Danh ngôn

Trong mọi cộng đồng, chúng ta cần một nhóm thiên thần gây rối.

We need, in every community, a group of angelic troublemakers.

(Bayard Rustin – trích bài phát biểu tại New York City 1963)

Trong mọi trường hợp, chắc chắn rằng sự thiếu hiểu biết, đi kèm với quyền lực, là kẻ thù tàn bạo nhất có thể có của công lý.

It is certain, in any case, that ignorance, allied with power, is the most ferocious enemy justice can have.

(James Baldwin - No Name in the Street 1972)

Các cuộc cách mạng và các cá nhân có thể bị giết hại, nhưng bạn không thể giết chết các ý tưởng.

While revolutionaries and individuals can be murdered, you cannot kill ideas.

(Thomas Sankara, một tuần trước khi bị ám sát, 1987)

Không có cảm giác nào cô đơn hơn việc bị chính đất nước mình trục xuất.

There's not a more lonely feeling than to be banished by my own country.

(Kiyo Sato – Kiyo’s Story 2009)

Ban Biên tập

Địa chỉ liên lạc:

1. Thơ

tho.vanviet.vd@gmail.com

2. Văn

vanviet.van14@gmail.com

3. Nghiên cứu Phê Bình

vanviet.ncpb@gmail.com

4. Vấn đề hôm nay

vanviet.vdhn1@gmail.com

5. Thư bạn đọc

vanviet.tbd14@gmail.com

6. Tư liệu

vanviet.tulieu@gmail.com

7. Văn học Miền Nam 54-75

vanhocmiennam5475@gmail.com

Tra cứu theo tên tác giả

Thứ Tư, 8 tháng 2, 2017

Câu chuyện Nguyễn Du đi hát phường vải – từ giai thoại dân gian đến “huyền thoại” khoa học

Phạm Quang Ái*

1. Trong kho tàng giai thoại văn nghệ dân gian Việt Nam, xung quanh những tác gia văn học lớn có rất nhiều giai thoại. Đặc biệt là những người có đời tư “phức tạp”, tính cách ngang tàng thì càng có nhiều giai thoại. Nguyễn Du là một vĩ nhân văn chương, nhưng cuộc đời của ông gặp nhiều gian truân, đau khổ, bất đắc chí và ông sống ẩn dật như một vị chân tu nên lại ít giai thoại. Bù vào đó, đứa con tinh thần của ông, kiệt tác Truyện Kiều, lại là một sinh mệnh có nhiều giai thoại nhất từ trước đến nay.

Hàng trăm năm qua, trong quá trình tìm hiểu về Nguyễn Du, người ta chỉ sưu tầm được vài ba giai thoại về ông, trong đó, có mối tình và những câu thơ ông tặng cô gái lái đò sông Nhị, khi ông còn là một cậu Chiêu Bảy, ngày ngày qua sông đi học. Trong số những tình tiết có tính chất tư liệu về cuộc đời Nguyễn Du, có câu chuyện Nguyễn Du đi hát phường vải rồi sáng tác hai bài văn Nôm Thác lời trai phường nón Tiên Điền gửi các cô gái phường vải Trường Lưu Văn tế sống hai cô gái Trường Lưu bấy lâu được giới nghiên cứu coi như là một luận cứ để xác quyết về mối quan hệ giữa dòng văn Tiên Điền với dòng văn Trường Lưu như là sự hợp nguồn tạo nên một “Hồng Sơn văn phái”.

2. Câu chuyện Nguyễn Du đi hát phường vải ở Trường Lưu vốn được gợi ra từ ý tưởng của học giả Hoàng Xuân Hãn trong bài viết Nguồn gốc văn Kiều: hát phường vải Trường Lưu đăng trên Tạp chí Thanh Nghị năm 1943(1). Mở đầu bài báo, Hoàng Xuân Hãn viết: “Trong hai số báo TN [Thanh Nghị] đầu năm nay, tôi đã có dịp bàn về nguồn gốc văn Kiều. Tôi đã ngỏ ý rằng, nguồn gốc văn Kiều nằm ở sự tập tục trong gia đình, trong xứ sở, trong bằng hữu ở vùng núi Hồng sơn… Nay nhân ngày giỗ cụ, tôi xin nói về một nguồn gốc khác của văn cụ: lối văn hát phường vải; và tôi sẽ sao lục một vài bài mà tục còn truyền lại cho là cụ làm từ lúc còn trẻ.”(2)

Tiếp theo, cố học giả đã phân tích, chứng minh rằng văn Kiều có một nguồn gốc từ hát phường vải vì Nguyễn Du có đi hát phường vải ở Trường Lưu (Can Lộc). Bằng chứng mà học giả này đưa ra là họ Nguyễn Tiên Điền và họ Nguyễn Huy Trường Lưu có thông gia với nhau và Nguyễn Du có hai tác phẩm viết về sự kiện đi hát phường vải Trường Lưu của mình: đó là bài Thác lời trai phường nón Tiên Điền gửi các cô gái phường vải Trường Lưu Sinh tế Trường Lưu nhị nữ văn.

