Danh ngôn
Trong mọi cộng đồng, chúng ta cần một nhóm thiên thần gây rối.
We need, in every community, a group of angelic troublemakers.
(Bayard Rustin – trích bài phát biểu tại New York City 1963)
Trong mọi trường hợp, chắc chắn rằng sự thiếu hiểu biết, đi kèm với quyền lực, là kẻ thù tàn bạo nhất có thể có của công lý.
It is certain, in any case, that ignorance, allied with power, is the most ferocious enemy justice can have.
(James Baldwin - No Name in the Street 1972)
Các cuộc cách mạng và các cá nhân có thể bị giết hại, nhưng bạn không thể giết chết các ý tưởng.
While revolutionaries and individuals can be murdered, you cannot kill ideas.
(Thomas Sankara, một tuần trước khi bị ám sát, 1987)
Không có cảm giác nào cô đơn hơn việc bị chính đất nước mình trục xuất.
There's not a more lonely feeling than to be banished by my own country.
(Kiyo Sato – Kiyo’s Story 2009)
Ban Biên tập
Địa chỉ liên lạc:
1. Thơ
tho.vanviet.vd@gmail.com
2. Văn
vanviet.van14@gmail.com
3. Nghiên cứu Phê Bình
vanviet.ncpb@gmail.com
4. Vấn đề hôm nay
vanviet.vdhn1@gmail.com
5. Thư bạn đọc
vanviet.tbd14@gmail.com
6. Tư liệu
vanviet.tulieu@gmail.com
7. Văn học Miền Nam 54-75
vanhocmiennam5475@gmail.com
Tra cứu theo tên tác giả
- A. A. Fadeev
- A. Puskin
- A. T.
- Abdulrazak Gurnah
- Abraham F. Lowenthal
- Ace Le
- Ace Lê
- Adam Gopnik
- Adonis
- Adrian Horton
- Agi Mishol
- Ajar
- Akiko Miki
- Alain Guillemin
- Alan Phan
- Alăng Văn Gáo
- Alăng Văn Giáo
- Albert Camus
- Aldous Huxley
- Aleksandr Griboedov
- Alesandr Blok
- Alex Marshall
- Alex Smith
- Alex Thai
- Alex-Thái Đình Võ
- Alexander Fadeev
- Alexander Solzhenitsyn
- Alexandra Alter
- Alexandre FERON
- Alice Munro
- Alina Lesik
- Alison Flood
- Allen Ginsberg
- Amanda Gorman
- Amartya Sen
- Amelia Glaser
- Amos Oz
- An Nam
- Anatole France
- Anatoly Gavrilov
- Anders Olsson
- André Breton
- André Menras
- André Menras – Hồ Cương Quyết
- André Menras Hồ Cương Quyết
- Andrea Hoa Pham
- Andrea Kendall-Taylor
- Andreas Fulda
- Andreas Wimmer
- Andrew Postman
- Andy Cao
- Anh Anh
- Anh Hồng
- Anh Hồng (nhà thơ)
- Ánh Liên
- Anh Nhi
- Anh Văn
- Anika Zeller
- Anna Akhmatova
- Anna Maria Bracale Ceruti
- Anna Mitchell
- Anna Schmid
- Anne Carson
- Anne Cazaubon
- Anne Hébert
- Anne Henochowicz
- Anne Nguyễn
- Annie Ernaux
- António Jacinto
- Antôn Nguyễn Trường Thăng
- Archimedes L.A. Patti
- Arlette Quỳnh Anh Trần
- Arnold Schwarzenegger
- Artem Sakharov
- Arthur Koestler
- Arty Abel
- Arvind Subramanian
- Augustina
- Aurélie Coulon
- Aurelien Breeden
- Ba Sàm
- Bá Thụ Đàm
- Bạch Cúc
- Bạch Hoàn
- Bách Mỵ
- Bách Thân
- Bạch X. Phẻ
- Bạch Xuân Phẻ
- Bakhtin
- Ban Mai
- Bàn Văn Thòn
- Ban Vận động Văn đoàn Độc lập Việt Nam
- Bảo Chân
- Bảo Huân
- Bảo La
- Bảo Nhi Lê
- Bảo Ninh
- Bảo Phác
- Bảo Tích
- Bão Vũ
- Barbara Demick
- Bashô
- Batrioldman
- Bauxite Việt Nam
- Bắc Đảo
- Bắc Phong
- Bằng Việt
- BB Ngô
- Bei Dao
- Benjamin Péret
- Benjamin Ramm
- Bertolt Brecht
- Bertrand Russell
- Bettina Rheims
- Bích Ngân
- Biếm họa
- Biên Cương
- Biệt Hiệu
- Bilahari Kausikan
- Bill Hayton
- Billy Collins
- Bình Nguyên Lộc
- Brahma Chellaney
- Branko Milanovic
- Brett Reilly
- Brian Pascus
- Brian Wu
- Brice Pedroletti
- Brodsky
- Bryan
- Bùi An
- Bùi Bảo Trúc
- Bùi Bích Hà
- Bùi Chát
- Bùi Chí Trung
- Bùi Chí Vinh
- Bùi Công Thuấn
- Bùi Công Trực
- Bùi Đức Lại
- Bùi Giáng
- Bùi Hải Quảng
- Bùi Hoàng Tám
- Bùi Hoằng Vị
- Bùi Huệ Chi
- Bui Huy Hoi Bui
- Bùi Mai Hạnh
- Bùi Mạnh Hùng
- Bùi Mẫn Hân
- Bùi Minh Quốc
- Bùi Ngọc Tấn
- Bùi Quang Thắng
- Bùi Suối Hoa
- Bùi Thanh Hiếu
- Bùi Thanh Phương
- Bùi Thanh Tuấn
- Bùi Thụy Băng
- Bùi Tiến An
- Bùi Trân Phượng
- Bùi Trọng Hiền
- Bùi Văn Kha
- Bùi Văn Nam Sơn
- Bùi Việt Sỹ
- Bùi Vĩnh Phúc
- Bùi Xuân Bách
- Bùi Xuân Đính
- Bùi-Viết Văn Đức
- Bulgakov
- Bửu Chỉ
- C.D.
