Danh ngôn

Trong mọi cộng đồng, chúng ta cần một nhóm thiên thần gây rối.

We need, in every community, a group of angelic troublemakers.

(Bayard Rustin – trích bài phát biểu tại New York City 1963)

Trong mọi trường hợp, chắc chắn rằng sự thiếu hiểu biết, đi kèm với quyền lực, là kẻ thù tàn bạo nhất có thể có của công lý.

It is certain, in any case, that ignorance, allied with power, is the most ferocious enemy justice can have.

(James Baldwin - No Name in the Street 1972)

Các cuộc cách mạng và các cá nhân có thể bị giết hại, nhưng bạn không thể giết chết các ý tưởng.

While revolutionaries and individuals can be murdered, you cannot kill ideas.

(Thomas Sankara, một tuần trước khi bị ám sát, 1987)

Không có cảm giác nào cô đơn hơn việc bị chính đất nước mình trục xuất.

There's not a more lonely feeling than to be banished by my own country.

(Kiyo Sato – Kiyo’s Story 2009)

Ban Biên tập

Địa chỉ liên lạc:

1. Thơ

tho.vanviet.vd@gmail.com

2. Văn

vanviet.van14@gmail.com

3. Nghiên cứu Phê Bình

vanviet.ncpb@gmail.com

4. Vấn đề hôm nay

vanviet.vdhn1@gmail.com

5. Thư bạn đọc

vanviet.tbd14@gmail.com

6. Tư liệu

vanviet.tulieu@gmail.com

7. Văn học Miền Nam 54-75

vanhocmiennam5475@gmail.com

Tra cứu theo tên tác giả

Thứ Ba, 24 tháng 11, 2015

Review sách “Trí tuệ giả tạo – Internet đã làm gì chúng ta”

Nup Hero

clip_image004

· Tác giả: Nicholas Carr.

· Dịch giả: Hà Quang Hùng. Linh Giang

· Nhà xuất bản: Nxb Trẻ

· Số trang: 288

· Ngày xuất bản: 11 – 2012

· Giá tham khảo : 68000 VNĐ

Logic của sách

Ở lời dẫn nhập, tác giả nói đến việc con người thường coi công cụ là vật vô tri, đánh giá thấp ảnh hưởng của công cụ lên cách tư duy và hành động của chúng ta. Cách suy nghĩ đó thật sai lầm. Internet đang dần làm biến mất một kiểu tâm trí cũ “bình thản, tập trung, tuyến tính và lỗi thời” vốn đã tồn tại 500 năm từ thời Gutenberg để sang một kiểu tâm trí mới “nhanh hơn, nhiều hơn, tốt hơn”. Chương 2 là nơi tác giả dẫn chứng những bằng chứng khoa học về não bộ để nói lên một điều, não bộ con người rất dễ bị ảnh hưởng và thay đổi từ môi trường sống. Trong chương 3, tác giả dẫn chứng trong quá khứ, những đột phá về công nghệ như bản đồ hay đồng hồ đã thay đổi cách tư duy, cách sống hay nền văn hóa của chúng ta thế nào. Chương 4, tác giả bàn về việc sách, một công cụ truyền tải khác, đã biến đổi ngôn ngữ của con người ra sao. Trong chương 5, tác giả quay lại đề cập đến việc Internet thực sự đang làm gì bộ não của chúng ta. Chương 6 là các phát minh mới đang biến đổi sách giấy thế nào. Chương 7 : Bằng chứng khoa học về não bộ con người biến đổi trên môi trường Internet. Chương 8 bàn về một tập đoàn như Google đã thiết kế, biến đổi môi trường Internet cho phù hợp với mô hình kinh doanh của họ, và việc đó ảnh hưởng thế nào đến chúng ta. Chương 9, tác giả đưa ra mối lo ngại của việc con người đang outsource những điều rất quan trọng của mình cho công nghệ, máy móc và dần trở nên vô cảm. Chương 10 là cảnh báo về một tương lai phụ thuộc thái quá vào công nghệ của con người.

Tóm tắt “Trí tuệ giả tạo”

Dẫn nhập :

· Về lâu về dài, nội dung sẽ ít quan trọng hơn bản chất của phương tiện truyền tải trong việc ảnh hưởng đến cách chúng ta nghĩ và hành động

· Mọi công cụ, phương tiện đều thay đổi chúng ta, dù ít dù nhiều.

· Nội dung thực ra chỉ là một “miếng thịt mà tên trộm dùng để đánh lạc hướng chú chó canh nhà mà thôi”.

Chương 1 :

· Internet đang khiến kiểu tâm trí cũ “bình thản, tập trung, tuyến tính” tồn tại suốt hơn 500 năm qua trở nên lỗi thời.

· Nó cũng tạo nên một cách tư duy mới phù hợp hơn “nhanh hơn, nhiều hơn, tốt hơn”

Chương 2 :

· Trái với quan diểm não bộ của người trưởng thành không thể thay đổi, não bộ của chúng ta thực chất rất mềm dẻo, thậm chí siêu mềm dẻo.

· Các neuron liên tục phá vỡ kết nối cũ và tạo ra kết nối mới.

· Não bộ có tính mềm dẻo, nhưng không có nghĩa là đàn hồi. Khi não chuyển sang trạng thái mới, trạng thái cũ sẽ mất đi. Và chẳng ai dám chắc trạng thái mới là trạng thái ta mong đợi.