3. Ý tưởng nói trên của học giả Hoàng Xuân Hãn có lẽ được dẫn xuất từ tài liệu Truyện cụ Nguyễn Du của Phó bảng Phan Sĩ Bàng và Giải nguyên Lê Thước(3). Trong phần đầu của cuốn sách, bài diễn thuyết Lịch sử cụ Nguyễn Du là trước giả Truyện Thuý Kiều ngày 20 Janvier (tháng Giêng) năm 1924 tại Hội quán Quảng Tri ở Vinh, cụ Phan Sĩ Bàng đã viết: “Cụ [Nguyễn Du]… sinh tiền thời giao du với những người có học vấn uyên bác như hai anh em người xã Trường Lưu là cụ Thám hoa Nguyễn Huy Oánh và Nguyễn Huy Quýnh. Mỗi khi thư tín vãng phục, chữ Hán có, chữ Nôm có. Tôi xin lục ra sau nầy một bài vãn(4) của cụ Nguyễn Du phúc lại cho cụ Nguyễn Huy Quýnh để độc giả xem cho biết buổi ấy các cụ cũng sính thư từ bằng tiếng Nôm cho nên văn chữ Hán đã hay mà văn Nôm cũng lão luyện.(5)

4. Từ khi các cụ Phan Sĩ Bàng – Lê Thước công bố sách Truyện cụ Nguyễn Du cho đến gần 20 năm sau, 1943, học giả Hoàng Xuân Hãn công bố bài báo Nguồn gốc văn Kiều: hát phường vải Trường Lưu, và sau này, các nhà khảo cứu càng ngày càng tin vào cái thuyết Nguyễn Du đi hát phường vải ở Trường Lưu. Cũng trong năm 1943, học giả Đào Duy Anh, trong sách Khảo luận về Kim Vân Kiều, tuy không trực tiếp thể hiện quan điểm ủng hộ chủ kiến của Hoàng Xuân Hãn nhưng cũng ghi nhận rằng, Thác lời trai phường Nón là của Nguyễn Du(6). Thậm chí, ngay từ những năm đầu thập niên 60 của thế kỷ XX, câu chuyện Nguyễn Du đi hát phường vải đã đi vào giáo trình văn học sử trong nhà trường đại học(7). Đáng chú ý là trong sách Lịch sử văn học Việt Nam tập III, giáo trình văn học sử của các trường đại học sư phạm, do nhóm Lê Trí Viễn – Phan Côn – Đặng Thanh Lê - Phạm Văn Luận – Lê Hoài Nam biên soạn, tuy các tác giả có phần thận trọng khi nói “tương truyền” các tác phẩm Tế sống hai cô gái Trường lưu Thác lời trai phường nón là của Nguyễn Du, nhưng ở đoạn trước, lại khẳng định một điều là gia phả (họ Nguyễn Tiên Điền) “…chép... [Nguyễn Du] có lúc qua Trường lưu chơi với Nguyễn Huy Hổ cùng nhau đi nghe hát phường vải(8). Trong khi, tất cả các bản gia phả của họ Nguyễn Tiên Điền hiện còn không hề chép việc này. Và trong sách Truyện cụ Nguyễn Du cũng như bài viết Vài mẩu hồi ức về việc nghiên cứu Nguyễn Du và Truyện Kiều(9), GS Lê Thước cũng không hề đả động gì đến chi tiết nói trên. Rõ ràng, từ ý tưởng của Hoàng Xuân Hãn gần 20 năm trước, các nhà văn học sử miền Bắc đã củng cố thuyết Nguyễn Du đi hát phường vải bằng việc gán cho một căn cứ không hề có trong gia phả.

5. Trong giới nghiên cứu văn học miền Bắc lúc bấy giờ, ngoài những người phụ họa thuyết Nguyễn Du đi hát phường vải, thậm chí còn tìm cách “vẽ rắn thêm chân”, vẫn có những người tìm cách nói khác đi ít nhiều. Đó là trường hợp Bài “Văn tế sống hai cô gái Trường Lưu” của GS Trương Chính, viết vào năm 1969(10). Mở đầu tiểu luận, Trương Chính viết: “Ai đọc Truyện Kiều, thấy Nguyễn Du tả mối tình giữa Kim Trọng và Thuý Kiều bằng những lời lẽ mặn mà, đằm thắm, đi sâu vào lòng người như thế, cũng đều nghĩ rằng Nguyễn Du phải đa tình lắm.... ta có cảm tưởng rằng hình như qua cuộc tình duyên giữa Kim Trọng và Thuý Kiều, Nguyễn Du ít nhiều đã nhắc lại thể nghiệm của chính bản thân mình. Vì vậy, nhiều người nghiên cứu Nguyễn Du thường ước mơ tìm được một tài liệu gì soi sáng quảng đời tư này của nhà thơ(11). Chính vì “ước mơ” này mà GS Trương Chính mặc dù đã dành gần một nửa bài viết để chứng minh là Nguyễn Du không thể có cơ hội đi hát phường vải vào thời trai trẻ để có một câu chuyện tình thực tế như trong bài Văn tế, nhưng ông vẫn cố kiến giải rằng, Nguyễn Du đã hư cấu nên câu chuyện tình dân dã đó trong bài Văn tế của mình.

