Danh ngôn

Trong mọi cộng đồng, chúng ta cần một nhóm thiên thần gây rối.

We need, in every community, a group of angelic troublemakers.

(Bayard Rustin – trích bài phát biểu tại New York City 1963)

Trong mọi trường hợp, chắc chắn rằng sự thiếu hiểu biết, đi kèm với quyền lực, là kẻ thù tàn bạo nhất có thể có của công lý.

It is certain, in any case, that ignorance, allied with power, is the most ferocious enemy justice can have.

(James Baldwin - No Name in the Street 1972)

Các cuộc cách mạng và các cá nhân có thể bị giết hại, nhưng bạn không thể giết chết các ý tưởng.

While revolutionaries and individuals can be murdered, you cannot kill ideas.

(Thomas Sankara, một tuần trước khi bị ám sát, 1987)

Không có cảm giác nào cô đơn hơn việc bị chính đất nước mình trục xuất.

There's not a more lonely feeling than to be banished by my own country.

(Kiyo Sato – Kiyo’s Story 2009)

Ban Biên tập

Địa chỉ liên lạc:

1. Thơ

tho.vanviet.vd@gmail.com

2. Văn

vanviet.van14@gmail.com

3. Nghiên cứu Phê Bình

vanviet.ncpb@gmail.com

4. Vấn đề hôm nay

vanviet.vdhn1@gmail.com

5. Thư bạn đọc

vanviet.tbd14@gmail.com

6. Tư liệu

vanviet.tulieu@gmail.com

7. Văn học Miền Nam 54-75

vanhocmiennam5475@gmail.com

Tra cứu theo tên tác giả

Thứ Tư, 25 tháng 11, 2015

CÁC “TAI NẠN VĂN CHƯƠNG” (42): “VÀO ĐỜI” (13)

12/7/1963. “Văn nghệ”, s. 11: Hoàng Trung Thông: Tư tưởng sai lầm nguy hại của cuốn truyện “Vào đời”

Cuốn tiểu thuyết “Vào đời” của Hà Minh Tuân với nội dung tư tưởng xấu và có hại của nó đã gây một luồng sóng bất bình chính đáng trong đông đảo bạn đọc. Nhiều bài báo đã phê phán nghiêm khắc cuốn sách đó để ngăn chặn những tác hại do cuốn sách đó gieo rắc ra. Việc tiếp tục phê phán những tư tưởng sai lầm biểu hiện trong “Vào đời”, bảo vệ nguyên tắc tính đảng trong sáng tác văn học vẫn là cần thiết.

Bóp méo sự thực, đặt ngược vấn đề

Nếu câu chuyện một cô gái tiểu tư sản đi vào đời với những cảnh ngộ éo le, tai họa, đầy bi kịch và phải vượt qua những cảnh ngộ đó để trưởng thành là chủ đề của tác phẩm “Vào đời”, thì cuộc sống, – hiện thực xã hội trong đó những nhân vật hoạt động – không phải chỉ là cái cớ phụ thuộc mà chính là cái nền cho chủ đề của tác phẩm đó.

Cách đặt vấn đề trong một tác phẩm xuất phát từ việc tác giả của nó nhìn nhận, phân tích đánh giá hiện thực đời sống như thế nào. Không phải bỗng nhiên mà anh Hà Minh Tuân tìm ra một chủ đề cô Sen đi vào cuộc sống rồi cuộc tình duyên Sen Hiếu và những gì đã chi phối cuộc đời của họ và cuộc sống ở công trường xí nghiệp thủ đô. Không phải bỗng nhiên vấn đề quan liêu và “chống quan liêu” được nổi bật lên như một vấn đề then chốt của cuốn truyện bên cạnh những hoạt động phá hoại của bọn lưu manh, đến mức huy động được quần chúng tập hợp chống lãnh đạo.

Chính là vì tác giả đã có một con mắt nhìn hiện thực quá đặc biệt, hoàn toàn xa lạ với chúng ta. Nhìn vào bức tranh đời sống mà tác giả đã vẽ ra trong cuốn truyện “Vào đời”, một bức tranh xám xịt đầy những màu sắc u ám nặng nề, chúng ta thấy rằng cuốn sách đã phản ánh hiện thực một cách xuyên tạc.

Thời gian trong truyện là những năm 1956-1957 đến 1960, những năm mà xã hội miền Bắc nước ta đang trải qua những biến chuyển cách mạng to lớn và sâu sắc. Chúng ta sau khi hoàn thành cải cách ruộng đất [CCRĐ] đã khôi phục lại nền kinh tế từ trên một nửa đất nước bị chiến tranh tàn phá và bắt đầu một cuộc đấu tranh mới để cải tạo giai cấp tư sản và nền kinh tế tư bản chủ nghĩa, mở rộng phong trào hợp tác hóa nông thôn, thủ tiêu chế độ bóc lột, tạo ra một quan hệ hoàn toàn mới mẻ giữa người với người. Những biến chuyển cách mạng đó đã có những ảnh hưởng lớn lao trong đời sống và tình cảm tư tưởng con người, đã đặt ra nhiều vấn đề mới mẻ mà vấn đề trung tâm nổi bật nhất là vấn đề hai con đường: XHCN hay TBCN. Nhưng, hiện thực cách mạng lớn lao đó không hề được phản ánh trong tác phẩm “Vào đời”, những vấn đề cấp bách đó không hề được đặt ra trong cuộc sống mà tác giả đã miêu tả. Trái lại, cuốn truyện đã dựng lên một khung cảnh đời sống ở công trường và nhà máy cơ khí hết sức rối ren hỗn độn và phức tạp theo trí tưởng tượng và dụng ý xếp đặt của tác giả. Người ta cũng thấy đây đó một vài hình ảnh về lao đọng sản xuất, về lòng thương người… nhưng tất cả những cái đó không hề được lóe sáng lên, mà đã chìm đi trong hàng loạt những hiện tượng tiêu cực đen tối bị dồn đống lại và thổi phồng lên: bọn lưu manh ngang nhiên chửi bới và hành động phá hoại, lôi kéo được cả công nhân vào việc chống đối lãnh đạo, trật tự an ninh không bảo đảm, kỷ luật lao động lỏng lẻo, đời sống công nhân không được cải thiện, các chính sách chế độ không được thực hiện và bao trùm lên tất cả, chi phối tất cả là tệ quan liêu của lãnh đạo đã đè nặng xuống cuộc đời của những nhân vật trong truyện.