· Cách chúng ta suy nghĩ và hành động không phụ thuộc hết vào gene cũng như trải nghiệm thời thơ ấu. Ta thay đổi cách suy nghĩ thông qua cách chúng ta sống, hay theo Nietzsche, thông qua công cụ chúng ta sử dụng.

Chương 3 :

· Các công cụ đã ra đời và biến đổi cách thức tư duy của chúng ta. Bản đồ tạo nên tư duy trừu tượng. Đồng hồ tạo nên con người đề cao hiệu năng làm việc, tính cá nhân và tư duy khoa học (đo đạc).

· Những công cụ giúp con người tăng cường khả năng tư duy và nhận thức luôn là người bạn thân thiết của con người. Con người coi chúng như bạn bè, và chịu ảnh hưởng từ chúng nhiều nhất.

· Chúng ta không chọn lựa được việc có sử dụng công nghệ hay không, nó cứ thế diễn ra, và cứ thế thay đổi cách chúng ta sống.

Chương 4 :

· Lịch sử phát triển của sách luôn gắn liền với lịch sử phát triển của ngôn ngữ loài người

· Cách sống của thời truyền miệng tạo nên một tâm trí thiên về diễn xướng, diễn thuyết, tranh luận. Các con chữ của thời kỳ này liền tù tì với nhau, không ngắt nghỉ, không chấm phẩy.

· Đọc sách luôn là đọc thành tiếng. Ngồi im lặng chăm chú đọc sách là một điều gì đó bất thường

· Bản năng sinh tồn của con người có thiên hướng muốn nắm bắt thông tin từ môi trường quanh mình một cách nhanh chóng. Để tạo nên thói quen đọc sách như ngày nay là một quá trình con người đào tạo tâm trí của mình, đi ngược bản năng tự nhiên.

Chương 5 :

· Máy tính, rồi Internet dần trở thành phương tiện đa năng và duy nhất, thay thế chức năng toàn bộ các công cụ trước đó.

· “Phương tiện mới chẳng bao giờ để phương tiện cũ được yên, nó luôn tìm cách lật đổ cái cũ cho đến khi nó leo lên được vị trí thống trị thì thôi”.

· Chức năng của Internet : cắt nhỏ, phân mảnh thông tin nhằm đáp ứng nhu cầu thông tin nhanh chóng của người dùng. Con người đánh đổi lại bằng khả năng tập trung và tư duy ngày càng rời rạc, thiếu tính hệ thống của mình.

Chương 6 :

· Cứ mỗi khi một phương tiện truyền thông mới ra đời, chúng ta lại đều dự đoán về cái chết của sách in. Nhưng sách in vẫn kháng cự tốt đẹp cho đến tận thời của Internet.

· Thế nhưng việc ra đời của những thiết bị như Kindle hay tablet đang đe dọa nghiêm trọng đến sự sống còn của sách giấy.

· Cuối cùng con người đọc sách chẳng khác đọc báo hay tạp chí là bao : chỗ này một tí, chỗ kia một tẹo.

Chương 7 :

· Vấn đề lớn nhất của việc có quá nhiều siêu liên kết : con người mất rất nhiều năng lực của não để đánh giá mức độ liên quan và hữu ích của các siêu liên kết, và chẳng còn nhiều năng lượng cho mục đích chính của việc đọc : diễn giải ý tưởng.

· Ẩn dụ về đọc trên môi trường Internet : cố gắng đọc 1 quyển sách trong khi cũng vừa cố gắng giải trò chơi ô chữ.

· Quá quen với việc thấy được sự trù phú của thông tin bày ra trước mắt trên Internet, chúng ta sẽ rơi vào trạng thái thèm, đói thông tin nếu rời xa môi trường Internet.

· Không được thu nhận thêm thông tin, con người rơi vào trạng thái trầm cảm, mất kết nối hay cô đơn.

Chương 8 :

· Google, công ty Internet lớn nhất thế giới, đang cố gắng phân mảnh thông tin tối đa, muốn con người online càng lâu càng tốt để xác suất con người thấy/click quảng cáo càng cao

· “Những bộ não tốt nhất của thế hệ chúng tôi chỉ chăm chăm làm mỗi nhiệm vụ là nghĩ ra những phương thức mới dụ dỗ người dùng click quảng cáo càng nhiều càng tốt”

· Google, vốn theo chủ nghĩa Taylor, coi não bộ con người như một máy tính; coi sự khác biệt trong cách thức tư duy là một lỗi lập trình và cần một thuật toán tốt hơn.

Chương 9 :

· Việc ghi nhớ của con người thời nay chỉ đơn thuần là ghi nhớ địa chỉ web, nơi mà truy cập vào đó, họ sẽ lấy lại được toàn bộ thông tin mình cần một cách nhanh chóng.

· Sự giàu có về sự kết nối trong các neuron, vốn là nền tảng của trí thông minh, khả năng tư duy, trí sáng tạo và dự đoán tương lai nay được thay thế bằng sự giàu có trong việc sưu tập các đường link trên Internet.

· Bằng việc outsource trí nhớ ra những tấm silicon vô tri, chúng ta đang trên con đường giải phóng bộ não khỏi chức năng thừa thãi là ghi nhớ và tự do để làm những tác vụ sáng tạo khác, hay đang trên con đường tiến tới hình thành một con người không có ký ức, cảm xúc, sự đồng cảm?

Chương 10 :

· “Con đường dễ dàng không phải bao giờ cũng là con đường tốt, thậm chí có thể dẫn đến diệt vong. Nhưng con đường dễ dàng sẽ luôn là con đường mà công cụ khuyến khích chúng ta đi theo”.