- Cái Lư Hương
- Cái Trọng Ty
- Cam Ly
- Cảnh Chánh
- Cao Bảo Vân
- Cao Bình Minh
- Cao Chi
- Cao Gia An
- Cao Hành Kiện
- Cao Huy Thuần
- Cao Kim Ánh
- Cao La
- Cao Quang Nghiệp
- Cao Tần
- Cao Thị Hồng
- Cao Thu Cúc
- Cao Việt Dũng
- Cao Xuân Hạo
- Cao Xuân Huy
- Carl Bildt
- Carl O. Schuster
- Carlos Assunção
- Carolyn Mary Kleefeld
- Cát Linh
- Cẩm Tú
- Cấn Thị Thêu
- Chan Phuong
- Chanh Tam
- Charles Bo
- Charles Bukowski
- Charles S. Kraszewski
- Charles Simic
- Chau Doan
- Chân Minh
- Chân Pháp Xa
- Chân Phương
- Chân Xuân Tản Viên
- Châu Diên
- Châu Hải Đường
- Châu Hồng Thủy
- Châu Hữu Quang
- Chenn
- Chế Diễm Trâm
- Chế Lan Viên
- Chi Mai
- Chi Phương
- Chiêu Dương
- Chiêu Khiêm
- Chiharu Shiota
- Chim Hải
- Chim Trắng
- Chinh Ba
- Chính Tâm
- Chính Vĩ
- Chinua Achebe
- Chơn Không Cao Ngọc Phượng
- Christian Gampert
- Christian Welzel
- Christina Mary Hjortlund
- Christoph Giesen
- Christoph Sator
- Christopher Balding
- Christopher Goscha
- Christy Wampole
- Chu Dương
- Chu Hảo
- Chu Hoạch
- Chu Kim
- Chu Mộng Long
- Chu Quang Tiềm
- Chu Tử
- Chu Văn Lễ
- Chu Văn Sơn
- Chu Vĩnh Hải
- Chu Vương Miện
- Chu Xuân Diên
- Chung Le
- Claire Simon
- Clay Phạm
- Concepcion de Leon
- Connie Hoàng
- Cora Engelbrecht
- Costica Bradatan
- Cổ Ngư
- Cù An Hưng
- Cù Huy Hà Vũ
- Cù Mai Công
- Cù Tuấn
- Cung Minh Huân
- Cung Tích Biền
- Cung Trầm Tưởng
- Cư sĩ Minh Đạt
- D. S. Likhachev
- Da Màu
- Dạ Ngân
- Dạ Thảo Phương
- Dã Tượng
- DAD
- Dadolin Murak
- Damien Keown
- Dan Bilefsky
- Dan Slater
- Dana Gioia
- Danh ngôn
- Dani Rodrik
- Daniel Halpern
- Daniel Hautzinger
- Daron Accemoglu
- David Brown
- David Gascoyne
- David Marchese
- David Weinberger
- Ðặng Thơ Thơ
- Demetrio Paparoni
- DEUTSCHE WELLE
- Di
- Di Li
- Diêm Liên Khoa
- Diễm Thi
- Diễm Tường
- Diễn đàn Thế kỷ
- Diệp Duy Liêm
- Diệp Huy
- Ðinh Cường
- Dino Buzatti
- Dipanjan Roy Chaudhury
- Dmitri Prokofyev
- Dmitry Burago
- Dmitry Muratov
- Doãn Cẩm Liên
- Doãn Mạnh Dũng
- Doãn Mẫn
- Doãn Quốc Sỹ
- Dominique Lemieux
- Donald Inglehart
- Donna Ashworth
- Ðỗ Quang Nghĩa
- Ðỗ Quyên
- Du Tử Lê
- Dung Nguyễn
- Dũng Phan
- Dũng Trung Kqd
- Dũng Vũ
- Duy Lam
- Duy Tân
- Duy Thanh
- Duy Thông
- duyên
- Duyên Anh
- Duyên Khánh
- Dư Hoa
- Dư Kiệt
- Dư Thị Hoàn
- Dư Thu Vũ
- Dương Đại Triều Lâm
- Dương Đình Giao
- Dương Khánh Phương
- Dương Kiền
- Dương Ngạn
- Dương Nghiễm Mậu
- Dương Ngọc Thái
- Dương Như Nguyện
- Dương Phương Vinh
- Dương Thắng
- Dương Thiệu Tước
- Dương Thu Hương
- Dương Thuấn
- Dương Tú
- Dương Tường
- Dương Văn Ba
- Dylan Suher
- Đà Văn
- Đàm Hà Phú
- Đàm Hách Thành
- Đào An Khánh
- Đào Anh Kha
- Đào Công Tiến
- Đào Duy Anh
- Đào Hiếu
- Đào Lê Na
- Đào Ngọc Chương
- Đào Nguyên
- Đào Nguyễn
- Đào Nguyên Phương Thảo
- Đào Như
- Đào Phương Liên
- Đào Quang Toản
- Đào Tấn Phần
- Đào Thái Tôn
- Đào Thị Hương
- Đào Tiến Thi
- Đào Trung Đạo
- Đào Trường Phúc
- Đào Tuấn
- Đào Tuấn Ảnh
- Đào Văn Thuỵ
- Đào Văn Tiến
- Đào Vũ Anh Hùng
- Đặng Anh Đào
- Đặng Bích Phượng
- Đặng Chương Ngạn
- Đặng Đình Cung
- Đặng Đình Mạnh
- Đặng Hà
- Đặng Hải Sơn
- Đặng Hoàng Giang
- Đặng Hồng Nam
- Đặng Hùng Võ
- Đặng Hương Giang
- Đặng Hữu
- Đặng Mai Lan
- Đặng Mậu Tựu
- Đăng Nguyên
- Đặng Phùng Quân
- Đặng Quốc Thông
- Đặng Sơn Duân
- Đặng Thái
- Đăng Thành
- Đặng Thân
- Đặng Thị Hảo
- Đặng Thơ Thơ
- Đặng Tiến
- Đặng Tiến (Thái Nguyên)
- Đặng Trung Nghĩa
- Đặng Túy
- Đặng Văn Dũng
- Đặng Văn Hùng
- Đặng Văn Ngữ
- Đặng Văn Sinh
- Đặng Vũ Vương
- Đặng Xuân Thảo
- Đặng Xuân Xuyến
- Đằng-Giao
- Điểm Thọ
- Đinh Bá Anh
- Đinh Cường
- Đinh Hoàng Thắng
- Đinh Hùng
- Đình Kính
- Đinh Lê Vũ
- Đinh Linh
- Đinh Ngọc Thu
- Đinh Phương
- Đinh Phương Thảo
- Đinh Quang Anh Thái
- Đinh Thanh Huyền
- Đinh Thị Như Thúy
- Đinh Trường Chinh
- Đinh Từ Bích Thuý
- Đinh Từ Bích Thúy
- Đinh Văn Đức
- Đinh Vũ Hoàng Nguyên
- Đinh Ý Nhi
- Đinh Yên Thảo
- Đoàn Ánh Thuận
- Đoàn Bảo Châu
- Đoàn Cầm Thi
- Đoàn Công Lê Huy
- Đoàn Hồng Lê
- Đoàn Huy Giao
- Đoàn Huyền
- Đoàn Khắc Xuyên
- Đoàn Lê Giang
- Đoàn Nhã Văn
- Đoàn Thanh Liêm
- Đoan Trang
- Đoàn Tùng Nguyễn
- Đoàn Tử Huyến
- Đoàn Việt Hùng
- Đoàn Xuân Kiên
- Đỗ Anh Hoa
- Đỗ Anh Tuấn
- Đỗ Bích Thuý
- Đỗ Cao Bảo
- Đỗ Duy Ngọc
- Đỗ Đức
- Đỗ Đức Đông Ngàn
- Đỗ Đức Hiểu
- Đỗ Hòa
- Đỗ Hoàng Diệu
- Đỗ Hồng Ngọc
- Đỗ Hồng Nhung
- Đỗ Hữu Chí
- Đỗ Kh
- Đỗ Kh.