Bằng những hình tượng nghệ thuật, và bằng sự phân tích tâm lý và lời nói của nhân vật, tác giả đã quy tất cả đầu mối vào cái mà tác giả gọi là bệnh “quan liêu”. Chính Hán, người giám đốc mới của nhà máy, người mà tác giả coi như một “cán bộ mẫu mực” cũng đã tuyên bố: “phải đánh thọc sâu vào những lô-cốt chính của kẻ thù trước mắt: bệnh quan liêu”.

Nhưng hiện thực khách quan của cách mạng vào những năm 1956-1960, và ngay cả hiện thực đã bị miêu tả xuyên tạc trong cuốn sách cũng đã bác bỏ lập luận nguy hiểm đó của tác giả rồi. Chúng ta ai nấy đều biết những sự việc trong cuốn sách đều xảy ra trong thời kỳ mà giai cấp tư sản lợi dụng một số khuyết điểm của ta đã tấn công ta trên các mặt chính trị, kinh tế và văn hóa. Chủ trương của Đảng ta lúc bấy giờ đâu phải là chĩa mũi nhọn vào bệnh quan liêu coi như “kẻ thù trước mắt”. Chỉ có giai cấp tư sản phản động mới chủ trương như vậy. Đảng ta chủ trương phải tập trung đấu tranh mạnh mẽ cải tạo giai cấp tư sản đồng thời khắc phục những khuyết điểm trong công tác của mình. Tác giả “Vào đời” đã không hề nói gì đến cuộc đấu tranh giai cấp quyết liệt đó. Tác giả đã cố vẽ bọn Mai, Song như những tên lưu manh khiêu khích và Hiếu như một tên bất mãn cá nhân, nhưng qua những quan điểm mà chúng phát ra, thái độ hằn học với chế độ và hành động phá hoại mà chúng tỏ rõ, cũng như qua chủ nghĩa cá nhân hưởng lạc cực độ đến tàn nhẫn của chúng, người đọc không thể không thấy ngay bản chất giai cấp đối địch của những tên này. Thế thì tại sao anh Hà Minh Tuân lại đặt ngược vấn đề như vậy? Tại sao anh lại không thấy việc chĩa mũi nhọn vào bọn phản động đại diện cho tư tưởng tư sản phản động là phản ánh chân thực cuộc sống lúc bấy giờ? Tại sao anh lại thêu dệt ra một cuộc “chống quan liêu” trong lãnh đạo, một cuộc chống quan liêu hoàn toàn do bọn phản động dựa vào “bất mãn” của công nhân gây ra, lại được chi bộ và phái viên Trung ương (?) đồng ý, mà chỉ khác bọn chúng về “phương thức đấu tranh”?

Nếu chúng ta còn nhớ luận điệu xảo quyệt của giai cấp tư sản phản động vào những năm 1956-1957 thì rõ ràng đề ra chống bệnh quan liêu “kẻ thù trước mắt” trong quyển “Vào đời” là hoàn toàn trái ngược với chủ trương và quan điểm của Đảng ta lúc bấy giờ, mà là chứng minh cho những luận điệu thù địch đã bị bác bỏ và lên án. Chúng ta có thể nêu vấn đề phê phán bệnh quan liêu vào những năm đó trong tác phẩm văn học được không? Được, nhưng tác giả phải giới hạn việc phê phán bệnh quan liêu trong phạm vi cuộc đấu tranh giai cấp gay go quyết liệt lúc ấy, và nhất là không thể tùy tiện để việc “chống quan liêu” lên hàng đầu và lờ đi không nói gì đến cuộc đấu tranh giai cấp cả.

Chỗ đứng sai lầm của tác giả

Việc bóp méo hiện thực, đặt ngược vấn đề, “sáng tạo” ra một chủ đề sai lạc như vậy có liên quan đến chỗ đứng của tác giả.

Tiểu thuyết “Vào đời” đã đề cập đến nhiều mặt, đến nhiều vấn đề nóng hổi của đời sống. Từ CCRĐ, quản lý xí nghiệp, cải thiện đời sống, chế độ phục viên, mậu dịch, công an, tuyên truyền báo chí, cho đến hội nghị phê bình, đám cưới đời sống mới…, ở đâu tác giả cũng đã nhìn hiện thực với một con mắt rối loạn, lung tung, thậm chí không phải là không có lúc để lộ ác cảm của mình. Trong vấn đề gì tiếng đả kích cũng nổi lên, tiếng đáp lại cũng chỉ yếu ớt và có nhiều khi không có tiếng gì đáp lại.