· “Chúng ta biến đổi công cụ, và rồi sau đó chúng biến đổi lại chúng ta”. Biết đâu đến một ngày, chúng ta sẽ trở thành tù nhân của công cụ?

==============================

Diễn giải ý tưởng chi tiết

1, Dẫn nhập : Chó giữ nhà và tên trộm

Ý tưởng cơ bản :Nội dung thông điệp (content) hay công cụ truyền tải thông tin (medium) có ảnh hưởng đến chúng ta nhiều hơn? Phải chăng công nghệ chỉ là một loại công cụ chúng ta có thể tùy ý sử dụng và điều khiển?

Trong cuốn “Understanding Media: The Extensions of Man” của Marshall McLuhan xuất bản năm 1964, ông đã viết “Như là cánh cửa dẫn đến thế giới bên ngoài, cũng như là nơi thể hiện hình ảnh tự thân, các phương tiện truyền thông có thể bóp méo những điều ta thấy, cách chúng ta thấy. Và thậm chí nếu sử dụng chúng đủ nhiều, chúng có thể cách chúng ta nhìn nhận bản thân, không chỉ trên quy mô cá thể mà là cả xã hội”.

Chúng ta vẫn hay đánh đồng phương tiện truyền tải và nội dung là một. Và khi tranh luận về tính đúng sai, tốt xấu của các thông điệp trên truyền thông, chúng ta thường chỉ chú trọng vào phần nội dung. Khi công nghệ in của Gutenberg ra đời, đã có những cuộc tranh luận nổ ra : người lạc quan cho rằng việc xuất bản thông tin dễ dàng hơn sẽ khiến xã hội trở nên dân chủ hơn; trong khi người hoài nghi thì cho rằng việc có nhiều thông tin, kiểm soát chất lượng khó khăn sẽ dẫn đến thông tin chất lượng thấp tràn lan, và dẫn đến một xã hội đi xuống về mặt tư duy.

Nhưng đánh giá tính đúng đắn của thông tin luôn là vấn đề của cảm tính. Và 2 phe tham gia cuộc tranh luận đó đều không thấy một thực tế : về lâu về dài, nội dung sẽ ít quan trọng hơn bản chất của phương tiện truyền tải trong việc ảnh hưởng đến cách chúng ta nghĩ và hành động.

Chúng ta nghĩ rằng, công nghệ chỉ là một công cụ vô hại, cách chúng ta sử dụng nó mới là vấn đề. Nhưng sự thực lại không như vậy. Bất kỳ một công cụ nào, dù ít hay nhiều đều thay đổi chúng ta. Nội dung thực ra chỉ là một “miếng thịt mà tên trộm dùng để đánh lạc hướng chú chó canh nhà mà thôi”.

2, Chương 1 : Hal và tôi

Ý tưởng cơ bản : Sử dụng Internet càng nhiều, chúng ta sẽ càng tư duy theo cách và mục đích Internet được thiết kế ra và vận hành : nhanh hơn, nhiều hơn, ngắn hơn, ít kiên nhẫn hơn. Cuối cùng chúng ta dần trở thành một cỗ máy xử lý thông tin bằng xương bằng thịt.

Như McLuhan nhận định, phương tiện truyền tải không chỉ cung cấp chất liệu để ta tư duy, chúng cũng đồng thời định hình lại quá trình ta suy nghĩ. Và cứ dùng Internet lâu dần, dù có online hay không, não chúng ta vẫn mắc một chứng nghiện : luôn thèm khát, muốn thu nhận thêm thông tin.

Với một vài người, ý tưởng về việc đọc sách đã là lỗi thời, thậm chí hơi ngốc nghếch, tương tự như việc bạn cố gắng tự may quần áo hay tự đi gánh nước về sử dụng. Với họ, việc đến với Google và nhanh chóng có được thông tin họ cần là phương thức mới, hiện đại hơn. Họ không thấy lý do cần phải đọc sách. Họ nhận thức được những thay đổi trong cách tư duy của mình, khó tập trung hơn, ít kiên nhẫn hơn.Nhưng chẳng ai muốn quay lại phương thức tiếp nhận thông tin cũ.

Chúng ta tiến dần đến một cột mốc cho sự cáo chung của “một tâm trí bình thản, tập trung, tuyến tính và lỗi thời”. Kiểu tư duy đã ngự trị hơn 500 năm, vốn là nền tảng của khoa học, nghệ thuật và xã hội đang bị gạt sang một bên nhường chỗ cho tư duy “nhanh hơn, nhiều hơn, tốt hơn”.

“Một tâm trí giàu trí tưởng tượng của thời Phục Hưng, một tâm trí đầy lý tính của thời Khai sáng, một tâm trí thiên về phát minh của thời Cách mạng công nghiệp hay tâm trí đầy tính nổi loạn của thời Hiện đại. Tất cả sẽ sớm lùi vào dĩ vãng nhường chỗ cho một kiểu tư duy mới”.

3, Chương 2 : Con đường của sự sống

Ý tưởng cơ bản : Bộ não của con người cực kỳ dễ thay đổi dưới tác động của môi trường. Chúng không ngừng tiếp nhận, học hỏi và thay đổi trạng thái, dù bạn có mong muốn hay không, dù bạn học chủ động hay thụ động. Và chẳng ai dám chắc trạng thái mới là trạng thái chúng ta mong đợi.