Sau khi khảo sát một số tư liệu (cả tư liệu thành văn lẫn tư liệu “nghe nói”), Trương Chính đã đi đến kết luận rằng “Như vậy là bằng nhiều nguồn khác nhau, chúng ta biết bài Văn tế sống hai cô gái Trường Lưu là của Nguyễn Du làm thật(12). Tuy nhiên, những căn cứ mà nhà nghiên cứu đưa ra cũng không lấy gì làm chắc chắn. Trong sách Truyện cụ Nguyễn Du, hai soạn giả Lê Thước và Phan Sĩ Bàng không nói gì đến bài văn tế này, còn thông tin mà GS Trương Chính nói rằng nghe cụ Lê Thước “nói lại” là “...ông Tời [tức là cụ Nguyễn Phụ, cháu bốn đời của Nguyễn Du] có nhắc đến bài văn tế sống trên kia nhưng không nhớ” (Trương Chính, TLĐD, tr.417) thì trong bài viết Vài mẩu hồi ức về việc nghiên cứu Nguyễn Du và Truyện Kiều của GS Lê Thước cũng không thấy được nhắc lại. Còn như Trương Chính phỏng đoán rằng, khi đăng bài Văn tế này trên Nam Phong tạp chí số 13, tháng 11-12 năm 1928, “Phạm Quỳnh, chủ bút Nam Phong, thấy nói chuyện trai gái, không hợp đạo đức phong kiến, nên y bỏ tên [Nguyễn Du] đi và đề là vô danh” thì cũng chỉ là đơn thuần suy diễn.

Ngoài những căn cứ ngoại suy nói trên, GS Trương Chính còn củng cố chủ kiến của mình bằng một lập luận khác: “...nếu đã nhận bài Thác lời trai phường nón là của Nguyễn Du, thì không lý gì gạt bài Văn tế sông hai cô gái Trường Lưu ra, vì hai bài này cảm hứng giống nhau. Có những câu cùng một ý” (Trương Chính, TLĐD, tr. 417). Và ông trích dẫn những câu diễn đạt “cùng một ý” của cả hai bài văn nôm này. Tuy nhiên, đây cũng chỉ là một sự chứng minh dựa trên một tiên đề chưa được chứng minh. Bài Thác lời trai phường nón được các cụ Lê Thước – Phan Sĩ Bàng sưu tầm qua lời thuật lại của cụ Nguyễn Phụ, người cháu bốn đời của Nguyễn Du. Nguyễn Du mất sớm, người cháu bốn đời khi lớn lên đã cách thời điểm cụ nội của mình có thể làm ra bài văn Nôm đó hàng trăm năm. Tất cả chỉ là lưu truyền theo trí nhớ, không có văn bản, chứng liệu. Việc trùng ý giữa hai bài văn Nôm chỉ có thể gợi ý cho ta tạm tin một điều là chúng có thể cùng một tác giả chứ không đủ căn cứ để ta tin rằng Nguyễn Du là tác giả của chúng.

Thực tình, tuy không nói ra, nhưng GS Trương Chính cũng như không ít nhà biên khảo khác tin bài Thác lời trai phường nón là của Nguyễn Du là vì bài văn có giọng điệu, câu chữ phảng phất thơ Kiều, lại thêm, các địa danh được nói đến trong bài văn Nôm này, đều nằm trên con đường từ Tiên Điền vào Trường Lưu. Vả chăng, điều dễ để tin nhất chính là mối quan hệ thông gia giữa hai họ Nguyễn Tiên Điền và Nguyễn Trường Lưu(13). Song le, việc bắt chước giọng điệu một tác phẩm nổi tiếng như Truyện Kiều (một dạng nhại Kiều) đối với người bình dân còn có thể làm được, huống chi đây có thể là bài văn Nôm của kẻ có học. Chẳng phải các nhà nghiên cứu như Đào Duy Anh, Lại Ngọc Cang đã từng chứng minh một cách thuyết phục rằng Nguyễn Thiện (cháu Nguyễn Du) đã dựa vào giọng điệu, văn liệu Truyện Kiều để nhuận sắc Hoa Tiên của Nguyễn Huy Tự đó sao?

Vậy, Nguyễn Du có thể là tác giả bài văn Nôm Thác lời trai phường nón không?

