Danh ngôn

Trong mọi cộng đồng, chúng ta cần một nhóm thiên thần gây rối.

We need, in every community, a group of angelic troublemakers.

(Bayard Rustin – trích bài phát biểu tại New York City 1963)

Trong mọi trường hợp, chắc chắn rằng sự thiếu hiểu biết, đi kèm với quyền lực, là kẻ thù tàn bạo nhất có thể có của công lý.

It is certain, in any case, that ignorance, allied with power, is the most ferocious enemy justice can have.

(James Baldwin - No Name in the Street 1972)

Các cuộc cách mạng và các cá nhân có thể bị giết hại, nhưng bạn không thể giết chết các ý tưởng.

While revolutionaries and individuals can be murdered, you cannot kill ideas.

(Thomas Sankara, một tuần trước khi bị ám sát, 1987)

Không có cảm giác nào cô đơn hơn việc bị chính đất nước mình trục xuất.

There's not a more lonely feeling than to be banished by my own country.

(Kiyo Sato – Kiyo’s Story 2009)

Ban Biên tập

Địa chỉ liên lạc:

1. Thơ

tho.vanviet.vd@gmail.com

2. Văn

vanviet.van14@gmail.com

3. Nghiên cứu Phê Bình

vanviet.ncpb@gmail.com

4. Vấn đề hôm nay

vanviet.vdhn1@gmail.com

5. Thư bạn đọc

vanviet.tbd14@gmail.com

6. Tư liệu

vanviet.tulieu@gmail.com

7. Văn học Miền Nam 54-75

vanhocmiennam5475@gmail.com

Tra cứu theo tên tác giả

Thứ Hai, 14 tháng 9, 2015

THƠ DÂN TỘC THIỂU SỐ VÀ MIỀN NÚI ĐƯƠNG ĐẠI – PHÁT BIỂU CỦA INRASARA


Inrasara, tại Trại Sáng tác Vũng Tàu, 28-5-2015
http://inrasara.com/wp-content/blogs.dir/4/files/2015/06/2015-5-DTTS-06.jpg
Tôi xin nói ngay là, người thuyết trình ở Bàn tròn Văn chương không phải là kẻ biết nhiều nói với người biết ít hơn, mà là nêu vấn đề để cùng thảo luận, tương tác. Nêu lên sự khác biệt không phải so đo hơn kém, hay dở mà là cái KHÁC. Khác với những gì quen thuộc ta từng biết, từng làm, từng bàn. Tôi xin đi thẳng vào vấn đề.
Từ khi nhập cuộc văn chương tiếng Việt, các thế hệ thơ người Dân tộc Thiểu số liên tục xuất hiện, thuộc nhiều dân tộc và ở nhiều vùng miền khác nhau. Họ nói lên tiếng nói dân tộc và tâm cảm dân tộc mình, qua đó họ thể hiện bản sắc dân tộc và bản sắc vùng miền. Ở đó không ít tác giả sáng tác bằng tiếng mẹ đẻ: thơ tiếng Tày, Thái, Khmer, Cham… Tất cả làm giàu sang nền thơ Việt Nam đa dân tộc, với những cái khác lạ, độc đáo.
Đó là điểm chung. Từ điểm chung đó nảy sinh sự khác biệt mang tính dân tộc và vùng miền riêng. Đâu là khác biệt?
1. Trước hết, các nhà thơ người Dân tộc Thiểu số luôn khẳng định cá nhân qua bản thể dân tộc. Vương Anh với “Hoa trong Mường”, Lương Định là “Lời người cha lũng núi”, Pờ Sảo Mìn con trai người Padí qua “Cây hai ngàn lá”… Nhất là Dương Thuấn với Bản Hon và sông Năng của anh. Trần Wũ Khang ở miền Trung thì khác, nếu có đề cập gốc gác, anh nêu nó lên để đùa nghịch: “Thằng con hai dòng máu” [Cham Việt] (Quà tặng của Quỷ sứ, 2009).