Cho đến đầu thế kỷ 20, cấu tạo và cách thức não con người vận hành vẫn là một bí ẩn. Khởi đầu bằng Freud với lý thuyết cho rằng cũng giống như các bộ phận khác trong cơ thể, não được tạo bởi vô số tế bào riêng biệt, khác với khoa học đương thời cho rằng não là một khối thống nhất. Kính hiển vi phát triển, người ta nhận thấy não được tạo bởi vô số neuron, kết nối với nhau thông qua synapse, và gửi tín hiệu bằng chất hóa học truyền dẫn (neurotransmitter).

Nhưng các nhà khoa học vẫn tiếp tục nghĩ não của người trưởng thành là cố định và không bao giờ thay đổi “chỉ có dần dần chết đi và thối rữa, chẳng có sự tái sinh”. Bằng tư duy của thời Công nghiệp, người ta cũng tin rằng các phần của bộ não cũng giống như một chiếc máy. Mỗi phần có chức năng cụ thể và cố định, nếu thay đổi sẽ dẫn đến sụp đổ của toàn hệ thống.

Rồi cuối cùng, theo giáo sư James Olds khám phá, não con người rất mềm dẻo, thậm chí “siêu mềm dẻo”. Các neuron liên tục phá vỡ kết nối cũ và tạo ra kết nối mới : “Não bộ có khả năng tái cấu trúc chính nó, thay đổi chức năng của từng bộ phận, cũng như biến đổi cách nó vẫn vận hành”. Khám phá này giúp củng cố quan điểm cho cả 2 phe của cuộc tranh luận muôn thuở : chúng ta là sản phẩm của tự nhiên, hay của sự nuôi dưỡng (nature or nurture).

Pascual-Leone cho rằng, tính mềm dẻo của não bộ là một điều tối quan trọng của tiến hóa “giúp chúng ta thoát khỏi giới hạn sinh học của chính mình, giúp thích nghi với sự thay đổi môi trường…”.

clip_image006

“Khám phá lớn nhất của thế hệ chúng ta là con người có khả năng thay đổi cuộc sống của họ chỉ bằng cách thay đổi thái độ”.

Cách chúng ta thu nhận, suy nghĩ và hành động không hoàn toàn được quyết định bởi gene của chúng ta hay trải nghiệm thời thơ ấu. Ta thay đổi chúng thông qua cách chúng ta sống, và theo Nietzsche, thông qua công cụ chúng ta sử dụng.

Não bộ có tính mềm dẻo, nhưng không có nghĩa là đàn hồi. Một khi não chuyển sang trạng thái mới, trạng thái cũ sẽ mất đi. Và chẳng ai dám chắc trạng thái mới là trạng thái ta mong đợi. Thói quen xấu có thể thấm nhuần vào trong neuron của chúng ta cũng dễ dàng như thói quen tốt vậy.

Chương 3 : Công cụ của tâm trí

Ý tưởng cơ bản : Quá trình hoàn thiện khả năng của con người luôn song hành với sự phát triển của công cụ, đặc biệt là công cụ tư duy : bản đồ, đồng hồ, sách… Các công cụ đã ra đời và biến đổi cách thức tư duy của chúng ta thế nào, gây ra những xáo trộn ra sao trong đời sống, xã hội và chuyển dịch của cả nền văn minh là nội dung của chương 3.

Nếu bạn đã từng nhìn trẻ con vẽ tranh, bạn sẽ thấy chúng chính xác vẽ ra những gì chúng thấy. Chúng không quan tâm đến tỷ lệ, khoảng cách hay tính logic của các nét chúng vẽ ra. Dần dần trưởng thành, chúng ta có xu hướng chuyển sang vẽ cái chúng ta biết hơn là cái chúng ta thấy. “Tư duy của chúng ta biến đổi từ thế giới quan duy ngã, thuần về giác quan của đứa trẻ sang thế giới quan mang tính trừu tượng và khách quan, phân tích và bị ảnh hưởng nhiều bởi kinh nghiệm sống của người trưởng thành”.

Theo Robinson, bản đồ “không chỉ tạo nên bước ngoặt trong khả năng phát triển tư duy trừu tượng của con người. Bằng việc kết nối các mẩu thông tin giản lược từ thực tại thành một hình thành mang tính cấu trúc cao, con người cũng dần hoàn thiện khả năng dự đoán và nhìn nhận ra những động lực, nguyên tắc vốn chưa từng thấy được thấy đang ảnh hưởng lên môi trường sống và sự tồn tại của mình”.

Những chức năng mà bản đồ đã làm với không gian – mô tả thực tại thành một sản phẩm nhân tạo có tính trừu tượng cao – cũng có một nguyên mẫu chung với chiếc đồng hồ đã mô tả thời gian. Thời Trung Cổ, theo Jacques Le Goff mô tả “được thống trị bởi những nhịp điều của nghề nông, không hề vội vàng, không bận tâm tới tính chuẩn xác, chẳng lo lắng tới hiệu quả lao động”.

Và rồi, công nghệ phát triển, đồng hồ ngày càng nhỏ hơn và rẻ đi, đến một lúc phần lớn mọi người đều đã sở hữu cho riêng mình một chiếc đồng hồ bỏ túi, vốn là một thiết bị “nhằm để tính toán và đo đạc; luôn ở cạnh con người, nhắc nhở thường trực cho chúng ta về cách thời gian được sử dụng, lãng phí, bỏ quên… Nó đã trở thành thước đo về thành tựu cá nhân và hiệu năng làm việc của con người”. Đó chẳng phải là điều khác biệt, làm nên chủ nghĩa cá nhân, vốn là đặc trưng của một con người Phương Tây hay rộng hơn chính là nền văn minh Phương Tây hay sao? Những giai điệu tik-toc của một chiếc đồng hồ cũng góp phần hình thành nên những con người khoa học, và một tâm trí có tính khoa học.