Để trả lời câu hỏi này, chúng ta lại phải xét xem ai là tác giả bài Thác lời gái phường vải Trường Lưu. Học giả Hoàng Xuân Hãn trong bài viết Nguồn gốc văn Kiều: hát phường vải Trường Lưu mà chúng tôi đã dẫn ở trên cũng tỏ ra lúng túng khi xác định tác giả bài Thác lời gái phường vải... Ông băn khoăn về việc sách Truyện cụ Nguyễn Du cho rằng bài này là của Nguyễn Huy Quýnh (1734–1785). Vì Nguyễn Huy Quýnh hơn Nguyễn Du đến những 31 tuổi và cụ Nghè Quýnh mất ở Thuận Hoá khi Nguyễn Du mới 21 tuổi. Mặt khác, Nguyễn Huy Quýnh chỉ có thời gian khoảng 3 năm về quê cư tang mẹ (1781-1784), nhưng lúc này cụ đã ngoài 50 tuổi, vả lại mắc việc tang nên không thể nhập cuộc chơi thù tạc đó được. Khó tin vào thuyết Nguyễn Huy Quýnh là tác giả bài Thác lời gái phường vải, Hoàng Xuân Hãn phỏng đoán rằng có thể là Nguyễn Huy Hào (con Nguyễn Huy Quýnh, sinh vào khoảng 1769 - 1770) hoặc Nguyễn Huy Phó (1765 – 1838), hai người này đồng trang lứa với Nguyễn Du nên có thể là tác giả bài Thác lời gái phường vải. Trăn trở mãi cũng không có căn cứ nào rõ ràng để xác định, rốt cuộc, Hoàng Xuân Hãn đành phải “...tạm nhận tác giả bài kia là cụ Nghè Nguyễn Huy Quýnh” (Hoàng Xuân Hãn, TLĐD, tr. 18).

Mặc dù, thời đó, Hoàng Xuân Hãn còn băn khoăn về tác quyền Thác lời gái phường vải... như vậy, nhưng sau này, Lại Văn Hùng, Nguyễn Thạch Giang, Nguyễn Huy Mỹ, Võ Hồng Huy, Vũ Ngọc Khánh, Thái Kim Đỉnh(14),... đều “chúng khẩu đồng từ” mà nhận rằng, bài văn Nôm đó là của Nguyễn Huy Quýnh. Tuy thế, nhưng một số tác giả như Ninh Viết Giao, Võ Hồng Hải, Trần Huy Tảo(15) lại có một hướng xác định hợp lý hơn và cho rằng, tác giả Thác lời gái phường vải... phải là Nguyễn Huy Phó.

Gần đây, trong bài viết Tờ chiếu của vua Gia Long phong cho Nguyễn Du tước Du Đức hầu, nhà Kiều học Nguyễn Quảng Tuân đã công bố một phát hiện vô cùng quan trọng. Số là Nguyễn tiên sinh phát hiện ra một tờ chiếu của vua Gia Long (1802 – 1820) thăng cho Nguyễn Du chức Hữu Tham tri bộ Lễ, tước Du Đức hầu, vào ngày 19 tháng 5 năm Ất Hợi (tức là ngày 25-6-1815)(16). Phát hiện này không chỉ xác nhận rằng Nguyễn Huy Quýnh không phải là tác giả bài Thác lời gái phường vải... mà còn gián tiếp phủ nhận tác quyền bài Thác lời trai phường nón... của Nguyễn Du. Sở dĩ ta có thể khẳng định như vậy là vì, trong bài Thác lời gái phường vải...có câu “Tảng mai hầu trở ra về...”. Từ trước đến nay, các nhà biên khảo đều nhất trí rằng chữ “hầu” ở đây là trỏ tước của Nguyễn Du. Thế nhưng, mãi đến năm 1815, Nguyễn Du mới được phong hầu, trong khi đó, Nguyễn Huy Quýnh đã mất từ năm 1785. Vậy chỉ còn một khả năng, bài Thác lời gái phường vải... là của Nguyễn Huy Phó. Tuy vậy, cũng khó mà khẳng định điều này. Vì lúc ấy, cả Nguyễn Huy Phó và Nguyễn Du đã ngoài 50 tuổi, không còn cái tuổi có thể vui chơi, hát xướng với cánh trẻ. Vả chăng, vào thời gian này, Nguyễn Du được thăng chức Hữu Tham tri bộ Lễ, bận làm quan ở kinh đô cho đến năm 1820, chuẩn bị đi sứ thì mất; chắc chắn đại thi hào không có thời gian về quê để tham gia hát xướng và làm những bài văn như thế.