Cạnh đó, sự khẳng định dân tộc và bản sắc còn được thể hiện rõ qua tên bài thơ ở các nhà thơ thuộc vùng miền khác nhau.
2. Lối nói dân dã và hiện đại. Thử phân tích giữa Bùi Tuyết Mai qua bài “Lưu khách” và Kiều Maily qua bài “Nhảy” (tác giả đọc):
Hãy dừng chân nhà em một đêm
Chỉ một đêm thôi
Cho con ngựa anh nghỉ ngơi
Hãy nán lại nhà em một đêm
Chỉ một đêm thôi
Cho con ngựa anh uống nước
Hãy nghỉ lại nhà em một đêm
Chỉ một đêm thôi
Cho con ngựa anh ăn vài đấu ngô thơm
Hãy ở lại nhà với em một đêm
Một đêm thôi…
Ta thấy nhà thơ nữ ở cực Nam Trung Bộ khác hẳn, rất hiện đại:
Giữa anh và em là vực thẳm
mấy lần số cát bãi Nam Kương kia không thể lấp đầy
giữa đôi mắt chúng ta là vực thẳm
đắm đuối đến đâu cũng không thể đầy
giữa thân thể chúng ta là vực thẳm
ngàn nụ hôn cũng không thể làm đầy
anh có muốn cùng em nhảy không?
3. Lối suy nghĩ và nhịp điệu. Nhiều nhà thơ có lối suy nghĩ rất mới, nhưng nhịp điệu thơ truyền thống vẫn được giữ lại. Hoàng Chiến Thắng:
Đứa trẻ bưng tuổi thơ
chạy ngược
Tiếng rao vỡ vào phố đêm
… Người đàn bà cõng mưa
Che con
Tiếng đàn rong va vào ngõ phố (“Phố đêm”)
Tuệ Nguyên ở thành phố HCM, cùng thế hệ với Hoàng Chiến Thắng, thể hiện khác:
– Tôi đang sống cùng thời đại với họ,
nhưng khi họ cứ mải mê dò từng bước để đi thì tôi lại nằm một xó tập bay
– Tôi đi vào con đường không có bảng chỉ dẫn
mỗi lần lầm lạc tôi bắt đầu đánh dấu. (Những giấc mơ đa chiều)
4. Và, trong khi tuyệt đại đa số nhà thơ dân tộc thiểu số vận dụng mọi thể thơ để sáng tác, từ lục bát đến ngũ ngôn, từ tám chữ đến thơ tự dọ, thậm chí có người còn vận dụng cả các thủ pháp hậu hiện đại, thì nhà thơ Thạch Đờ-ni ở miền Tây Nam Bộ vẫn còn sáng tác thơ bằng thể thơ “lục bát” Khmer. Đó là cái hay riêng của nhà thơ người Khmer này.
5. Sự khác biệt còn thể hiện ngay trong rất nhiều biện pháp tu từ, ở đó thủ pháp so sánh là một phần nhỏ. Htrem K’nul dân tộc Êđê ở Tây Nguyên so sánh đơn, gần và cụ thể:
Giọng già như gió cuốn bụi bay
Giọng già như hổ gầm buổi tối
Giọng già như suối chảy đầu hôm (Htrem K’nul, “Người kể khan”)
Còn Inrasara có lối so sánh phức hợp, đa tầng:
Cây xương rồng như nhà sư khất thực theo vết chân gió trái mùa lang thang
Lạc bước qua triền đồi quê tôi để bị chịu cầm tù trong cát…
Như ẩn sĩ cô đơn – yêu thương mà không cần nước mắt
Sẵn lòng cho nụ cười khinh bạc của lùm cỏ dại hay cụm mây hoang
(“Sinh nhật cây xương rồng”, Sinh nhật cây xương rồng, 1997)