Có thể chia công cụ con người từng phát minh ra làm 4 loại : giúp chúng ta tăng cường sức mạnh cơ bắp và tính linh động : lưỡi cày, xe ô tô…; giúp chúng ta tăng cường tính nhậy bén của 5 giác quan : kính hiển vi, loa phát thanh…; giúp chúng ta kiểm soát và thay đổi bản chất sinh học : thuốc tránh thai, vaccine… Đồng hồ và bản đồ thuộc vào nhóm cuối cùng : giúp chúng ta tăng cường khả năng ghi nhớ, tư duy và nhận thức. Chúng là người bạn thân thiết nhất của con người, là cách để chúng ta tạo nên tính cá nhân, bộc lộ bản thân, là danh tiếng, là cách chúng ta tạo mối quan hệ với người khác.

Một điều hiển nhiên, tổ tiên chúng ta không tạo ra và sử dụng đồng hồ hay bản đồ một cách có ý thức “để tăng cường khả năng tư duy trừu tượng hay hiệu quả làm việc”. Cũng chẳng thể nói họ có khả năng chọn sử dụng các công cụ đó hay không.Chúng là sản phẩm phụ của quá trình phát triển công nghệ. Vâng, một sản phẩm phụ! Karl Marx cũng góp thêm tiếng nói về việc lựa chọn bằng câu nói “Chiếc cối xay gió mang lại cho bạn một xã hội với những tên địa chủ; còn với máy hơi nước, là một xã hội với những tay tài phiệt tư bản”.

Thi thoảng, công cụ làm theo những gì chúng ta sai bảo; nhưng đôi lúc, chúng ta biến đổi chúng ta để thích nghi với yêu cầu sử dụng của công cụ”. Những đột phá về công nghệ cũng thường tạo nên những cột mốc đột phá trong lịch sử : những công cụ săn bắn và trồng trọt mới giúp tăng dân số, hình thành lối sống ổn định và tạo ra sức lao động. Những thiết bị vận chuyển mới dẫn đến việc mở rộng đất đai, định hình lại thương mại và trao đổi.Những vũ khí mới ra đời làm thay đổi cục diện và cân bằng lại quyền lực giữa các nhà nước.

Chương 4 : Những trang sách dày

Ý tưởng cơ bản : Sách, một phương tiện truyền tải thông tin vô cùng phổ biến, luôn được coi là một trong những phát minh vĩ đại nhất của con người. Nhưng nó cũng là một công cụ, một công cụ tạo nên những sự biến đổi to lớn trong việc dùng và phát triển ngôn ngữ của loài người, vốn là khả năng chúng ta vẫn tự hào là thứ làm nên khác biệt của con người với những loài vật khác.

Về quá trình hình thành và phát triển của sách, các bạn có thể đọc chi tiết hơn tại bài viết “Lịch sử phát triển của sách”. Sơ lược các công cụ lưu trữ và truyền tải thông tin con người đã sử dụng : các phiến đá, xương động vật; tablet bằng đất sét, giấy papyrus dạng cuộn; giấy da ở dạng lật trang (codex); giấy làm từ các thân cây gỗ.

Về ngôn ngữ, đến thời Socrates (400 TCN – Hy Lạp) con người vẫn hầu như hoàn toàn dùng giấy papyrus hay tablet đất sét để nhằm mục đích lưu trữ các tài liệu về luật pháp, khế ước làm ăn, chứ chưa dùng chúng như là công cụ để truyền tải thông tin. Đây vẫn là thời thịnh vượng của văn hóa truyền miệng, diễn xướng thơ ca và diễn thuyết. Văn hóa truyền miệng vẫn ăn sâu và ảnh hưởng lâu dài và sách/giấy chỉ nhằm mục đích lưu trữ cho đến tận thời Thánh Augustine (400 SCN) khi ông đến Milan và ngạc nhiên tột độ khi thấy một học giả ở đây đang đọc sách một mình trong im lặng (silent reading). Với con người thời đó, đọc sách là đọc to thành tiếng cho nhiều người cùng nghe (một phần vì lý do giá sách thời này vẫn cực đắt).Và chữ viết trên sách không hề có dấu cách, dấu chấm, dấu phẩy mà là một mớ ký tự dính liền tù tì với nhau (lối viết scriptura continua). Người đọc phải tự mò và đoán xem khi nào hết từ và khi nào hết câu.

clip_image008

Lối viết scriptura continua

Về mặt tự nhiên, việc một nhà học giả Milan ngồi một mình tập trung, đắm mình vào một quyển sách là một thứ gì đó rất phi tự nhiên. Bản năng sinh tồn của con người, hay loài vật nói chung, luôn có xu hướng định hình nhanh chóng môi trường xung quanh mình, và phải nhận biết và phản xạ nhanh chóng với bất kỳ thay đổi có xu hướng nguy hiểm từ môi trường : thú săn mồi đang rình rập. Tập trung hoàn toàn vào một quyển sách và bỏ quên mọi thứ diễn ra xung quanh mình là một kỹ năng trái với bản năng sinh tồn, một kỹ năng đòi hỏi sự luyện tập về tâm trí cao độ. Như Vaughan Bell đã viết “Khả năng tập trung vào một nhiệm vụ duy nhất, không bị gián đoạn là một điểm bất bình thường trong tiến trình phát triển tâm sinh lý của loài người chúng ta”.