- Đỗ Khiêm
- Đỗ Kim Thêm
- Đỗ Lai Thuý
- Đỗ Lai Thúy
- Đỗ Lê Anh Đào
- Đỗ Mạnh Hoàng
- Đỗ Minh Tuấn
- Đỗ Nghê
- Đỗ Ngọc
- Đỗ Ngọc Thống
- Đỗ Quang Nghĩa
- Đỗ Quang Vinh
- Đỗ Quý Toàn
- Đỗ Quyên
- Đỗ Quỳnh Dao
- Đỗ Thắng Cảnh
- Đỗ Thị Thu Trà
- Đỗ Thiên Anh Tuấn
- Đỗ Trí Vương
- Đỗ Trọng Khơi
- Đỗ Trung Quân
- Đỗ Trường
- Đỗ Tuyết Khanh
- Đồng Chuông Tử
- Đông Hoài
- Đông Hồ
- Đông Kha
- Đông Ngàn Đỗ Đức
- Đông Nghi
- Đức Ban
- Đức Đàm
- Đức Flying Bay
- Đức Hoàng
- Đức Lê
- Đức Phổ
- Đức Tâm
- Đức Tiến
- E. M. Forster
- E.E. Cummings
- E.M. Chernoivanenko
- Eamonn Butler
- Eckart Kleßmann
- Eduardo Galeano
- Edward Hirsch
- Elena Pucillo Truong
- Elias Canetti
- Ellen Bass
- Eloisa Amezcua
- Emiel Roothooft
- Emmanuelle Jardonnet
- Eric Henry
- Eric Weiner
- Erica Frantz
- Erik Harms
- Erik Korling
- Euan Ward
- Evgheni Dobrenko
- F.N.
- Federico García Lorca
- Feliks Kuznesov
- Filip Lech
- Flanny O’Connor
- Florence Noiville
- Florian Altenhöner
- Francis Fukuyama
- Francis Fukuyma
- Frank Dikötter
- Frank O'Hara
- Frankfurt
- Fred Hiatt
- Friedrich Dürrenmatt
- Friedrich Nietzsche
- Fritz J. Raddatz
- Gabriel García Márquez
- Gaither Stewart
- Gaiutra Bahadur
- Gary Leupp
- Gặp gỡ và trò chuyện
- Georg Bönisch
- Georg Trakl
- George Burchett
- George Orwell
- George Perreault
- George Siemens
- Georges Condominas
- Gerhard Will
- Germain Droogenbroodt
- Giang Dang
- Giang Lại Đức
- Giang Nam
- Giáng Vân
- Giáp Văn Dương
- Gideon Rachman
- Giuse Lê Công Đức
- Goethe
- Gonçalo Fernandes
- Gottfried Benn
- Graham Allison
- Grigory Yudin
- Günter Kunert
- Gyảng Anh Iên
- Hà Duy Phương
- Hà Dương Tuấn
- Hà Dương Tường
- Hà Đình Nguyên
- Hạ Đình Nguyên
- Hà Huy Sơn
- Hà Hương
- Hà Lệ Minh
- Hà Ngọc Hòa
- Hạ Nguyên
- Hà Nguyên Du
- Hà Nhân
- Hà Nhật
- Hà Phạm Phú
- Hà Quang Vinh
- Hà Sĩ Phu
- Hà Thanh Vân
- Hà Thế
- Hà Thị Minh Đạo
- Hà Thúc Sinh
- Hà Thủy Nguyên
- Hà Tùng Long
- Hà Tùng Sơn
- Hà Văn Thịnh
- Hà Văn Thùy
- Hà Vũ Trọng
- Hagi Kenaan
- Hai An Vu
- Hải Hạc
- Hải Ngọc
- Hai Thanh
- Han Dang
- Hàn Giang
- Han Kang
- Hàn Vĩnh Diệp
- Hạnh Diễm
- Hạnh Nguyên
- Hạnh Phước
- Hạnh Viên
- Hannah Beech
- Hào Thiện Nhân
- Haruki Murakami
- Hân Hương
- Heiko Buschke
- Heinrich Heine
- Henri Michaux
- Henry David Thoreau
- Henry Wadsworth Longfellow
- Heriberto Araújo
- Hermann Hesse
- Hiền Trang
- Hiệp Ikaria
- Hiệu Minh
- Hiếu Tân
- Ho Lai-Ming
- Hòa Bình Lê
- Hoa Níp
- Hoài Hương
- Hoài Nam
- Hoài Phương
- Hoài Thanh
- Hoài Việt
- Hoài Ziang Duy
- Hoan Doan
- Hoàn Nguyễn
- Hoàng Ánh
- Hoàng Anh Tuấn
- Hoàng Cát
- Hoàng Cầm
- Hoàng Chí Hiếu
- Hoàng Chính
- Hoàng Cường Long
- Hoàng Dũng
- Hoàng Dương Tuấn
- Hoàng Đăng Khoa
- Hoàng Đỗ
- Hoàng Đông
- Hoàng Đức Truật
- Hoàng Hà
- Hoàng Hải Thủy
- Hoàng Hải Vân
- Hoảng Hãn
- Hoàng Hưng
- Hoàng Khởi Phong
- Hoàng Kim Oanh
- Hoàng Lại Giang
- Hoàng Lan
- Hoàng Lan Anh
- Hoàng Lan Chi
- Hoàng Lê
- Hoàng Lệ
- Hoàng Linh
- Hoàng Long
- Hoàng Mai Ðạt
- Hoàng Mạnh Hải
- Hoàng Minh Trí
- Hoàng Minh Tường
- Hoàng Nam
- Hoàng Nga
- Hoàng Ngọc Biên
- Hoàng Ngọc Hiến
- Hoàng Ngọc Nguyên
- Hoàng Ngọc Tuấn
- Hoàng Nguyễn
- Hoàng Nguyên Vũ
- Hoàng Nhơn
- Hoàng Nhuận Cầm
- Hoàng Phong Tuấn
- Hoàng Phủ Ngọc Tường
- Hoàng Quân
- Hoàng Quốc Hải
- Hoàng Thị Hường
- Hoàng Thị Thu Thủy
- Hoàng Thu Phố
- Hoàng Thúy
- Hoàng Thuỵ Anh
- Hoàng Tiến
- Hoàng Trung Thông
- Hoàng Tuấn Công
- Hoàng Tuấn Phổ
- Hoàng Tùng
- Hoàng Tuỵ
- Hoàng Văn Sơn
- Hoàng Việt
- Hoàng Vũ Sơn
- Hoàng Vũ Thuật
- Hoàng Xuân Phú
- Hoàng Xuân Sơn
- Hoàng Xuân Tuyền
- Hoàng Yến
- Horst Bienek
- Howard Gardner
- Hồ Anh Thái
- Hồ Bạch Thảo
- Hồ Bất Khuất
- Hồ Diệu Vân
- Hồ Dzếnh
- Hồ Đắc Vũ
- Hồ Đình Nghiêm
- Hồ Hải Thụy
- Hồ Hữu Tường
- Hồ Minh Tâm
- Hồ Ngọc Đại
- Hồ Như
- Hồ Phú Bông
- Hồ Tịnh Tình
- Hồ Trường An
- Hồ Tú Bảo
- Hội những người ủng hộ GS. Chu Hảo
- Hồng Anh
- Hồng Hoang
- Hồng Lê Thọ
- Hồng Phú
- Huệ Hương Hoàng
- Huguette Bertrand
- Huong Nguyen
- Huy Bảo
- Huy Cận
- Huy Đức
- Huy Tưởng
- Huyền Thương
- Huỳnh Duy Lộc
- Huỳnh Hoa
- Huỳnh Hữu Uỷ
- Huỳnh Hữu Ủy
- Huỳnh Kim Báu
- Huỳnh Kim Quang
- Huỳnh Lê Nhật Tấn
- Huỳnh Liễu Ngạn
- Huỳnh Ngọc Chênh
- Huỳnh Như Phương
- Huỳnh Sơn Phước
- Huỳnh Tấn Mẫm
- Huỳnh Thế Du
- Huỳnh Thục Vy
- Huỳnh Trọng Khang
- Huỳnh Tuấn Anh
- Hứa Chương Nhuận
- Hứa Lập Chí
- Hương Lan
- Hường Thanh
- Hương Thủy
- Hữu Danh
- Hữu Đông
- Hữu Loan
- Hữu Mai
- Hữu Phương
- Ian Bui
- Ian Johnson
- Igor Poglazov
- Ilza Burchett
- Inrasara
- Iris Radisch
- Isabella Kwai
- Issa
- Issac Bashevis Singer
- Italo Calvino
- Iya Kiva
- J. M. Lotman
- J.B Nguyễn Hữu Vinh
- Jacques Attali
- Jacques Prévert
- Jake Johnson
- James Borton
- James Daniel Spears
- James G. Zumwalt
- James Grossman
- James Joyce
- James Poniewozik
- James Stavridis
- James WrightJuan Felipe Herrera
- Janos Kornai
- Jared Carters
- Jason Lopata
- Jason Morris-Jung
- Jay Nordlinger
- Jaya K.