6. Ngôn ngữ thơ. Ở Tuệ Nguyên, ngôn ngữ đường phố xuất hiện dày đặc: thế hệ già bảo thủ, những đứa con hư hỏng nổi loạn và bất trị, những đứa con yêu cuồng dại tự do. Rồi thơ tiếng Cham độn tiếng Việt, tiếng Anh không phải là hiếm ở Jalau Anưk. Ngôn ngữ thơ nói lên cái nhìn phản tỉnh, quyết liệt.
7. Cuối cùng là tâm thế sáng tác. Hội nhập, hay cụ thể hơn, cả khi xuống phố, nhiều nhà thơ Dân tộc Thiểu số ở miền Bắc vẫn giữ tâm thế hướng quê với một ít hoài niệm:
Tôi đi trên nền làng xưa
Cúi nhặt vài mảnh vỡ
Rạn nâu
Lạnh tanh như dạ cụ cố
Đâu rồi làng một thuở… (Y Phương, “Làng hoang”)
Trần Wũ Khang cắt đứt tâm thế đó. Anh nhập cuộc làng văn Việt Nam, và đùa nghịch nó với giọng thơ bỡn cợt rất hậu hiện đại. Bài thơ “Nỗi niềm phê bình” nói lên tinh thần đó.
Có lẽ những giọt nước mắt đã khóc vào khẩu hiệu
vào trăn trở của nỗi niềm phê bình
là những giọt nước mắt phim bộ
có lẽ
từ đại hội năm ngoái khóc
sang tập áp cuối
năm nay
khóc chuyền tay như thể đội vận động viên 1000m X 4
có lẽ
vòng đầu ta may mắn hơn
kẻ kế bên – Thái Lan chẳng hạn
hay người chạy ở đường line số 4, 5
Nhật hay Hàn quốc
vô tư vòng hai
ta yên tâm số một, đinh ninh vô địch
vòng ba ta dồn sức
mồ hôi ta làm nên tất cả
có lẽ là những giọt mồ hôi được làm giả
như mồ hôi trong phòng massage
làm ta đuối sức
cũng có thể ta đã trục trặc khâu nào đó
chỗ đưa-nhận gậy chẳng hạn
ta đổ lỗi cho nhau
đổ qua lại như các bà nhà quê đổ thóc giống ra phơi
vẫn chừng ấy thóc giống cho cả mùa vụ
cho suốt mùa khẩu hiệu
cũng có thể là những hạt thóc đã ẩm, mốc
ta đại hi vọng vòng cuối cùng
có lẽ lại là hi vọng giả
như nước mắt phim bộ
như mồ hôi trong phòng massage. (Trần Wũ Khang, “Nỗi niềm phê bình”, 2009)
*
Riêng thơ Miền núi, thơ của người Việt sống ở vùng miền núi ở phía Bắc và Tây Nguyên vẫn khác. Đinh Thị Như Thúy và Đỗ Thị Tấc: có sự khác biệt lớn về giọng thơ, cách thể hiện. Đậm nổi nhất là thơ người Việt sống ở Tây Nguyên bám sát sườn thời sự xã hội. Lê Vĩnh Tài là tiêu biểu. Lê Vĩnh Tài nhìn vào tận cùng hiện trạng xã hội và hiện thực đất nước. Hiện thực lồ lộ trước mặt và xung quanh:
rừng thành chật chội bước chân của người…
rừng bỏ chúng ta đi…
nỗi buồn tro than nỗi buồn của lửa
nỗi buồn di dân chật cả giấc mơ (Vỡ ra mưa ấm, 2005)
Khi thơ “không còn đòi nói dối/ không còn nói câu này quên mất câu kia/ không còn những lời hứa nước bọt”, nhà thơ “bắt đầu tập nói”, tập nói lại.
dường như chiều nay
chúng ta quên mất cuộc đời nhiều cánh cửa
cùng đóng lại ước mơ
với một ly cà phê Highland bốn mươi ngàn
khuyến mãi máy lạnh
quên mất ở Tây Nguyên bảy năm rồi cà phê bốn ngàn một ký
khuyến mãi mồ hôi (Đêm và những khúc rời của Vũ, 2008)