Chương 5 : Vua của các loại phương tiện

Ý tưởng cơ bản : Vào năm 1936, Alan Turing, sau này được biết đến như cha đẻ của Khoa học máy tính, đã công bố một phát minh về một chiếc máy tính có thể “tính toán mọi thứ”, biến mọi thứ trở thành 0 và 1. Máy tính điện tử đầu tiên ra đời, và nhanh chóng trở thành phương tiện đa năng nhất, phổ biến nhất, hữu ích nhất và dần dần trở thành duy nhất. Và Internet với những tính năng chính của mình, thực chất là đang cắt nhỏ, phân mảnh thông tin nhằm đáp ứng nhu cầu thông tin nhanh chóng, ngắn gọn của con người; nhưng cũng đánh đổi bằng sự gây nhiễu và mất đi khả năng nhìn tổng thể không thể tránh khỏi.

Máy vi tính, cực kỳ đa năng, có thể đảm nhiệm toàn bộ chức năng của máy đánh chữ, máy in, bản đồ, đồng hồ, bàn tính, điện thoại, thư viện, radio hay TV. Và khi máy tính kết nối với nhau, tạo nên mạng Internet và “điện toán đám mây”, chúng đang dần thay thế toàn bộ các máy móc trên của chúng ta. “Chúng ta đang từ bỏ các công cụ có chức năng chuyên biệt, và đổi lại một công cụ toàn năng, làm được mọi thứ”.

Điều này dẫn đến một cuộc cạnh tranh khốc liệt, như McLuhan viết “phương tiện truyền thông mới không bao giờ sinh ra để trở thành bổ trợ cho phương tiện cũ. Nó cũng chẳng để phương tiện cũ được yên, luôn tìm cách lật đổ cái cũ cho đến khi nó leo lên được vị trí thống trị”.

Bản chất của Internet được tạo thành từ “siêu liên kết – hyperlink”. Siêu liên kết sinh ra có một chức năng cơ bản : thu hút sự chú ý của ta. Giá trị về việc lái chúng ta đi nhanh chóng trên thế giới web được chúng ta chấp nhận để đánh đổi lại tính gây nhiễu mang tính bản chất của chúng. Đi kèm với tính năng search, giờ ta có thể nhanh chóng nhảy đến ngay thông tin mình cần mà không một cuốn sách in nào có thể làm được. Search engine cũng được thiết kế để nhằm làm “phân mảnh thông tin” : cắt nhỏ thông tin thành những đoạn rời rạc chứa vài từ hay vài câu liên quan đến từ khóa ta tìm. Chúng không hề có ý định cho ta thấy tổng thể công trình. Dùng search engine nhiều, chứng ta không nhìn thấy rừng cây. Chúng ta thậm chí cũng chẳng nhìn thấy cây. Cái chúng ta thấy là cành và lá; những mẩu nhỏ thông tin rời rạc. Cory Doctorow từng viết “mỗi khi bật máy tính lên, là bạn đang kết nối đến một hệ sinh thái của những công nghệ gây nhiễu”.

Chương 6 : Một hình ảnh mới về sách

Ý tưởng cơ bản : Nói về cuộc cách mạng mà Kindle mang đến và việc đang lăm le soán ngôi sách trong việc trở thành phương tiện truyền tải thông tin mang tính cấu trúc cao thay cho sách in thông thường. Trái với các dự báo thường xuyên về cái chết của sách in mỗi khi một công nghê/phương tiện mới ra đời : radio, TV, Internet… sách vẫn sống khỏe và phát triển song hành cùng với chúng. Như với một thiết bị như Kindle, liệu sách giấy có thể chống đỡ được?

Cũng không khác Internet, Kindle, một thiết bị được quảng bá tạo cho con người trải nghiệm giống đọc sách giấy thật nhất về bản chất cũng đang biến từng con chữ trong sách thành những siêu liên kết. Bằng việc khả năng tra từ điển, kết nối tới Google và Wiki trên từng từ rồi sau đó là những tính năng như kết nối Wifi hay khả năng chia sẻ các đoạn ưa thích lên các mạng xã hội, Kindle mang lại trải nghiệm đọc không khá hơn trên Internet là bao. Trải nghiệm chung vẫn là phân mảnh tư duy “Cuối cùng, chúng ta đọc sách chẳng khác đọc báo hay tạp chí, chỗ này một ít, chỗ kia một tẹo”.

Chương 7 : Bên trong bộ não hiện đại

Ý tưởng cơ bản : Có một vấn đề lớn đang gây tranh cãi rằng : thực ra việc đọc theo cách phân mảnh trên Internet có xấu đến vậy hay không? Cách đọc mới khiến chúng ta cải thiện điều gì và mất đi điều gì? Việc hình thành nên kiểu tâm trí mới đó có ảnh hưởng thế nào đến trí thông minh (IQ) của từng cá nhân hay rộng hơn là một nền văn hóa như thế nào?

Internet là một môi trường khuyến khích cách đọc nông và thiếu tập trung. Đương nhiên không phải việc đọc nào trên Internet cũng là nông, cũng như việc đọc trên sách in sẽ là sâu, nhưng đó không phải là việc mà công nghệ Internet khuyến khích và dễ dàng cho số đông người đọc để nhận ra điều đó.