Điều làm cho người đọc chú ý nhất là vấn đề CCRĐ đã được tô khá đậm nét với những hình tượng và tiếng chửi rủa độc địa của Hiếu mà tác giả đã miêu tả một cách chi tiết và cụ thể trong quá trình diễn biến tư tưởng của nhân vật này. Mặc dù tác giả cũng có rào đón, cũng có giải thích và đôi lúc cũng có phê phán nhưng tất cả những hình tượng sắc nhọn được tác giả nhắc đi nhắc lại nhiều lần, những suy nghĩ, những đau đớn, dằn vặt, uất ức, căm phẫn của Hiếu được tác giả phân tích và cảm thông đã làm cho người đọc có một cảm giác hết sức nặng nề về tình hình tiến hành CCRĐ. Người đọc không còn phân biệt được đúng và sai, thắng lợi và khuyết điểm. Cái còn lại ở người đọc là những giọng điệu hằn học, những suy nghĩ cực kỳ phản động của nhân vật Hiếu về CCRĐ. Những hình tượng ghê rợn được gợi lên nhiều lần như một ám ảnh. Sai lầm của CCRĐ ở đây đã bị tác giả quy kết thành thành nguyên nhân của sự biến chất sa ngã của Hiếu, có một ảnh hưởng đau đớn đến cuộc đời của Sen.

Một loạt cán bộ quản lý xí nghiệp trong “Vào đời” đã bị tác giả bôi nhọ thành ra một bọn quan liêu tồi tệ với những nét bút biếm họa hằn học mà phần lớn là nhìn qua con mắt của Hiếu. Sau đây là vài ví dụ:

“Trong giây lát, Bân, phó giám đốc, trước mắt Hiếu bỗng thành một ông quan đội khăn xếp mặc áo gấm dài đeo bài ngà, quần ống sớ…

… Đến cổng công trường, anh (Hiếu) vào phòng thường trực đưa giấy giới thiệu. Nhân viên thường trực mặt lưỡi cày xanh rớt nhận giấy vừa nheo mắt lẩm nhẩm đọc thì chuông điện thoại réo gọi…

Người đeo kính đen nghiêm mặt ra hiệu cho Hiếu ngồi chờ ở ghế dài bên tường rồi lại cắm cúi tiếp đọc giấy tờ. Trán anh ta bị tóc xòa che mất quá nửa dưới cặp kính đen là một nửa khuôn mặt trắng bệch như nến, nghiêm quá thành đuồn đuỗn như mặt hình nhân. Cái miệng anh ta mím lại, chằng thốt một lời, sao có vẻ kiêu kỳ hách dịch! Hiếu ngửa tay muốn vả vào cái miệng ấy một cái cho nó bớt làm bộ đi…”

Tác giả đã vẽ nên những hình ảnh xấu xí bề ngoài của một số cán bộ “quan liêu”, còn thực chất bệnh quan liêu là gì, tác giả cũng không hiểu nổi. Hà Minh Tuân chỉ nêu lên được một cách giản đơn về bệnh giấy tờ, thói hách dịch và và một vài hành động sai lầm đuổi thợ, về lỗi ăn cắp của công nhân và đi muộn về sớm, nhưng anh lại hết sức cường điệu bệnh quan liêu, trút hết sự căm tức của mình vào bệnh quan liêu hách dịch qua mắt nhìn và miệng nói của một số phần tử xấu. Anh đã chụp bệnh quan liêu lên đầu tất cả những cán bộ phụ trách của nhà máy, coi họ như thù địch, tô vẽ ra sự “bất mãn” của công nhân và đẩy công nhân vào một cuộc đấu tranh giả tạo. Sau cuộc đấu tranh “chống quan liêu” đó rồi, thì cả xí nghiệp ửng lên một màu hồng, mọi sự việc đều tốt đẹp cả lên.

Trong hàng loạt những vấn đề khác, có khi Hà Minh Tuân đã lấy lời những người “tích cực” mà chỉ trích chua cay về mậu dịch, về công an, về tuyên truyền báo chí, về sự chăm lo đời sống cho công nhân, có khi tác giả động đến các vấn đề đó qua giọng lưỡi của những phần tử xấu. Có khi đó là những lời phàn nàn bực dọc, có khi đó là những tiếng đả kích chua chát. Tác giả đã đưa vào tác phẩm của mình hàng loạt sự việc, không phân biệt được hiện tượng và bản chất, khó khăn và khuyết điểm, tốt và xấu.

Vậy thì trong khi vẽ ra một bức tranh đời sống, nhìn nhận địch ta, đánh giá thành quả và sai lầm, chỗ đứng của tác giả “Vào dời” là ở đâu?

Rõ ràng chúng ta thấy lập trường tư tưởng được thể hiện trong tác phẩm “Vào đời” không phải là lập trường tư tưởng của Đảng và của nhân dân ta. Đôi lúc Hà Minh Tuân cũng cố gắng phần nào để giữ lập trường, để thuyết lý, để giải thích vấn đề, nhưng nhìn chung trong nhiều trường hợp anh đã bỏ mất chỗ đứng của mình mà rơi vào lập trường tư tưởng của giai cấp đối địch.

Nhân sinh quan tư sản đã dẫn tác giả “Vào đời” đi đến đâu?

Trong tiểu thuyết “Vào đời” Hà Minh Tuân đã tập trung vào việc miêu tả số phận của hai nhân vật Sen và Hiếu. Cả hai người tuy không cùng một nguồn gốc, cùng một tâm trạng nhưng bọn họ đều đi vào đời và cùng bị những hoàn cảnh éo le phức tạp chi phối. Việc chọn họ làm nhân vật trung tâm trong một giai đoạn lịch sử đó vốn không phải là ngẫu nhiên chút nào.