Có điều cần nói thêm, sau khi bài viết của Nguyễn Quảng Tuân công bố trong sách Tìm hiểu Nguyễn Du và Truyện Kiêu (năm 2000) với một số lượng xuất bản khá lớn (1000 cuốn) nhưng hàng chục năm sau, các nhà biên khảo vẫn không chịu hồi cứu, vẫn nghiễm nhiên xem Thác lời gái phường vải... là của Nguyễn Huy Quýnh và Thác lời trai phường nón... là của Nguyễn Du.(17)

6. Trở lại bài viết Bài “Văn tế sống hai cô gái Trường Lưu” của GS Trương Chính, việc ông mặc nhận bài Thác lời trai phường nón là của Nguyễn Du rõ ràng đã không đúng. Do đó, việc ông so sánh sự giống nhau ở một số điểm giữa bài Thác lời trai phường nón... và bài Văn tế sống hai cô gái Trường Lưu để đi đến kết luận bài Văn tế là của Nguyễn Du cũng tự nhiên mất cơ sở. Tuy khẳng định tác quyền của Nguyễn Du với tác phẩm này, nhưng mặt khác, ông lại cho rằng Nguyễn Du không thể có một mối tình thực sự như đã được thuật tả lại trong bài Văn tế. Nhưng do “ước mơ” tìm cho được bằng chứng để làm căn cứ cho việc cắt nghĩa thiên diễm tình Kim - Kiều nên ông đã lái vấn đề sang hướng khác, rằng là Nguyễn Du đã có một cơ hội nào đó tham gia hát xướng và hư cấu nên câu chuyện tình kéo dài những hai năm với hai thôn nữ phường vải Trường Lưu vào khoảng năm 1796, khi Nguyễn Du đã 31 tuổi.

Vì cố cưỡng cầu để cắt nghĩa vấn đề theo hướng Nguyễn Du đã làm một bài văn đùa bỡn, nên trong lập luận, tác giả bộc lộ không ít mâu thuẫn. Thứ nhất, ở phần đầu bài viết, Trương Chính đã cho rằng Nguyễn Du khó mà có thời gian lên Trường Lưu đi hát, kể cả khi ông về quê cha lánh ẩn (1796 – 1802). Lúc bấy giờ, Nguyễn Du có thể có thời gian nhưng rất khó có tâm thế để nhập cuộc chơi văn nghệ thôn quê. Giả dụ như ông có vào Trường Lưu thăm bà cháu (Nguyễn Thị Đài) nữa thì thi hào cũng không có tâm thế để đi xem hát thực sự. Lúc bấy giờ, khi Nguyễn Du mới về quê, gia cảnh rất bần bách, bản thân đau ốm, dinh cơ nhà cửa bị phá tan tành. Ông có tự xưng là Hồng Sơn liệp hộ hay Nam Hải điếu đồ thì cũng chỉ xưng cho vui, chỉ là cách phản ứng tiêu cực với hoàn cảnh chứ lòng dạ nào mà đi săn với đi câu. Thơ ông có nói chuyện dắt chó vàng vào núi đi săn nhưng ông nào có hào hứng gì với công việc đó.

Một mặt, khi nhận xét về ngôn ngữ bài Văn tế, Trương Chính đã vô tình bộc lộ một mâu thuẫn “chết người”. Tác giả viết: “Và đặc biệt là trong cách sử dụng tiếng Nghệ [trong bài Văn tế]. Nguyễn Du, mẹ người Bắc, thủa nhỏ sống ở Bắc, cho nên khi sáng tác rất ít dùng tiếng xứ Nghệ. Trong Truyện Kiều, nhiều lắm cũng chỉ tìm được dăm ba tiếng xứ Nghệ. Ngay cả những người xứ Nghệ khi viết văn, cũng ít ai dùng tiếng xứ Nghệ, trái lại cố tránh đi, thỉnh thoảng tìm thấy dăm ba tiếng là do vô ý, chứ còn thì viết tiếng Kinh cho lời văn được nhã. Nhưng ở đây, từ đầu chí cuối, nhà thơ toàn dùng tiếng Nghệ, làm cho bài văn có một phong vị riêng, người nơi khác đọc trúc trắc khó hiểu, chỉ riêng người xứ Nghệ mới lấy đó làm thú vị...”(18). Quả đúng như vậy. Một người, sinh ra và lớn lên ở kinh đô Thăng Long, kẻ chợ, lối nghĩ, lối cảm, lối nói kẻ chợ đã ăn sâu vào máu thịt, đến quá nửa đời người mới về quê mà ngay từ những năm đầu đã có thể viết một bài văn tế từ đầu chí cuối “rặt” một thứ tiếng kẻ quê, lại sử dụng rất sành điệu thì thật vô lý. Vả lại, trong đại gia đình nhà Nguyễn Nghiễm, chỉ có hai bà Đặng Thị Dương (chính thất) và Đặng Thị Thuyết (á thất) là người Hà Tĩnh nhưng đã ra kẻ chợ sống cùng chồng từ thời trẻ. Bản thân Nguyễn Nghiễm thì bận bịu việc quan suốt năm tháng nên rất ít có thời gian gần gũi con cái. Lại thêm, trong một gia đình có nhiều bà vợ với nhiều dòng con, nói như Trương Chính, bà nào bà nấy “mẹ con bìu ríu lấy nhau” nên phong tục, tập quán, tư duy, ngôn ngữ của con cái chủ yếu chịu ảnh hưởng trực tiếp từ người mẹ.