Internet đang dần khiến con người mất dần khả năng tư duy sâu và sáng tạo. Thay vì đó, não ta giống một cỗ máy xử lý thông tin đơn giản, nhanh chóng đưa thông tin vào, và cũng nhanh chóng đưa thông tin ra. Các nghiên cứu về não bộ đã chỉ ra rằng, vấn đề lớn nhất với các siêu liên kết trên Internet chính là việc con người mất quá nhiều năng lực tư duy của não để đánh giá các đường link trên Internet có đáng giá hay không, mẩu thông tin bên cạnh, trang web kế bên đang chờ đọc có cung cấp nhiều thông tin giá trị hơn cái chúng ta đọc hay không. Hệ quả của việc đó là chúng ta còn không nhiều năng lực tư duy để làm công việc nhận thức và giải mã thông tin một cách đầy đủ, sâu sắc. Đọc trên Internet lại khiến chúng ta quay trở lại thời kỳ Trung Cổ với lối viết “scriptura continua”; khi con người mất chủ yếu thời gian vào việc phán đoán từ nào hết ở đâu, đâu là dấu hết câu thay vì diễn giải ý nghĩa của thông tin đó

clip_image010

Chữ của người Phoenician chỉ bao gồm phụ âm

clip_image012

Người Hy Lạp thêm nguyên âm

clip_image014

Dấu chấm phẩy được thêm vào câu

clip_image016

Chữ in hoa được thêm vào câu

clip_image018

Dấu cách được thêm vào câu

Gary Small, một nhà thần kinh học có so sánh tình trạng của não khi lướt web tương tự khi cố giải đoán trò chơi ô chữ. Vậy cố gắng đọc một cái gì đó tử tế trên Internet giống như việc bạn vừa cố gắng đọc một quyển sách trong khi vừa phải giải một câu đố ô chữ bên cạnh. Bộ nhớ làm việc (working memory) của con người có giới hạn tương đối ít, do đó nếu mất quá nhiều thông tin vào việc đánh giá mức độ hữu ích của link, ta sẽ rời vào tình trạng đọc nhiều nhưng nhớ chẳng được bao nhiêu.

Tuy nhiên, một khi đã sử dụng Internet nhiều, chúng ta chẳng thể quay lại cách cũ. Chúng ta lại muốn bị gây nhiễu, muốn bị gián đoạn. Mỗi lần bị ngăt quãng như vậy, chúng ta đều kỳ vọng sẽ thu được một thông tin gì đó mới và giá trị. Nó cũng giống như một kiểu nghiện, và khi không thấy/có sự gián đoạn đó, chúng ta rơi vào trạng thái trầm cảm, mất kết nối, thậm chí là bị cô lập. Vì vậy, ta lại càng mong muốn Internet cung cấp những tính năng làm nhiễu chúng ta bằng những cách khác nhau. Chúng ta sẵn sàng đánh đổi sự tập trung, tư duy bị phân mảnh để có được sự giàu có về thông tin hay đơn thuần chỉ là cảm giác được kết nối. Chúng ta đi từ chỗ một người nông dân tự chủ trồng trọt trong khu vườn trí thức của mình thành những kẻ săn bắn, hái lượm trong cánh rừng thông tin số.

Chương 8 : Thánh đường Google

Ý tưởng cơ bản : Google, công ty với sứ mệnh sắp xếp và phân loại lại thông tin trên thế giới với triết lý riêng của họ đang là đầu tàu trong việc phân mảnh thông tin và cung cấp chúng một cách nhanh chóng và hiệu quả đến cho mọi người. Từ cách thức thiết kế cách vận hành của search engine, đến dự án số hóa và biến mọi quyển sách trên thế giới có thể được tìm thấy trên mạng, Google đang tạo nên một cách tư duy mới, và đồng thời làm giàu cho công việc kinh doanh chính của họ: bán quảng cáo

90% doanh thu của Google vẫn đến từ sản phẩm đầu tay của họ : Google Search. Bạn càng dành nhiều thời gian trên mạng, càng đọc nhiều thông tin, bạn càng có xác suất sử dụng các dịch vụ của Google cao hơn, và xác suất bạn nhìn/click quảng cáo càng cao hơn. “Là nơi duy nhất trên thế giới mong muốn người sử dụng rời website của mình càng nhanh càng tốt”, theo như lời Irene Au, là một cách nói khéo léo và thông minh để quảng cáo cho Google. Bạn sẽ sớm nhận ra là chẳng chóng thì chày bạn sẽ lại quay lại vào Google, và ngày một nhiều hơn.Có lẽ điều cuối cùng trên đời mà Google khuyến khích là đọc cho vui để giết thời gian hay cách đọc chậm rãi, tư duy sâu.Nói cho cùng, Google là một công ty kinh doanh dựa trên sự gây nhiễu.

Phân mảnh thông tin cũng diễn ra trên các thiết bị di động như tablet, mobile dưới dạng các hình thức sách tương tác. Một số đầu sách còn đi kèm với lời giới thiệu “giúp bạn khám phá cuốn sách chỉ trong vòng 10s”.Rồi việc mặt trái của việc chỉnh sửa kết quả tìm kiếm cho phù hợp với từng người dùng cũng mang lại những mặt trái nhất định. Chúng ta cần những thông tin trái chiều, những thông tin ở quan điểm đối lập… nhằm bổ sung cho tư tưởng của chúng ta được đầy đủ và đa chiều. Việc cá nhân hóa Internet sẽ dẫn đến việc bạn dần tự nhốt mình vào một nhà tù của những sở thích, mối quan tâm của mình. “Ngày nay có quá nhiều thông tin dành cho chúng ta, nhưng quá ít thời gian để chúng ta sử dụng chúng, nhất là sử dụng chúng với một sự cân nhắc nhất định”.