Tác giả muốn mượn tất cả những éo le, phức tạp, tai họa của đời sống để nói lên sự trưởng thành hay là sự sa đọa của hai nhân vật đó. Cũng có thể nói tác giả mượn hai nhân vật khá tiêu biểu đó để biểu hiện cuộc đời theo cách nhìn riêng của mình. Tôi không muốn nói đến những cái giả tạo, vụng về, kém cỏi trong việc xây dựng nhân vật, trong việc miêu tả quá trình chuyển biến về tư tưởng, tình cảm và tâm lý của hai nhân vật này. Tôi chỉ muốn nói đến quan điểm của tác giả trong việc xây dựng và đánh giá hai nhân vật Sen và Hiếu.

Nhiều người đã nói đến việc tác giả tạo ra những bước ngoặt tai ác trong cuộc đời của Sen và đem bao nhiêu tai họa trong đời sống úp chụp xuống đầu cô bé non yếu này. Tác dụng của việc làm đó là sẽ gây nên những sự lo ngại hoang mang cho từng lớp thanh niên sắp sửa vào đời đi xây dựng đất nước. Tôi muốn nói về một khía cạnh khác. Tác giả từ quan điểm nào mà nhìn nhận vấn đề đưa từng lớp thanh niên tiểu tư sản vào con đường lao động? Từ quan điểm giáo dục tinh thần yêu nước, yếu chế độ, yêu lao động, phát huy tính tích cực hăng hái sẵn có của họ, và giúp họ khắc phục sửa chữa những tư tưởng, tình cảm, tác phong tiểu tư sản để họ qua lao động mà trở thành người công nhân thực sự như quan điểm của Đảng ta? Hay là tạo ra những cảnh ngộ éo le, những lao động khổ cực, những tai họa bất ngờ trong bước ngoặt cuộc đời của họ để bi đát hóa những tâm trạng, để vuốt ve những tình cảm yếu đuối của họ? Phải chăng cứ bi đát hóa cực độ tất cả những cảnh ngộ trong đời họ như trong trường hợp “Vào đời” là biểu hiện của lòng thương người hay chính đó là biểu hiện của sự tàn nhẫn tư sản? Chúng ta thật rùng mình và ghê tởm khi thấy những giày vò độc ác, những đối xử vô nhân đạo của tên Hiếu đối với Sen, thế mà tác giả vẫn để cho Sen chịu đựng một cách thụ động (mặc dù Sen đã được là chiến sĩ thi đua) và cuối cùng Sen vẫn còn có cảm tình với hắn. Phải chăng như thế mới là “người”?

Ở nhân vật Hiếu, tác giả “Vào đời” còn bộc lộ những quan điểm sai lầm nghiêm trọng hơn.

Trong khi trao đổi ý kiến với một số bạn viết văn, anh Hà Minh Tuân đã nói ý định xây dựng nhân vật Hiếu của mình. Đại ý anh muốn tạo ra một nhân vật vốn cũng là tốt nhưng vì bất mãn cá nhân rồi cứ bất mãn này chồng lên bất mãn khác cuối cùng sa ngã và bị phần tử xấu lôi kéo. Trong nhân vật Hiếu anh vừa muốn nêu lên trách nhiệm tự thân hắn ta, vừa muốn nói đến trách nhiệm của xã hội. Anh vừa phê phán lại vừa thương hại hắn… Thật ra tạo cho nhân vật có một số phận, có một đời sống bên trong, hay có một tấn bi kịch gay go về tư tưởng không phải hoàn toàn là sai lầm. Nhưng vấn đề chính là phải từ lập trường quan điểm nào mà nhìn nhân vật, mà đánh giá tư tưởng của nó, mà tạo nên số phận? Cái khuynh hướng chỉ muốn tạo nên những “số phận”, “bi kịch” mà không phân tích cơ sở giai cấp, bản chất giai cấp của nhân vật là một khuuynh hướng rất sai lầm nguy hiểm.

Qua tác phẩm “Vào đời”, Hiếu là hạng người gì? Phải chăng hắn là một thứ cá nhân bất mãn? Không! Chính hắn là đại diện thực sự cho những tư tưởng phản động nhất của giai cấp thù địch. Những suy nghĩ, những ngôn luận của hắn về CCRĐ, về cán bộ lãnh đạo, về các mặt đời sống là xuất phát từ những quan điểm hết sức phản động. Đối với cuộc sống hắn tỏ rõ một thái độ thù hằn giai cấp. Hắn ném đá vào ống loa, căm ghét cả những người đọc sách Mác-Lê-nin, thấy cán bộ lãnh đạo là muốn vả vào mặt (mà thực sự là hắn đã làm), hắn đã phá hoại máy móc, đã ký vào kiến nghị, đã thúc đẩy biểu tình, đã viết khẩu hiệu chống đối… Quan niệm và thái độ của hắn đối với phụ nữ hết sức tàn nhẫn và thô bỉ. Ở trong con người của hắn phải chăng là một tấn “bi kịch” của một người vừa tốt lại vừa xấu, vừa yêu chế độ lại vừa bất mãn, vừa muốn tiến bộ lại vừa muốn trụy lạc. Tấn “bi kịch” mà Hà Minh Tuân dựng lên cho hắn rõ ràng chỉ là một sự vật lộn điên cuồng của một chí căm thù giai cấp ghê gớm, một sự chống đối không khoan nhượng, một sự xuống dốc tuồn tuột không hề có một chút đấu tranh tư tưởng bên trong nào. Cho nên ở hắn, việc bọn lưu manh lôi kéo chỉ là một yếu tố rất phụ. Sự căm thù đối với CCRĐ, đối với lãnh đạo mới là phần bản chất nhất của hắn. Hiếu là một nhân vật rất giả mà lại rất thật. Rất giả là vì sự thoái hóa của một quân nhân chuyển ngành ở đây khá kỳ quặc; mà thật là ở chỗ tác giả đã thể hiện lên rất đầy đủ bản chất hết sức phản động của một phần tử đối địch.