Mặt khác, lúc bấy giờ, giao thương giữa các miền còn rất khó khăn, nên ngôn ngữ và văn hoá của trung tâm kẻ chợ và ngoại biên nhà quê như Thăng Long và xứ Nghệ là rất cách biệt. Trong điều kiện như vậy, một anh dân kinh kỳ chính hiệu đã gần nửa cuộc đời như Nguyễn Du, mới chân ướt chân ráo về quê mà đã viết được một bài văn tế đậm đặc thổ ngữ như vậy là điều không tưởng. Đó là chưa nói, như Trương Chính đã thừa nhận, “Ngay những người Nghệ khi viết văn, cũng ít ai dùng tiếng xứ Nghệ”. Cho nên, dẫu tác giả có cố tình dùng thổ ngữ để tạo ra “phong vị riêng” cho bài Văn tế… thì trên bất cứ phương diện nào cũng là sự bất khả thi.

7. Như thế, về mặt ngôn từ, Nguyễn Du khó lòng có thể sử dụng thành thạo, thậm chí là nhiều chỗ khá thần tình, một mật độ thổ ngữ dày đặc như trong bài Văn tế... Còn xét về nghệ thuật viết văn tế, trái lại, như nhà thơ Vương Trọng và một số nhà nghiên cứu khác đã nhận xét, bài Văn tế… bộc lộ khá nhiều chỗ vụng về, nhiều chỗ đối không chỉnh, các vế câu trong cặp lệch số chữ; nhiều đoạn thất luật, thất niêm, thậm chí không khớp vần:

- Tiếng tăm chi đó mặc ai,

Ngày tháng còn dài đó đã.

- Ở sao mà quên ta cho đành,

Nói thế mà lấy chồng thực ru tá.

- Thế thời mách chúng ta vậy ru,

Ừ thôi kính hai ả cho rồi cả,

- Đã làm chi thế vội vàng,

Thôi chẳng lo gì thong thả.

- Dẫu có ai trẻ mỏ lớn lên,

Là những chốn xưa nay chẳng bạ.(19)

.......

Câu vụng chữ dại đã là dấu hiệu của một thứ phẩm không phải của bậc thi hào nhưng cái tình người, lòng nhân ái mới là vấn đề quan trọng. Dù viết đùa hay viết thật, bài Văn tế… đã bộc lộ sự thấp hèn về đạo đức, tư cách. Một con người có “con mắt trông thấu sáu cõi, tấm lòng nghĩ suốt ngàn đời” (Tiên phong Mộng liên đường chủ nhân) như Nguyễn Du không thể có cách nói mạ lị, chợ búa như vậy. Họ không phải là kẻ thù của ông, họ là những người lao động chân chính, đáng thương, đáng trọng. Sang xứ người, ông còn trân trọng ông già mù hát rong ở Thái Bình (Thái Bình mại ca giả) hoặc nghiêng mình thương xót bốn mẹ con người ăn xin (Sở kiến hành), sao lại có thể nhiếc móc đồng bào quê hương xứ sở như thế này được:

Một đứa thì dắt mũi trâu từ thuở bé, tắc tắc hò rì,

Một đứa thì cắt cỏ ngựa đến tận giờ, tùng tùng dạ há.

Ở làm chi một năm thêm một tuổi càng cao,

Khéo gớm cho hai ả được hai chồng cũng khá.

Trong bài Văn tế có nhiều câu tục tĩu, thô thiển:

Phụt ngọn đèn trước mắt, đếch sự đời, chẳng phải đứa tiểu tâm,

Đùng tiếng lói sau nhà, đéo mẹ kiếp, bỗng có thằng đại phá.

Chúng ta biết rằng Nguyễn Du không chỉ là một nhà nhân văn vĩ đại mà ông còn là một Phật tử. Hơn ai hết, ông tin rằng viết ra như thế, nói ra như thế là đã tạo nên khẩu nghiệp.

Vậy nên, chúng ta không thể tin được đây là văn của người đã viết ra Truyện Kiểu, viết ra Văn tế thập loại chúng sinh. Trong truyền thống học thuật xứ Nghệ đã từng xảy ra một câu chuyện nực cười. Đó là một thời, người dân nơi đây, trong đó có không ít nhà khoa bảng, đã gán bài Văn tế cô Nhiễu – một bài văn lời lẽ độc ác, khí độ nhỏ nhen nhưng ngôn từ rất hiện đại và nghệ thuật thì vào cỡ bậc thầy so với bài Văn tế sống hai cô gái Trường Lưu – cho một vị đại khoa có tiếng là hiền nhân quân tử: Thám hoa Phan Kính. Sự gán ghép này đã được một nhà giáo lão thành từng nhiều năm dạy học ở Hà Tĩnh viết thành sách và được một học giả thời danh tiếng nổi như cồn dùng những phương pháp siêu việt nhất của thời đại để phụ họa(20). Kết quả, như nhà nghiên cứu Thái Kim Đỉnh đã khám phá, tác giả bài Văn tế cô Nhiễu là một ông tú tài họ Phan, quê ở Kỳ Anh, sống vào cuối thế kỷ XIX đầu thế kỷ XX, cách Thám hoa Phan Kính khoảng hai thế kỷ(21).