- Jean Chesnaux
- Jean d'Ormesson
- Jean Piaget
- Jean Przyluski
- Jean Toomer
- Jean-Jacques Brochier
- Jean-Jacques Roth
- Jean-Louis Rocca
- Jean-Luc Chalumeau
- Jean-Marc Roberts
- Jean-Patrick Géraud
- Jean-Paul Sartre
- Jefferson Cowie
- Jeffrey Hanfover
- Jeffrey Nall
- Jessica Swoboda
- Jessie Yeung
- Jiayang Fan
- Jimmy Carter
- Joan Hua
- João Guimarães Rosa
- Joaquin Nguyễn Hòa
- John Barrow
- John Cheever
- John Freeman
- John Keane
- John McCain
- Jon Fosse
- Jonathan Dee
- Jonathan London
- Jörg Wischermann
- Jorge Amado
- Jorge Luis Borges
- Joschka Fischer
- Josée Lapointe
- Joseph Wong
- Joseph Wright
- Josh Rogin
- Joshua Rothman
- Juan Pablo Cardenal
- Juan Pablo Cardenal & Heriberto Araújo
- Julia Cagé
- Julio Cortázar
- Jun’ichiro Tanizaki
- Kahil Gibral
- Kai Hoàng
- Kale
- Kalynh Ngô
- Kamel Daoud
- Kao Phú
- Kap Seol
- Karel Appel
- Karen Tongson
- Kate Chopin
- Kazuo Shiraga
- Kenneth Nguyen
- Keorapetse Kgositsile
- Kerstin Holm
- Kều Jang
- Kha Lương Ngãi
- Kha Tiệm Ly
- Khải Đơn
- Khái Hưng
- Khaly Chàm
- Khang Quốc Ngọc
- Khánh
- Khánh Bình
- Khánh Duy
- Khánh Ly
- Khánh Mai
- Khanh Nguyen
- Khanh Pham
- Khánh Phương
- Khánh Trâm
- Khánh Trường
- Khét
- Khế Iêm
- Khiêm Nhu
- Khổng Đức Thiêm
- Khuất Đẩu
- Khuất Thu Hồng
- Khuê Phạm
- Khuyết Thư
- Kiệm Hoàng
- Kiến Văn
- Kiệt Anh Hùng
- Kiệt Tấn
- Kiều Duy Vĩnh
- Kiều Loan
- Kiều Mai Sơn
- Kiều Maily
- Kiều Phong
- Kiều Thị An Giang
- Kim Ân
- Kim Chi
- Kim Dung
- Kim Hạnh
- Kim Thúy
- Kim Trần
- Kinh Bắc
- Kính Hòa
- Klaus Wiegerefe
- Kúm
- Kurt-Martin Mayer
- Kỳ Duyên
- Kyoko Numano
- L. N. Tolstoy
- L. V. H.
- La Khắc Hoà
- La Khắc Hòa
- Lã Nguyên
- Lại Nguyên Ân
- Lam Điền
- Lam Hạnh
- Lam Ngọc
- Lam Thái Hòa
- Lan Nguyên
- Lang Anh
- Langston Hughes
- LAP
- Larry Diamond
- Lars Vargö
- Laura Cappelle
- Laurent Sagalovitsch
- Lawrence Ferlinghetti
- Lâm Chương
- Lâm Duyên
- Lâm Hạnh
- Lâm Lê
- Lâm Ngân Mai
- Lâm Quang Mỹ
- Lâm Thị Mỹ Dạ
- Lenin
- Leon Trotsky
- Leonard Cohen
- Lê An Thế
- Lê Anh Hoài
- Lê Anh Hùng
- Lê Ân
- Lê Bá Đảng
- Lê Bích Vượng
- Lê Chiều Giang
- Lê Công Định
- Lê Công Giàu
- Lê Công Tư
- Lê Ðình Nhất Lang
- Lê Dũng
- Lê Duy Nam
- Lê Đạt
- Lê Đăng Doanh
- Lê Đình Cai
- Lê Đình Khẩn
- Lê Đình Thắng
- Lê Đỗ Huy
- Lê Đức Dục
- Lê Đức Thôn
- Lê Giang Trần
- Lê Hải
- Lệ Hằng
- Lê Hiệp
- Lê Hoài Nguyên
- Lê Hoàng Diễm Trang
- Lê Hoàng Lân
- Lê Học Lãnh Vân
- Lê Hồ Quang
- Lê Hồng Hà
- Lê Hồng Hiệp
- Lê Hồng Lâm
- Lê Hùng
- Lê Hùng Vọng
- Lê Huyền Ái Mỹ
- Lê Huỳnh Lâm
- Lê Hữu
- Lê Hữu Khoá
- Lê Hữu Khóa
- Lê Hữu Nam
- Lê Kế Lâm
- Lê Khải
- Lê Kim Duy
- Lê Ký Thương
- Lê Lạc Giao
- Lê Luân
- Lê Mã Lương
- Lê Mai
- Lê Mai Lĩnh
- Lê Mạnh Chiến
- Lê Mạnh Đức
- Lê Minh Chánh
- Lê Minh Hà
- Lê Minh Hiền
- Lê Minh Khuê
- Lê Minh Phong
- Lê Ngân Hằng
- Lê Ngọc Luân
- Lê Ngọc Sơn
- Lê Nguyễn
- Lê Nguyễn Duy Hậu
- Lê Nguyễn Hương Trà
- Lê Nguyên Long
- Lê Nguyên Vỹ
- Lê Như Bình
- Lê Oa Đằng
- Lê Phan
- Lê Phú Khải
- Lê Quang
- Lê Quang Đức
- Lê Quảng Hà
- Lê Quang Hợp
- Lê Quang Thành
- Lê Quân
- Lê Quốc Anh
- Lê Quỳnh
- Lê Quỳnh Mai
- Lê Sa Long
- Lê Si Na
- Lê Sơn
- Lê Tất Đạt
- Lê Tất Điều
- Lê Thanh Dũng
- Lê Thanh Hải
- Lê Thanh Phong
- Lê Thanh Trường
- Lê Thân
- lê thi diem thuý
- Lê Thị Hồng Minh
- Lê Thị Huệ
- Lê Thị Hường
- Lê Thị Oanh
- Lê Thị Thấm Vân
- Lê Thiết Cương
- Lê Thiếu Nhơn
- Lê Thọ Bình
- Lê Thời Tân
- Lê Thời Thôi
- Lê Thu Hiền
- Lê Thúy Bảo Liên
- Lê Tiên Long
- Lê Trí Tuệ
- Lê Trinh
- Lê Trọng Nghĩa
- Lê Trọng Nguyễn
- Lê Trung Tĩnh
- Lê Trường Thanh