Hà Minh Tuân đã tạo ra một nhân vật phản động trắng trợn như vậy mà lại muốn phân tích những bi kịch, mổ sẻ những dằn vặt đau đớn căm hờn của hắn, muốn cảm thông, thương sót với số phận của hắn, muốn đổ trách nhiệm cho xã hội và nhất là lại dùng lời của hắn mà vạch ra một cách xuyên tạc những sai lầm của CCRĐ, của chế độ thì thật là khó hiểu.

Chủ nghĩa “nhân đạo” tư sản với quan niệm con người trừu tượng không đủ giúp tác giả cắt nghĩa những tâm lý, tư tưởng con người trong đời sống đang diễn ra một cuộc đấu tranh giai cấp quyết liệt mà chỉ dắt dẫn tác giả đi vào con đường sai lầm, đảo ngược phải trái, lẫn lộn trắng đen, mất cả ranh giới địch ta hết sức nguy hiểm.

Trong khi tác giả tập trung biểu hiện những “bi kịch” trong hai nhân vật Sen và Hiếu, thì những nhân vật được gọi là “tích cực” nhất chỉ là những cái xác không hồn, chỉ là những hình nhân để cho tác giả mượn lời mà giải thích điều này điều nọ có khi rất bậy bạ. Những con người này không có một cuộc sống riêng, không có một thế giới tâm hồn riêng, không có lý tưởng, chỉ xuất hiện như những bóng người đi qua trong cuộc đời Sen và Hiếu. Người đọc rất lấy làm lạ là tại sao tác giả đã tập trung phần lớn giấy mực vào việc biểu hiện những đau khổ dằn vặt chán chường, uất ức bẩn thỉu và tàn nhẫn của “con người”, vào việc tô đậm những triết lý hưởng lạc, những tâm trạng đòi hưởng thụ kỳ quặc đánh vào những thị hiếu tầm thường nhất, còn những cái tốt đẹp mới mẻ trong tâm hồn con người, những phẩm chất cách mạng của người công nhân thì lại hết sức mờ nhạt hầu như không thấy? Từ lâu trong các truyện “Trong lòng Hà Nội” và “Hai trận tuyến” của Hà Minh Tuân chúng ta cũng đã bắt gặp những kiểu người là lạ với đủ các thứ triết lý hưởng lạc, với các kiểu yêu đương mã thượng và khêu gợi nhục dục. Nhưng ở cuốn “Vào đời” những triết lý hưởng lạc, những thái độ đối với “người đàn bà” được phơi bày ra một cách trắng trợn nhất.

Cuốn sách này đã toát ra một nhân sinh quan cá nhân bất mãn và đòi hưởng thụ nồng nặc. Cố nhiên đó không phải là nhân sinh quan cách mạng, cũng không phải chỉ là nhân sinh quan tiểu tư sản. “Vào đời” sặc lên những mùi vị uất ức bất mãn, đòi hưởng thụ đến tàn nhẫn của giai cấp ăn bám.

Cần phê phán nghiêm khắc cuốn “Vào đời”, giữ vững nguyên tắc tính đảng trong sáng tác

Trong cuộc đấu tranh xây dựng CNXH ở miền Bắc nước ta hiện nay, không phải đã hết những luồng tư tưởng xấu của giai cấp đối địch nhìn mọi thắng lợi của cách mạng một cách đen tối, coi mọi thay đổi cách mạng như một tai họa, lấy sự hưởng thụ cá nhân làm cơ sở để đánh giá cuộc sống, để trốn tránh mọi khó khăn gian khổ của cách mạng, thậm chí tìm mọi cách để đả kích vào những gì không phù hợp với ý muốn riêng của nó. Cuốn truyện “Vào đời” đã biểu hiện khá nhiều mặt và tập trung những ảnh hưởng nghiêm trọng của luồng tư tưởng độc hại này. Người đọc dễ dàng nhận thấy những biểu hiện đó trong việc day đi day lại một cách hằn học những sai lầm của CCRĐ, trong việc tập trung chống chủ nghĩa quan liêu coi như “kẻ thù trước mắt”, trong việc chỉ trích một cách cay độc mọi mặt đời sống, nhất là những vấn đề thuộc về “hạnh phúc cá nhân”, trong việc đả kích vào mọi cơ quan và tổ chức.

Chống lại luồng tư tưởng xấu biểu hiện trong cuốn truyện “Vào đời” là một nhiệm vụ cần thiết. Không những việc làm đó có tác dụng ngăn chặn những nọc độc tai hại trong người đọc mà còn giữ vững những nguyên tắc tính đảng trong sáng tác văn học của chúng ta.