8. Nguyễn Du tạo nên một văn nghiệp lẫy lừng như vậy, ngoài một tâm hồn thơ mãnh liệt, ngoài tài năng trác việt trời cho, điều quan trọng nhất là ông đã biết thâu thái tinh hoa của đời từ cổ chí kim, từ dân tộc đến khu vực, từ bác học đến dân gian. Và cái nền văn hoá dân gian đối với ông vô cùng quan trọng, nó là mảnh đất màu mỡ để sự nghiệp văn chương của ông bén rễ xanh cây. Ông từng bộc lộ quan điểm văn chương một cách rõ ràng trong việc học tập văn hoá dân gian:

Thôn ca sơ học tang ma ngữ,

Dã khốc thời văn chiến phạt thanh

Thanh minh ngẫu hứng

(Tiếng hát nơi thôn xóm (làm cho ta) bước đầu học được tiếng nói của người trồng dâu, trồng gai/ Tiếng khóc nơi đồng nội (làm cho ta) nghe được âm thanh sát phạt của chiến tranh).

Nguyễn Du gắn với nhân dân, với cuộc đời gió bụi nhưng ông là một nhân cách đa văn hoá mà cái gốc ban đầu vẫn là văn hoá Kinh Bắc – Thăng Long. Ông gắn với quê cha đất tổ qua truyền thuyết, huyền thoại của dòng họ, quê hương, nhưng đó là sự gắn bó trong cõi tâm linh, tuy lỏng mà lại rất chặt.

Không đi hát phường vải, không sáng tác những bài văn Nôm như Thác lời trai phường nón, Văn tế sống hai cô gái Trường Lưu, thì Nguyễn Du vẫn là niềm tự hào lớn lao của quê hương, xứ sở. Ngược lại, nếu chúng ta tùy tiện gán câu chuyện đi hát phường vải và tư cách tác quyền hai bài văn Nôm nói trên cho Nguyễn Du, thì nói như chính thi hào, rằng: “Yêu nhau mà lại bằng mười phụ nhau”.

Tóm lại, theo chúng tôi, tư cách sáng tác các bài văn Nôm đó của Nguyễn Du chỉ là một giai thoại văn nghệ dân gian. Ngoài việc làm căn cứ để lập thuyết về một văn phái, nhiều bậc cao minh vì thấy tiểu sử cuộc đời Nguyễn Du có khá nhiều khuất khúc, nên đã cố tình biến giai thoại này thành sự thật để lấp khoảng trống. Và thế là từ giai thoại, câu chuyện đi hát phường vải của đại thi hào đã nghiễm nhiên trở thành một “huyền thoại” khoa học. Việc biến một giai thoại thành một luận cứ khoa học như trường hợp nói trên không chỉ phương hại đến giá trị của đối tượng nghiên cứu mà còn góp phần tạo ra một tiền lệ xấu trong nền học thuật nước nhà: chấp nhận tình trạng làm khoa học cẩu thả, không chịu khảo cứu một cách nghiêm túc, chỉ nói theo nhau kiểu “dĩ hư truyền hư”!

Chú thích

1. Hoàng Xuân Hãn, Nguồn gốc văn Kiều: hát phường vải Trường Lưu, Tạp chí Thanh Nghị, H, số 47 ra ngày 16 Octobre 1943; tr. 16-23.

2. Hoàng Xuân Hãn, TLĐD, tr.16.

3. Mạc Đình Tư xuất bản tại Hà Nội năm 1924.

4. Tức là bài Bài văn cụ Nguyễn Du trả lời chi cụ Đốc thị Nguyễn Huy Quýnh (về sau thường gọi là Thác lời trai phường nón Tiên Điền gửi các cô gái phường vải Trường Lưu) trong sách Truyện cụ Nguyễn Du của Phó bảng Phan Sĩ Bàng và Giải nguyên Lê Thước, nhà in Mạc Đình Tư, H, 1924; tr. 26-27.

5. Phó bảng Phan Sĩ Bàng và Giải nguyên Lê Thước, TLĐD, tr. 10.

6. Đào Duy Anh, Khảo luận về Kim Vân Kiều, Quan hải tùng thư xuất bản, Huế, 1943, in lại trong Đào Duy Anh nghiên cứu văn hoá và ngữ văn, NXB GIÁO DỤC, H, 2005; tr. 91.