- Lê Tuấn Huy
- Lê Tuyết Hạnh
- Lê Văn Bỉnh
- Lê Văn Hảo
- Lê Văn Hiếu
- Lê Văn Hòa
- Lê Văn Luân
- Lê Văn Sơn
- Lê Văn Trung
- Lê Văn Tùng
- Lê Vĩnh Tài
- Lê Vĩnh Triển
- Lê Vũ Trường Giang
- Lê Xuân Khoa
- Lê Xuyên
- Li Edelkoort
- Li Zhongqin
- Liêu Diệc Vũ
- Liêu Thái
- Liễu Trương
- Linh Nguyên
- Linh Văn
- Linh Vân
- Linh-Chân Brown
- LKH
- Lorca
- Louis Aragon
- Louise Glück
- Lộc Vàng
- Lợi Phan Mai
- Luân Hoán
- Ludwig von Mises
- Luke Hunt
- Luke Turner
- Lữ Kiều
- Lữ Quỳnh
- Lương Đào
- Lương Thiệu Quân
- Lương Thư Trung
- Lưu Á Châu
- Lưu Bình Nhưỡng
- Lưu Diệu Vân
- Lưu Đức Trung
- Lưu Hà
- Lưu Hiểu Ba
- Lưu Khánh Thơ
- Lưu Mê Lan
- Lưu Minh Hải
- Lưu Na
- Lưu Nhi Dũ
- Lưu Quang Vũ
- Lưu Thuỷ Hương
- Lưu Thủy Hương
- Lưu Trọng Văn
- Lưu Uyên Khôi
- Lý Đợi
- Lý Gia Trung
- Ly Hoàng Ly
- Lý Ngang
- Ly Phạm
- Lý Quang Hoàn
- Lý Thanh
- Lý Tiến Dũng
- Lý Toàn Thắng
- Lý Trực Dũng
- Lý Xuân Hải
- Lydia Davis
- Lynh Bacardi
- LysP
- M. Gorky
- M.L. Gasparov
- Mạc Phong Tuyền
- Mạc Văn Trang
- Mạc Việt Hồng
- Mạch Nha
- Mạch Quang Thắng
- Madeleine Riffaud
- Madlovics Bálint
- Magyar Bálint
- Mai An Nguyễn Anh Tuấn
- Mai Anh Tuấn
- Mai Bá Ấn
- Mai Bá Kiếm
- Mai Chanh
- Mai Hiền
- Mai Khôi
- Mai Kim Ngọc
- Mai Nhật
- Mai Ninh
- Mai Quốc Ấn
- Mai Quỳnh
- Mai Quỳnh Nam
- Mai Sơn
- Mai Thái Lĩnh
- Mai Thanh Sơn
- Mai Thảo
- Mai Tú Ân
- Mai Văn Hoan
- Mai Văn Phấn
- Mai Văn Tính
- Maki Starfield
- Mamleev
- Mạnh Kim
- Manuel Casimiro
- Mão Xuyên
- Marc Andrus
- Marcel Reich-Ranicki
- Marci Shore
- Marco Ferrarese
- Margarita Lyutova
- Maria Donovan
- Maria Ressa
- Mario Vargas Llosa
- Marion Hennebert
- Mark B. Hamilton
- Mark Binelli
- Mark Frankland
- Mark Osaki
- Mark Strand
- Marta Hillers
- Martin Jankowski
- Martin Kulldorff
- Marty Robbins
- Mary Morose
- Mary Walsh
- Mathias Mayer
- Matthew Clayfield
- Matthew Crawford
- Maurice Blanchot
- Maximilian Steinbeis
- May
- Maya Angelou
- Mặc Đỗ
- Mặc Lâm
- Mân Côi
- McAmmond Nguyễn Thị Tư
- Media Văn Việt
- Michael Burawoy
- Michael Scammell
- Miêng
- Mike Ives
- Mikhail Shishkin
- Mikhail Viktorovich Zygar
- Milan Kundera
- Mimmi Diệu Hường Bergström
- MInh Anh
- Minh Huệ
- Minh Hùng
- Minh Luật
- Minh Quang – Lê Chiên
- Minh Quang Ho
- Minh Tâm
- Minh Thùy
- Minh Thư
- Minh Toàn
- Minh Tuấn
- Monica Berlin
- Mỹ Hằng
- Mỹ Lan
- N. S. Khrushchev
- Nam Dao
- Nam Dao Nguyễn Mạnh Hùng
- Nam Đan
- Nam Đông
- Nam Nguyên
- Nam Sơn
- Naowarat Pongpaiboon
- Natalia lacovelli
- Nataliya Zhynkina
- Natsume Sōseki
- Nay Aung
- ng. anhanh
- Ng.Uyển Nicole Dương
- Ngải Vị VỊ
- Ngân Xuyên
- Nghệ thuật
- Nghĩa Đặng
- Nghiêm Lương Thành
- Nghiêm Phương Mai
- Nghiêm Xuân Hồng
- Nghiên Cứu Phê Bình
- Ngo Thu
- Ngọc Anh
- Ngọc Duy Phan
- Ngoc Hien Bui
- Ngọc Linh
- Ngô Anh Tuấn
- Ngô Bảo Châu
- Ngô Đình Thẩm
- Ngô Đồng
- Ngô Hương Giang
- Ngô Khắc Tài
- Ngộ Không Phí Ngọc Hùng
- Ngô Kim-Khôi
- Ngô Liêm Khoan
- Ngô Mai Phong
- Ngô Minh
- Ngô Minh Khôi
- Ngô Ngọc Loan
- Ngô Ngọc Trai
- Ngô Nguyên Dũng
- Ngô Nhật Đăng
- Ngô Quốc Phương
- Ngô Quốc Thịnh
- Ngô Thế Vinh
- Ngô Thị Kim Cúc
- Ngô Thị Thanh Lịch
- Ngô Tùng Phong
- Ngô Tự Lập
- Ngô Văn
- Ngô Văn Giá
- Ngô Viết Nam Sơn
- Ngô Viết Trọng
- Ngô Việt Trung
- Ngô Vĩnh Long
- Ngô Xuân Hội
- Ngô Xuân Phúc
- Ngô Xuân Thảo
- Ngu Yên
- Nguyen Duc Thanh
- Nguyễn Hải Hoành
- Nguyễn Anh Dũng
- Nguyễn Anh Tuấn
- Nguyễn Anh Tuấn - đạo diễn
- Nguyễn Bá Chung
- Nguyễn Bách Việt
- Nguyễn Bảo Chân
- Nguyễn Bắc Sơn
- Nguyên Bình
- Nguyễn Bính
- Nguyên Cầm
- Nguyên Cẩn
- Nguyên Chánh
- Nguyễn Chí Hoan