Trong bức thư của BCH TƯ Đảng gửi ĐH văn nghệ toàn quốc lần thứ 3 có đoạn viết: “Chúng ta mong mỏi có thêm nhiều tác phẩm văn nghệ miêu tả một cách chân thật và hùng hồn công cuộc lao động và đấu tranh vĩ đại của nhân dân, cuộc sống muôn màu muôn vẻ của xã hội ta ngày nay, mạnh dạn nêu lên và trả lời đúng những vấn đề lớn của cách mạng, của đời sống. Nhân dân ta yêu cầu văn nghệ không chỉ biểu dương những ưu điểm và thắng lợi mà còn phải thẳng thắn phê bình những khuyết điểm và nhược điểm trên bước đường trưởng thành của cách mạng với một tinh thần xây dựng và một thái độ chân thành”.

Đó là phương hướng sáng tác của chúng ta. Phương hướng đó không hề bó tay chúng ta trong việc miêu tả nhiều mặt của đời sống, trả lời những vấn đề lớn của đời sống, không hề hạn chế việc thể hiện những mặt tiêu cực của đời sống. Nhưng trách nhiệm của nhà văn chúng ta là phải biết tìm ra những cái mới, cái tốt, cái lớn lao của những đổi thay trong đời sống trong tư tưởng và tâm hồn con người mà thể hiện, phân tích, sáng tạo. Và trong khi viết về những mặt tiêu cực, mặt xấu còn tồn tại trong đời sống con người, chúng ta phải đứng trên lập trường cách mạng kiên định của Đảng, chứ không phải đứng trên lập trường bấp bênh dao động của giai cấp tiểu tư sản thậm chí đứng trên lập trường đối địch của giai cấp bóc lột.

Sai lầm nghiên trọng nhất của “Vào đời” vẫn là ở chỗ đứng và cách nhìn của tác giả. Chủ nghĩa sơ lược và chủ nghĩa tự nhiên cũng có ảnh hưởng phần nào đến sai lầm của cuốn truyện. Nhưng căn bản không phải là ở đó. Rõ ràng cách làm việc bôi bác vô trách nhiệm không điều tra nghiên cứu tìm hiểu đầy đủ con người và cuộc sống, sự lao động nghệ thuật cẩu thả, vội vàng, việc kéo dài cuốn truyện ra hàng mấy trăm trang một cách không cần thiết là nguyên nhân đẻ ra một tác phẩm sơ lược kém cỏi giả tạo như thế. Nhưng sai lầm về chính trị về tư tưởng lại cần phải tìm thấy ở thế giới quan và nhân sinh quan của tác giả.

Phê phán nghiêm khắc cuốn “Vào đời” chính là để rút ra bài học về lập trường tư tưởng, về tính đảng của nhà văn, về trách nhiệm cách mạng của người cầm bút. Cách mạng XHCN ở miền Bắc nước ta đang phát triển mạnh, đang phá tung đi một quan hệ xã hội cũ, một quan hệ đã có dấu ấn sâu sắc hàng nghìn năm trong tư tưởng con người, để xây dựng nên một quan hệ xã hội hoàn toàn mới mẻ, tạo ra những tư tưởng tình cảm hoàn toàn mới mẻ. Phải đứng ở đâu để mà nhìn những sự đổi thay kỳ lạ đó, để phân biệt cái mới và cái cũ, cái tốt và cái xấu, cái đi lên và cái tàn tạ, cái cách mạng và cái lạc hậu, phản động? Đó chính còn là vấn đề rèn luyện lâu dài của nhà văn. Đừng chủ quan với những thu hoạch về tư tưởng và tình cảm trong quá trình tham gia cách mạng của mình.

Những sai lầm nguy hại về tư tưởng của cuốn “Vào đời” là một bài học thấm thía chung của chúng ta.

HOÀNG TRUNG THÔNG

Nguồn:

Văn nghệ, Hà Nội, s. 11 (12.7.1963), tr.4-5, 19.

12/7/1963: “Văn nghệ”, s. 11: xã luận: Nâng cao hơn nữa tính đảng trong văn nghệ:

Một điểm quan trọng và nổi bật trong Đại hội văn nghệ toàn quốc lần thứ III là cần phải nâng cao tính đảng trong văn nghệ.

Thư của Ban chấp hành trung ương Đảng gửi Đại hội Văn nghệ toàn quốc, sau khi nêu những thành tích to lớn của văn nghệ, đã có nhận xét rất đúng là “nhiều tác phẩm chưa có tính đảng rõ rệt”, và “còn những hiện tượng phê bình và tiếp thụ phê bình chưa phù hợp với nguyên tắc tính đảng và tinh thần đồng chí.”

Đảng kêu gọi chúng ta phải “không ngừng nâng cao tính đảng trong hoạt động văn học nghệ thuật”, “văn nghệ phải là vũ khí sắc bén giúp cho chế độ ta, nhân dân ta đánh bại những tư tưởng thù địch, đẩy lùi những tư tưởng ích kỷ, lười biếng ươn hèn, những thói tục xấu xa, giúp cho cái mới luôn luôn nẩy nở và con người mới phát triển không ngừng”.

Nền văn nghệ của chúng ta hiện nay nói chung đang phát triển theo phương hướng đó và có nhiều tác phẩm tốt. Tuy vậy, chúng ta cũng đã thấy xuất hiện đó đây một vài tác phẩm tính đảng không rõ rệt, thậm chí có tác phẩm đã đi ngược lại nguyên tắc tính đảng. Đó là trường hợp cuốn tiểu thuyết “Vào đời” của Hà Minh Tuân, một cuốn tiểu thuyết đã bộc lộ những tư tưởng xấu, những quan điểm sai trái hiện đang bị dư luận nghiêm khắc phê phán.

