang đỏ ở quán Thiên Đường(*). Không ngờ lần chia tay nhau hôm ấy là lần Thái Ngọc San và sau này, Lê văn Ngăn vĩnh viễn xa rời chúng tôi.

Sông Hương, sông Seine, những trái tim yêu thương đang ở rải rác khắp mọi miền, có nhớ về nhau là nhớ về một dòng sông, nơi từng in bóng anh em bạn bè, dù còn hay đã mất.

Kể từ ngày ra đi, Jacques chưa một lần về thăm chốn cũ. Hắn đã nhận Pháp là quê hương của mình rồi. Hai mươi tám năm sống ở Paris, những đền đài, phố xá, sông nước nơi đây đã làm nhạt phai hình ảnh một Hòn Chồng, cầu Xóm Bóng, Hải Học Viện Nha Trang mà tuổi thơ hắn từng yêu mến.

Chúng tôi ngồi xuống bậc thềm trước quảng trường tháp Eiffel, nhìn du khách đi thành đoàn vui vẻ chụp hình, quay phim. Dưới chân tháp người ta xếp hàng rồng rắn, dài hàng mấy trăm mét để mua vé lên các tầng trên. Giá vé cho mỗi tầng khác nhau: Lên tới đỉnh, tầng 3 là 14 euro, tầng 2- 8.20 và tầng 1- 4.10 euro. Sinh hoạt này kéo dài đến nửa đêm.

Tháp Eiffel xây dựng năm 1887, do kỹ sư Gustave Eiffel (1832-1923) thiết kế. Nó là một công trình kiến trúc bằng kim loại, trở thành biểu tượng nổi tiếng nhất, không những của Paris nước Pháp, mà còn được cả thế giới công nhận, mỗi năm có hàng triệu người leo lên chiêm ngưỡng. Trong số những công trình trứ danh của ông, ngoài Paris nước Pháp ra, còn có những công trình nổi tiếng trên nhiều quốc gia khác như Tây Ban Nha, Bồ Đào Nha, Bỉ, Ai Cập, Hoa Kỳ, Việt Nam… Riêng tại Việt Nam, Gustave Eiffel đã xây dựng Bưu điện Sài Gòn, cầu Long Biên Hà Nội, cầu Trường Tiền Huế; những công trình còn đến ngày nay.

Như lần trước, khi rời Luân Đôn đến Paris bằng chuyến Eurostar đầu tiên, sáng nay chúng tôi giã từ thủ đô ánh sáng cũng trên chuyến tàu khởi hành lúc 6 giờ. Đêm qua trước khi chia tay Jacques, hai anh em ngồi với nhau trong một quán nhỏ, tôi uống vang đỏ, còn Jacques cũng uống nhưng chỉ nhấp môi. Trưa mai em lại vào bệnh viện lọc máu, vẫn chờ ngày được thay thận nhưng không biết đến bao giờ, em rất mừng gặp anh lần này. Rồi im lặng một lúc, giọng Jacques chùng xuống không biết em có còn lần thứ hai để gặp anh không? Tôi không nói gì, kể cả một lời cám ơn Jacques, vì tôi biết rằng kể từ đây Jacques mãi mãi có mặt trong đời sống chúng tôi.

-----------------------------

(*) Tên một quán cà phê bên bờ sông Hương, gần cầu Trường Tiền, Huế.