Google, với thế giới quan theo chủ nghĩa Taylor, mọi thứ đều là máy móc và có thể chỉnh sửa, kiến tạo theo ý muốn, cũng đã có tham vọng xây dựng ra môt bộ não nhân tạo với khả năng hoạt động tương tự như não người. “Sự không rõ ràng, thiếu định hướng không phải là một dấu hiệu của một tư duy cần khai sáng, nó là dấu hiệu của một lỗi cần phải chỉnh sửa. Bộ não con người khi đó là một máy tính với phần cứng lỗi thời, cần phải có một bộ vi xử lý nhanh hơn, ổ cứng lớn hơn và thuật toán định hướng tư duy tốt hơn”.

Chương 9 : Tìm kiếm, ghi nhớ

Ý tưởng cơ bản : Socrates đã từng nói : khi nào con người ghi chép lại suy nghĩ của mình, họ sẽ không cần dùng nhiều đến bộ nhớ của mình nữa. Con người bắt đầu “gợi lại tư duy không phải đến từ bên trong họ, mà từ những nguồn bên ngoài”. Chương 9 nói về tính trí thông minh, ký ức, cảm xúc; vốn là những thứ thuộc về con người, làm nên con người đang ngày càng được đưa ra bên ngoài, lưu trữ trên những tấm silicon vô tri. Liệu điều này có tốt dành cho tư duy, có tạo nên một con người có cuộc sống trọn vẹn và hạnh phúc hay không?

Khả năng ghi nhớ đã từng được coi là một dấu hiệu của tự nhận thức bản thân và sáng tạo nay đã bị nhìn dưới góc độ là rào cản của trí tưởng tượng, hay đơn giản là một sự lãng phí trí năng. Với việc các bộ nhớ ngoài như băng casset, ổ cứng, thẻ nhớ di động ngày càng phát triển, cùng với khả năng tìm kiếm và truy xuất lại thông tin hoàn hảo, chẳng có mấy ai nghĩ đến việc dùng bộ não của mình để ghi nhớ thông tin nữa. “Tôi gần như không dùng đến khả năng ghi nhớ nữa, vì tôi có thể ngay lập tức truy xuất lại thông tin trên mạng. Bằng việc gửi gắm bộ nhớ lên các tấm silicon, chúng ta giải thoát chất xám của chúng ta vào những việc mang tính con người hơn như : khởi tạo ý tưởng hay đơn thuần là mơ mộng”.

“Ghi nhớ với tôi bây giờ chỉ đơn thuần là nhớ địa chỉ web nơi chúng ta có thể tìm thấy thông tin mà chúng ta cần”. Ghi nhớ đã từng là một thứ gì đó thuộc về con người.Giờ nó là một thứ gì đó dành riêng cho máy móc. Tuy vậy, ghi nhớ có nhiều cấp độ, và nếu từ bỏ hoàn toàn chức năng ghi nhớ cho máy móc, phải chăng chúng ta đang dần hình thành nên một con người không có ký ức?

Về mặt não bộ, mỗi khi thông tin ở bộ nhớ ngắn hạn chuyển sang trạng thái bộ nhớ dài hạn, não chúng ta đòi hỏi một quá trình tổng hợp protein để tạo ra kết nối mới giữa các neuron với nhau. Những thông tin được lưu trong bộ nhớ ngắn hạn, đơn thuẩn chỉ là những tín hiệu điện thoáng chạy qua các neuron, nếu không được chuyển vào bộ nhớ dài hanh, nó sẽ biến mất đi mà không để lại dấu vết nào. “Các liên kết giữa các neuron là của chúng ta, sống cùng với chúng ta. Những liên kết trên web, chẳng bao giờ là liên kết của ta, không phải là một phần của con người chúng ta, hoàn toàn không có cảm xúc gì”. Một con người nếu không trau dồi, tích lũy thêm bộ nhớ dài hạn hay nói cách khác là trí thông minh, hay nói cách khác là cảm xúc, động lực liệu có phải điều tốt?

Chương 10 : Thứ gì đó giống tôi

Ý tưởng cơ bản : Con người đang ngày càng lệ thuộc dần vào công cụ, máy móc và không nhìn ra được ảnh hưởng của chúng lên bản thân mình. “Chúng ta biến đổi công cụ, và rồi sau đó chúng biến đổi lại chúng ta”. Quá lệ thuộc vào công cụ, thậm chí là tù nhân của chúng có phải là điều con người mong muốn và đó có là tương lai không thể tránh khỏi hay không?

Con người ngày càng hình thành một mối gắn kết chặt chẽ với các công cụ của mình. Chúng ta vẫn luôn coi các thành tựu công nghệ, các công cụ là phần mở rộng của loài người; nhưng điều ngược lại cũng đúng, chúng ta cũng là phần mở rộng của máy móc. Đồng hồ là một ví dụ. Chúng ta luôn có một chiếc đồng hồ sinh học trong bản thân của mình, nhưng từ khi có đồng cơ cơ học, chúng ta ít để tâm, ít chú ý đến chiếc đồng hồ sinh học của mình mà có xu hướng răm rắp nghe theo chiếc đồng hồ cơ học : giờ này đi ngủ, giờ này đi ăn, giờ này làm việc…

“Con đường dễ dàng không phải bao giờ cũng là con đường tốt, nhưng con đường dễ dàng sẽ luôn là con đường mà công cụ khuyến khích chúng ta đi theo”.