- Nguyễn Chí Thuật
- Nguyễn Chí Trung
- Nguyễn Chí Tuyến
- Nguyễn Chinh Trung
- Nguyễn Cung Thông
- Nguyễn Cường
- Nguyễn Danh Bằng
- Nguyễn Danh Huế
- Nguyễn Danh Lam
- Nguyễn Ðăng Thường
- Nguyễn Duy
- Nguyễn Dương Quang
- Nguyễn Đạt
- Nguyễn Đắc Kiên
- Nguyễn Đắc Xuân
- Nguyễn Đăng Điệp
- Nguyễn Đăng Hưng
- Nguyễn Đăng Khoa
- Nguyễn Đăng Mạnh
- Nguyễn Đăng Na
- Nguyễn Đăng Quang
- Nguyễn Đăng Thường
- Nguyễn Đình Ấm
- Nguyễn Đình Bin
- Nguyễn Đình Bổn
- Nguyễn Đình Chú
- Nguyễn Đình Cống
- Nguyễn Đình Đăng
- Nguyễn Đình Huỳnh
- Nguyễn Đình Thắng
- Nguyễn Đình Thi
- Nguyễn Đình Toàn
- Nguyễn Đổng Chi
- Nguyễn Đông Thức
- Nguyễn Đức
- Nguyễn Đức Dương
- Nguyễn Đức Hiệp
- Nguyễn Đức Mậu
- Nguyễn Đức Sơn
- Nguyễn Đức Thắng
- Nguyễn Đức Tiến
- Nguyễn Đức Tùng
- Nguyễn Đức Tường
- Nguyễn Gia Trí
- Nguyên Giác
- Nguyên Giác Phan Tấn Hải
- Nguyễn Hà Luân
- Nguyễn Hải Hoành
- Nguyễn Hải Yến
- Nguyễn Hàn Chung
- Nguyễn Hiến Lê
- Nguyễn Hoa Lư
- Nguyễn Hoài Nam
- Nguyễn Hoài Văn
- Nguyễn Hoài Vân
- Nguyễn Hoàn
- Nguyễn Hoàn Nguyên
- Nguyễn Hoàng Ánh
- Nguyễn Hoàng Anh Thư
- Nguyễn Hoàng Diệu Thủy
- Nguyễn Hoàng Diệu Thúy
- Nguyễn Hoàng Giao
- Nguyễn Hoàng Linh
- Nguyễn Hoàng Trung
- Nguyễn Hoàng Văn
- Nguyễn Hồng Anh
- Nguyễn Hồng Giao
- Nguyễn Hồng Hưng
- Nguyễn Hồng Lam
- Nguyễn Hồng Nhung
- Nguyễn Hồng Thục
- Nguyễn Huệ Chi
- Nguyễn Hùng
- Nguyễn Huy Hoàng
- Nguyễn Huy Thiệp
- Nguyễn Huy Vũ
- Nguyên Hưng
- Nguyễn Hưng Quốc
- Nguyễn Hương
- Nguyễn Hữu Đễ
- Nguyễn Hữu Hồng Minh
- Nguyễn Hữu Liêm
- Nguyễn Hữu Nhật
- Nguyễn Hữu Sơn
- Nguyễn Hữu Thiết
- Nguyễn Hữu Việt Hưng
- Nguyễn Hữu Vinh
- Nguyễn kc Hậu
- Nguyễn Khải
- Nguyễn Khánh Duy
- Nguyễn Khánh Trường
- Nguyễn Khắc An
- Nguyễn Khắc Bình
- Nguyễn Khắc Mai
- Nguyễn Khắc Ngân Vi
- Nguyễn Khắc Phê
- Nguyễn Khắc Phi
- Nguyễn Khắc Phục
- Nguyễn Khiêm
- Nguyễn Khôi
- Nguyễn Kiến Phước
- Nguyễn Kiều Dung
- Nguyễn Kiều Hưng
- Nguyễn Kim Hưng
- Nguyên Lạc
- Nguyễn Lãm Thắng
- Nguyễn Lan Phương
- Nguyễn Lân Bình
- Nguyễn Lân Thắng
- Nguyễn Lê Hồng Hưng
- Nguyễn Lệ Uyên
- Nguyễn Linh Giang
- Nguyễn Linh Quang
- Nguyễn Lộ Trạch
- Nguyễn Luận
- Nguyễn Lương Hải Khôi
- Nguyễn Lương Ngọc
- Nguyễn Lương Thịnh
- Nguyễn Lương Vỵ
- Nguyễn Mai
- Nguyễn Man Nhiên
- Nguyễn Mạnh An Dân
- Nguyễn Mạnh Côn
- Nguyễn Mạnh Đẩu
- Nguyễn Mạnh Tiến
- Nguyễn Manh Trinh
- Nguyễn Mạnh Trinh
- Nguyễn Mạnh Tuấn
- Nguyễn Mạnh Tường
- Nguyễn Minh Anh
- Nguyễn Minh Hòa
- Nguyễn Minh Kính
- Nguyễn Minh Nhị
- Nguyễn Minh Nhựt
- Nguyễn Minh Thuyết
- Nguyễn Mộng Giác
- Nguyên Ngọc
- Nguyễn Ngọc Chu
- Nguyễn Ngọc Đức
- Nguyễn Ngọc Giao
- Nguyễn Ngọc Hoa
- Nguyễn Ngọc Lanh
- Nguyễn Ngọc Liễm
- Nguyễn Ngọc Lung
- Nguyễn Ngọc Phương
- Nguyễn Ngọc Tâm
- Nguyễn Ngọc Thiện
- Nguyễn Ngọc Tú Anh
- Nguyễn Ngọc Tư
- Nguyên Nguyên
- Nguyễn Nguyên
- Nguyễn Nguyên Bình
- Nguyễn Nhật Lệ
- Nguyễn Nhật Tín
- Nguyên Nhi
- Nguyễn Như Huy
- Nguyễn Như Mây
- Nguyễn Phạm Hùng
- Nguyễn Phan Quế Mai
- Nguyễn Phú Yên
- Nguyễn Phúc Vĩnh Ba
- Nguyễn Phượng
- Nguyễn Phương Đình
- Nguyễn Phương Mai
- Nguyễn Phương Mạnh
- Nguyễn Quang
- Nguyễn Quang A
- Nguyễn Quang Bình
- Nguyễn Quang Duy
- Nguyễn Quang Dy
- Nguyễn Quang Đồng
- Nguyễn Quang Hồng
- Nguyễn Quang Hưng
- Nguyễn Quang Lập
- Nguyễn Quang Thạch
- Nguyễn Quang Thân
- Nguyễn Quang Thiều
- Nguyễn Quang VInh
- Nguyễn Quân
- Nguyễn Quốc Lâm
- Nguyễn Quốc Thái
- Nguyễn Quốc Toàn
- Nguyễn Quốc Trụ
- Nguyễn Quốc Tuấn
- Nguyễn Quốc Vương
- Nguyên Sa
- Nguyễn Sĩ Dũng
- Nguyễn Sơn Lâm
- Nguyễn Sỹ Phương
- Nguyễn Sỹ Tế
- Nguyễn Tà Cúc