Việc phê phán tác phẩm “Vào đời” chứng tỏ chúng ta đang nắm vững nguyên tắc tính đảng, đẩy lùi những tư tưởng sai lầm, xác định lại đường lối và quan điểm văn nghệ của Đảng.

Việc phê phán tác phẩm “Vào đời” càng giúp cho người làm công tác văn nghệ chúng ta đứng vững chắc trên vị trí tư tưởng cánh mạng của mình mà sáng tạo và phấn đấu.

Kinh nghiệm của phong trào văn nghệ chúng ta đã chứng minh rằng cứ sau mỗi lần phê phán những tác phẩm có tư tưởng xấu hoặc lệch lạc, các văn nghệ sĩ chúng ta lại nâng cao hơn nhận thức của mình, lại nhìn rõ hiện thực, phân biệt rõ đúng sai, phải trái hơn. Và không phải nền văn nghệ của ta sẽ nghèo nàn đi mà hàng loạt tác phẩm tốt lại xuất hiện.

Hiện nay, rất đông anh chị em viết văn đang phấn khởi đi vào cuộc sống và hăng hái sáng tác. Rất nhiều tác phẩm được đăng báo hay in thành sách đã chứng tỏ các nhà văn chúng ta quan tâm đến những cái mới tốt đẹp trong đời sống và trong tâm hồn con người như thế nào.

Trong tình hình hiện nay, giúp đỡ các văn nghệ sĩ đi vào đời sống là cần thiết, nhưng đồng thời chúng ta còn phải giúp đỡ các văn nghệ sĩ học tập chủ nghĩa Mác-Lênin, học tập đường lối chính sách của Đảng để cho các tác phẩm viết ra càng có tính đảng sâu sắc hơn nữa.

VĂN NGHỆ

● Nguồn:

Văn nghệ, Hà Nội, s. 11 (12.7.1963), tr. 1.

13/7/1963. Báo “Nhân dân”: Ý kiến bạn đọc: Trần Hạnh (bộ đội): “Vào đời” xuyên tạc sự thật của chế độ ta

“Vào đời”, một cuốn sách dày hơn 300 trang tràn ngập những cảnh tượng lộn xộn, tiêu cực, khổ nhục, khủng khiếp. “Vào đời” không những không có lòng chân thành, trân trọng với những thắng lợi vĩ đại của cách mạng, trái lại còn đả kích từng bước thắng lợi của cách mạng. “Vào đời” không những không ca ngợi tính chất ưu việt của chế độ ta, trái lại đã bóp méo sự thật, bôi đen chế độ xã hội ta. Do đó tác dụng khách quan của “Vào đời” là không góp phần bảo vệ chế độ xã hội ta, trái lại còn kích thích những yếu tố lạc hậu còn rơi rớt lại trong xã hội, gây thù hằn đối với chế độ xã hội.

Một trong những điểm cần phải chú ý là trong tác phẩm này tác giả đã luôn luôn gào thét chống chủ nghĩa quan liêu. Chúng ta biết rằng, chính đảng của giai cấp công nhân sau khi giành được chính quyền thì sự lãnh đạo của Đảng khi ấy chủ yếu là thông qua chính quyền bằng đường lối, chính sách, thông qua những cán bộ của Đảng phụ trách từng bộ phận. Trong tác phẩm này, tác giả đã biến các cán bộ phụ trách ở công trường, xí nghiệp từ người lãnh đạo chính trị đến cán bộ chuyên môn, quản lý thành một bọn quan liêu, và kêu gọi chống bọn quan liêu đó như chống bọn chủ tư bản, như một tập đoàn mà lợi ích căn bản đối lập với nhân dân lao động như “một kẻ thù số 1”.

Đi xa hơn nữa, tác giả đã tập hợp một lực lượng không kể địch hay là ta đều chống quan liêu cả, từ phái viên trung ương, thành ủy, bí thư chi bộ, bí thư chi đoàn, công nhân tích cực, cho đến bọn lưu manh.

Trong khi đó, đối với bọn lưu manh, bọn phá hoại thì tác giả đã để cho chi bộ và chi đoàn thanh niên trong truyện không những đã khoanh tay làm ngơ trước những hành động chống đối lãnh đạo của chúng, mà lại còn đồng tình và còn cho rằng chúng dù có “lệch lạc” cũng vẫn chỉ là ở trong nội bộ nhân dân, nội bộ giai cấp, nên thương yêu giai cấp, v.v.

Ngụy trang sau chiêu bài chống chủ nghĩa quan liêu, để đả kích không thương xót những cơ quan lãnh đạo, dùng danh nghĩa nội bộ giai cấp để bao che cho kẻ thù, thử hỏi đó là lập trường giai cấp nào?

“Vào đời” ra đời năm 1963 mà vai trò lãnh đạo của Đảng luôn luôn bị hạ thấp, ngọn cờ tư tưởng của Đảng không được giương cao: chân lý không đủ soi rọi cho tối tăm, phi nghĩa lấn át chính nghĩa, cái tiêu cực lấn át cái tích cực. Trong cuốn truyện từ đầu đến cuối, ta thấy nhan nhản những quan điểm tư tưởng của giai cấp tư sản, địa chủ, của bọn lưu manh côn đồ, bọn bất mãn với chế độ không bị phê phán, trái lại có chỗ tác giả lại tỏ ý đồng tình.