7. Lê Trí Viễn - Phan Côn - Đặng Thanh Lê - Phạm Văn Luận - Lê Hoài Nam, Lịch sử văn học Việt Nam (tập III), bản in lần thứ năm, NXB Giáo dục, H, 1978;

- Hoàng Hữu Yên - Nguyễn Lộc, Văn học Việt Nam thế kỷ XVIII - nửa đầu thế kỷ XIX, NXB Giáo dục, H, 1962;

- Nguyễn Lộc, Văn học Việt Nam (nửa cuối thế kỷ XVIII – hết thế kỷ XIX); tái bản lần thứ 2 có chỉnh lý, bổ sung; NXB Giáo dục, H, 1997; tr. 301;

- PGS.TS. Lã Nhâm Thìn, PGS.TS. Vũ Thanh (Đồng Chủ biên), Giáo trình Văn học Trung đại Việt Nam, tập 2; NXB Giáo dục Việt Nam, H, 2015; tr. 167;

8. Lê Trí Viễn - Phan Côn - Đặng Thanh Lê - Phạm Văn Luận - Lê Hoài Nam, Lịch sử văn học Việt Nam (tập III), bản in lần thứ năm, NXB Giáo dục, H, 1978; tr. 147-148.

9. Lê Thước, Vài mẩu hồi ức về việc nghiên cứu Nguyễn Du và Truyện Kiều, Tạp chí Văn học số tháng 11-1965, in lại trong sách Kỷ niệm 200 sinh Nguyễn Du, NXB Khoa học Xã hội, bản in lần thứ 2, H; tr. 415-423.

10. Tuyển tập Trương Chính, tập 1, NXB Văn học, H, 1997; tr. 415-432.

11. Tuyển tập Trương Chính, tập 1, NXB Văn học, H, 1997; tr. 415.

12. Tuyển tập Trương Chính, tập 1, NXB Văn học, H, 1997; tr. 417.

13. Con gái Nguyễn Khản (1734 – 1786) là Nguyễn Thị Bành và Nguyễn Thị Đài, cả hai chị em đều là vợ Nguyễn Huy Tự (1743 – 1790).

14. Lại Văn Hùng - Trần Thị Băng Thanh, Tìm hiểu quan niệm và sự hình thành dòng văn trong văn học Việt Nam (thế kỷ XVIII - nửa đầu thế kỷ XIX), NXB Hội Nhà văn, H, 2005; tr. 128;

- Nguyễn Thạch Giang - Trương Chính, Nguyễn Du – niên phổ và tác phẩm, NXB Văn hoá – Thông tin, H, 2001; tr. 476 – 486;

- Võ Hồng Huy - Thái Kim Đỉnh - Vũ Ngọc Khánh, Tiếng Kiều đồng vọng đất non Hồng, NXB Văn hoá – Thông tin, H, 2010; tr. 28, 41.

15. Ninh Viết Giao, Văn hoá làng Trường Lưu, Tạp chí Văn học số 4/1994, tr. 4.

- Võ Hồng Hải, Bước đầu tìm hiểu về mối quan hệ giữa Đại thi hào Nguyễn Du và làng Trường Lưu, Tạp chí Văn hoá Hà Tĩnh, số 78+79, tháng 2/2005;

- Trần Huy Tảo, Phải chăng Giải nguyên Nguyễn Huy Phó là tác gải bài thơ Nôm “Thác lời gái phường vải Trường Lưu gửi trai phường nón Tiên Điền”, Tạp chí Văn hoá Hà Tĩnh, số 128, tháng 3/2009.

16. Nguyễn Quảng Tuân, Tìm hiểu Nguyễn Du và Truyện Kiều, NXB Khoa học xã hội và Trung tâm Quốc học, Tp. Hồ Chí Minh, 2000; tr. 35-46. [Thực ra thì thông tin về việc tờ chiếu của vua Gia Long phong cho Nguyễn Du được Trần Trung Viên chụp lại và in trong Văn đàn bảo giám đã được sách Chân dung Nguyễn Du (Nhà in Nam Sơn, Sài Gòn, 1960) trích in lại trước Nguyễn Quảng Tuân].

17. Nguyễn Huy Mỹ (Chủ biên), Các tác giả dòng văn Nguyễn Huy Trường Lưucuộc đời và tác phẩm, NXB Lao động và Trung tâm văn hoá ngôn ngữ Đông Tây, H, 2012; tr. 65, 66, 68.

18. Tuyển tập Trương Chính, NXB Văn học, H, 1997; tr. 423.

19. Vương Trọng, Nguyễn Du không như thế, Tuần báo Văn Nghệ, ngày 25/8/2007; in lại trong Thơ chữ Hán Nguyễn Du, Sở Văn hoá, Thể thao và Du lịch Hà Tĩnh xuất bản, 2008, tr. 363-364;

20. Phan Công tộc gia phả (tư liệu cá nhân của nhà nghiên cứu Thái Kim Đỉnh).

21. Trần Ngọc Anh, Hồng Sơn văn phái, nguồn thi ca Nôm một vùng quê, NXB Đại học sư phạm, H, 2008; tr. 25-40.


*Thạc sỹ, Phó Tổng biên tập Tạp chí Văn hoá Hà Tĩnh