- Nguyễn Tài Cẩn
- Nguyễn Tấn Cứ
- Nguyễn Tất Nhiên
- Nguyễn Thạch Giang
- Nguyễn Thái Hòa
- Nguyễn Thái Hợp
- Nguyễn Thái Sơn
- Nguyễn Thái Tuấn
- Nguyễn Thanh Bình
- Nguyễn Thanh Châu
- Nguyễn Thanh Giang
- Nguyễn Thanh Hiện
- Nguyễn Thanh Hùng
- Nguyễn Thanh Huy
- Nguyễn Thanh Huyền
- Nguyễn Thanh Mỹ
- Nguyễn Thành Nam
- Nguyễn Thanh Nghị
- Nguyễn Thanh Nguyệt
- Nguyễn Thành Phong
- Nguyễn Thanh Sơn
- Nguyễn Thành Sơn
- Nguyễn Thanh Tâm
- Nguyễn Thành Thi
- Nguyễn Thanh Tuyền
- Nguyễn Thanh Văn
- Nguyễn Thanh Việt
- Nguyễn Thế Hùng
- Nguyễn Thế Thanh
- Nguyễn Thị Ái Tiên
- Nguyễn Thị Bích Hậu
- Nguyễn Thị Bích Ngà
- Nguyễn Thị Bình
- Nguyễn thị Cỏ May
- Nguyễn Thị Dư Khánh
- Nguyễn Thị Hải
- Nguyễn Thị Hậu
- Nguyễn Thị Hiền
- Nguyễn Thị Hoàng
- Nguyễn Thị Hoàng Bắc
- Nguyễn Thị Hồng
- Nguyễn Thị Khánh Minh
- Nguyễn Thị Khánh Trâm
- Nguyễn Thị Kim Chi
- Nguyễn Thị Kim Phụng
- Nguyễn Thị Kim Thoa
- Nguyễn Thị Minh Ngọc
- Nguyễn Thị Minh Thương
- Nguyễn Thị Ngọc Hải
- Nguyễn Thị Ngọc Nhung
- Nguyễn Thị Oanh
- Nguyễn Thị Phước
- Nguyễn Thị Thanh Bình
- Nguyễn Thị Thanh Hải
- Nguyễn Thị Thanh Lưu
- Nguyễn Thị Thanh Xuân
- Nguyễn Thị Thanh Yến
- Nguyễn Thị Thảo An
- Nguyễn Thị Thúy Hạnh
- Nguyễn Thị Thùy Linh
- Nguyễn Thị Thụy Vũ
- Nguyễn Thị Thuyền
- Nguyễn Thị Tịnh Thy
- Nguyễn Thị Từ Huy
- Nguyễn Thị Vinh
- Nguyễn Thiện Tống
- Nguyễn Thiện Tơ
- Nguyễn Thói Đời
- Nguyễn Thông
- Nguyễn Thu Quỳnh
- Nguyễn Thu Trang
- Nguyễn Thụy Anh
- Nguyễn Thùy Dương
- Nguyễn Thúy Hạnh
- Nguyễn Thụy Long
- Nguyễn Thuỵ Phương
- Nguyễn Thùy Song Thanh
- Nguyễn Thỵ
- Nguyễn Thy Anh
- Nguyễn Tiến Dũng
- Nguyễn Tiến Lập
- Nguyễn Tiến Trung
- Nguyễn Tiến Văn
- Nguyễn Trần Bạt
- Nguyễn Tri Phương Đông
- Nguyễn Triệu Nam
- Nguyễn Trọng Bình
- Nguyễn Trọng Chức
- Nguyễn Trọng Huân
- Nguyễn Trọng Khôi
- Nguyễn Trọng Tạo
- Nguyễn Trung
- Nguyễn Trung Bảo
- Nguyễn Trung Dân
- Nguyễn Trung Hiếu
- Nguyễn Trung Kiên
- Nguyễn Trung Thuần
- Nguyễn Trường Giang
- Nguyễn Trường Huy
- Nguyễn Trường Uy
- Nguyễn Tuấn
- Nguyễn Tuấn Anh
- Nguyễn Tuấn Khoa
- Nguyễn Tùng
- Nguyễn Tùng Linh
- Nguyễn Tuyết Lan
- Nguyễn Tuyết Lộc
- Nguyễn Tư Nghiêm
- Nguyễn Tử Siêm
- Nguyễn Tường Bách
- Nguyễn Tường Thiết
- Nguyễn Tường Thụy
- Nguyễn Ước
- Nguyễn Vạn An
- Nguyễn Vạn Phú
- Nguyễn Văn
- Nguyễn Văn Ba
- Nguyễn Văn Chính
- Nguyễn Văn Ðậu
- Nguyễn Văn Dũng
- Nguyễn Văn Đài
- Nguyễn Văn Gia
- Nguyễn Văn Hạnh
- Nguyễn Văn Hiệp
- Nguyễn Văn Hòa
- Nguyễn Văn Hùng
- Nguyễn Văn Huyên
- Nguyễn Văn Lợi
- Nguyễn Văn Lục
- Nguyễn Văn Miếng
- Nguyễn Văn Nghệ
- Nguyễn Văn Nho
- Nguyễn Văn Phong
- Nguyễn Văn Phú
- Nguyễn Văn Phước
- Nguyễn Văn Sâm
- Nguyễn Văn Sơn
- Nguyễn Văn Tao
- Nguyễn Văn Thiệu
- Nguyễn Văn Thọ
- Nguyễn Văn Trọng
- Nguyễn Văn Trung
- Nguyễn Văn Tuấn
- Nguyễn Văn Vĩnh
- Nguyễn Văn Xuân
- Nguyễn Vi Khải
- Nguyễn Vi Yên
- Nguyễn Viện
- Nguyên Việt
- Nguyễn Việt Anh
- Nguyễn Việt Chiến
- Nguyễn Viết Dũng
- Nguyễn Viết Lãm
- Nguyễn Vĩnh Nguyên
- Nguyễn Vũ Hiệp
- Nguyễn Vũ Tiềm
- Nguyễn Vỹ
- Nguyễn Vy Khanh
- Nguyễn Xuân Diện
- Nguyễn Xuân Hằng
- Nguyễn Xuân Hoàng
- Nguyễn Xuân Hưng
- Nguyễn Xuân Khánh
- Nguyễn Xuân Khoát
- Nguyễn Xuân Nghĩa
- Nguyễn Xuân Nha
- Nguyễn Xuân Quang
- Nguyễn Xuân Thiệp
- Nguyễn Xuân Thọ
- Nguyễn Xuân Tiệp
- Nguyễn Xuân Tường Vy
- Nguyễn Xuân Vượng
- Nguyễn Xuân Xanh
- Nguyễn Ý Thuần
- Nguyên Yên
- Nguyễn-Chương Mt
- Nguyễn-hòa-Trước
- Nguyệt Chu
- Nguyệt Quỳnh
- Nguyệt Vi
- Ngự Thuyết
- Người Buôn Gió
- Ngyễn Trung Bảo
- Nh. Tay Ngàn
- Nhã
- Nhã Ca
- Nhã Duy
- Nhã Thuyên
- Nhan Do Thanh