Cần phải vạch rõ đặc điểm và tính chất của sự xuyên tạc sự thật trong “Vào đời” là: ngụy trang là cách mạng để công kích cách mạng. Cái nguy hại của nó là ở chỗ này. Ta thấy rải rác trong truyện cũng có những lời lẽ đề cao sự lãnh đạo của Đảng, nhưng thực chất là công kích sự lãnh đạo của Đảng dưới hình thức “chống quan liêu”. Cũng có chỗ tác giả ca ngợi giai cấp công nhân, nhưng toàn bộ cuốn sách đã bôi nhọ giai cấp công nhân, vì đã miêu tả giai cấp công nhân như một lớp người lộn xộn, vô tổ chức, vô kỷ luật.

Từ đầu đến cuối, tác giả đã bố trí hai tuyến tốt xấu chặt chẽ, nhưng không phải nhằm đề cao mặt tốt, phê phán mặt xấu, trái lại, nhằm giương cao mặt tiêu cực, đả kích mặt tích cực cho có hiệu quả hơn.

Ngoài ra, tác giả toàn mượn lời của chính những nhân vật tích cực để công kích chế độ ta, để cho nhân vật tích cực hễ phát lên những lời lẽ có vẻ là đúng đắn, thì lại thô lỗ sống sượng, như Trần Lưu, hoặc phát ra không đúng chỗ như bí thư chi bộ giáo dục quần chúng bằng cách lên lớp chính trị cho hai họ trong đám cưới Sen một cách dài dòng và lạc lõng mà quần chúng không hưởng ứng, hoặc giả tác giả dùng hình tượng em bé bán lạc rang khổ sở giữa thủ đô năm 1960 gây cho người đọc cảm giác bùi ngùi thương sót, giống như đối với những em nhỏ dưới thời thuộc địa trước đây. Những cách như vậy trong “Vào đời” có rất nhiều và rất nguy hiểm.

Từ bản thân cuốn sách rất có hại ấy, tôi cho rằng không phải “Vào đời” thuộc loại chỉ có những thiếu sót nhất định bên cạnh ưu điểm là căn bản, không phải vào loại trong cuốn sách ấy có đoạn này đoạn khác hỏng, còn nhìn toàn bộ thì được, thậm chí cũng không phải là xuất phát từ thiện ý nhưng do trình độ có hạn mà phạm phải sai lầm. Không phải như vậy. Hoàn toàn không phải như vậy. Toàn bộ cuốn sách đã nói lên sự bất mãn, phát lên được tất cả những bực bội đối với lãnh đạo, chế độ, cách mạng.

Vì sao giữa năm 1963 này Hà Minh Tuân lại có thể cho ra đời một cuốn sách mang nhiều độc tố như vậy?

Có người cho rằng vấn đề chủ yếu là sự tích lũy vốn sống còn ít. Cần phải vạch ra rằng: ở đây không phải là vấn đề tích lũy vốn sống, vì nếu xuất phát từ thiện ý mà thiếu vốn sống thì chỉ đưa đến những trang sách công thức khô khan nhạt nhẽo, chứ chắc chắn không đưa đến một cuốn sách đầy hằn học như “Vào đời”. Có người lại cho rằng chủ yếu là do tư tưởng tiểu tư sản, do phương pháp tư tưởng lệch lạc chi phối. Tôi cho rằng tư tưởng của “Vào đời” còn đi xa hơn nữa. Nếu tư tưởng tiểu tư sản và phương pháp tư tưởng lệch lạc chi phối thì chỉ có thể dẫn đến những lệch lạc chứ quyết không thể đến mức táo bạo và trắng trợn công kích kịch liệt từng bước thắng lợi của cách mạng như “Vào đời”.

Tôi cho rằng cái chi phối quyết định những tư tưởng xấu của “Vào đời”, chủ yếu là sự bất mãn và hằn học của những tư tưởng thù địch với nhân dân, Đảng, cách mạng, chế độ, những tư tưởng đối lập với CCRĐ, cải tạo XHCN, chuyên chính vô sản.

Tại sao một cuốn sách xấu xa, thù địch và có hại nghiêm trọng như vậy lại có thể lọt lưới, ra mắt bạn đọc, gây nên những tác dụng tiêu cực? Phải chăng đó là tư tưởng hữu khuynh tiêu cực, một thái độ vô trách nhiệm, tác phong không nghiêm túc của Nhà xuất bản Văn học?

Tôi nghĩ rằng Nhà xuất bản Văn học cùng với các cơ quan xuất bản khác của Đảng và nhân dân đều nằm trong hệ thống chuyên chính vô sản, đều là vũ khí của giai cấp công nhân, của quần chúng nhân dân trên mặt trận tư tưởng, do đó những đồng chí đã được Đảng và nhân dân tín nhiệm trao cho nhiệm vụ lãnh đạo Nhà xuất bản Văn học cần phải có tinh thần phụ trách cao.

“Vào đời” lại là một dẫn chứng mới cho tính chất gay go, gian khổ, phức tạp và lâu dài trong cuộc đấu tranh giai cấp trên mặt trận tư tưởng, trên mặt trận văn học nghệ thuật trong thời kỳ quá độ tiến lên CNXH. Mỗi người chúng ta đều có trách nhiệm phải kiên quyết đấu tranh đập tan mọi khuynh hướng tư tưởng sai lầm bằng cách không ngừng giương cao ngọn cờ tư tưởng của Đảng.

TRẦN HẠNH

(bội đội, hòm thư 1230, Hà Nội)

Nguồn:

Nhân dân, s. 3394 (13.7.1963), tr. 5.