- Nhân Hồng
- Nhật Chiêu
- Nhật Lệ
- Nhất Linh
- Nhật Tiến
- Nhật Tuấn
- Nhất Uyên
- Nhị Linh
- Nhị Ngã
- Nhóm Vì một Hà Nội xanh
- Như Huy
- Như Không
- Như Quỳnh
- Như Quỳnh de Prelle
- Như Ý
- Nhược Thủy
- Niall Ferguson
- Nick Hilden
- Nicolas Casey
- Nikulin
- Nina McPherson
- Ninh Dương
- Ninh Kiều
- Nobert Hummelt
- Nông Hồng Diệu
- NP Phan
- Obama
- Ocean Vương
- Octavio Paz
- Ogden Nash
- Oksana Zabuzhko
- Oleg Kashin
- Ondrej Slowik
- onggiaolang
- Orlando Figes
- Orwell
- Oscar Salemink
- Oscar Wilde
- Pablo Neruda
- Pablo Picasso
- Palmer
- Patrick Frater
- Patrick Lodge
- Paul Auster
- Paul Celan
- Paul Éluard
- Paul Hoover
- Paul Mendez
- Paul Mozur
- Paul Theroux
- Paul-François Paoli
- Paulus Lê Sơn
- Pavel Basinsky
- Pavlo Vyshebaba
- Paweł Kubiak
- Pawel Kuczynski
- Paweł Łepkowski
- Percy Mabandu
- Pervez Hoodbhoy
- Peter B. Zinoman
- Peter Hansen
- Peter Harvey
- Peter Kleiner
- Peter Singer
- Phạm Anh Tuấn
- Phạm Biểu Tâm
- Phạm Cao Hoàng
- Phạm Châu
- Phạm Chí Dũng
- Phạm Chi Lan
- Phạm Chu Sa
- Phạm Công Luận
- Phạm Công Thiện
- Phạm Công Trứ
- Phạm Công Út
- Phạm Duy
- Phạm Duy Nghĩa
- Phạm Đình Chương
- Phạm Đình Trọng
- Phạm Đình Vy
- Phạm Đoan Trang
- Phạm Hải Anh
- Phạm Hải Âu
- Phạm Hiền Mây
- Phạm Hoàng Quân
- Phạm Hồng Sơn
- Phạm Hùng Việt
- Phạm Huy Thông
- Phạm Khiêm Ích
- Phạm Kiều Tùng
- Phạm Kỳ Đăng
- Phạm Lệ Quyên
- Phạm Lê Vương Các
- Phạm Linh
- Phạm Lưu Vũ
- Phạm Minh Hoàng
- Phạm Minh Ngọc
- Phạm Minh Quân
- Phạm Minh Trung
- Phạm Ngọc Lư
- Phạm Ngọc Thái
- Phạm Ngọc Tiến
- Phạm Nguyên Trường
- Phạm Ngữ
- Phạm Phan Long
- Phạm Phú Cường
- Phạm Phú Hải
- Phạm Phú Minh
- Phạm Phú Phong
- Phạm Phú Thứ
- Phạm Phú Viết
- Phạm Phúc Thịnh
- Phạm Phương
- Phạm Quang Ái
- Phạm Quang Long
- Phạm Quang Trung
- Phạm Quang Tuấn
- Phạm Sỹ Sáu
- Phạm Tăng
- Phạm Thành
- Phạm Thành Hưng
- Phạm Thanh Nghiên
- Phạm Thảo Nguyên
- Phạm Thế Cường
- Phạm Thị
- Phạm Thị Anh Nga
- Phạm Thị Hoài
- Phạm Thị Kiều Ly
- Phạm Thị Ngọc
- Phạm Thị Phương
- Phạm Thiên Ân
- Phạm Thiên Thư
- Phạm Tín An Ninh
- Phạm Toàn
- Phạm Trần
- Phạm Trọng Chánh
- Phạm Trung Nghĩa
- Phạm Tuấn
- Phạm Tư Thanh Thiện
- Phạm Tường Vân
- Phạm Văn
- Phạm Văn Khoái
- Phạm Văn Quang
- Phạm Văn Tình
- Phạm Văn Vũ
- Pham Viem Phuong
- Phạm Viêm Phương
- Phạm Viết Đào
- Phạm Việt Hưng
- Phạm Vũ Lửa Hạ
- Phạm Xuân Đài
- Phạm Xuân Hùng
- Phạm Xuân Nguyên
- Phạm Xuân Trường
- Phan An Sa
- Phan Ba
- Phan Bội Châu
- Phan Cẩm Thượng
- Phan Châu Thành
- Phan Cự Đệ
- Phan Dương Hiệu
- Phan Đạo
- Phan Đắc Lữ
- Phan Đình Diệu
- Phan Độc Lập
- Phan Hải-Đăng
- Phan Hồng Giang
- Phan Huy Chú
- Phan Huy Dũng
- Phan Huy Đường
- Phan Huy Lê
- Phan Huyền Thư
- Phan Kế Toại
- Phan Khôi
- Phan Lặng Yên
- Phan Mạnh Quỳnh
- Phan Nam Sinh
- Phan Ngọc
- Phan Nguyên
- Phan Nhật Nam
- Phan Nhiên Hạo
- Phan Ni Tấn
- Phan Phương Đạt
- Phan Quang
- Phan Quỳnh Trâm
- Phan Tấn Hải
- Phan Tấn Uẩn
- Phan Thanh Bình
- Phan Thắng
- Phan Thế Hải
- Phan Thị Hà Dương
- Phan Thị Kim Phúc
- Phan Thị Trọng Tuyển
- Phan Thị Vàng Anh
- Phan Thu Vân
- Phan Thúy Hà
- Phan Trang Hy
- Phan Trí Đỉnh
- Phan Trọng Hoàng Linh
- Phan Văn Giưỡng
- Phan Văn Song
- Phan Văn Thắng
- Phan Vũ
- Phan Xine
- Phan Xuân Sinh
- Phannguyên Psg
- Phanxipăng
- Phaolô VI
- phap
- Pháp Hoan
- Pháp Vân
- Phapxa Chan
- Phát biểu nhận giải Văn Việt
- Phil Caputo
- Philip Larkin
- Philip Roth
- Phong Âm
- Phong Linh
- Phong Nguyen
- Phong Quang
- Phố Văn
- Phú Quang
- Phù Sa
- Phúc Lai GB
- Phúc Tiến
- Phunchok Stobdan
- Phùng Anh Kiệt
- Phùng Hi
- Phùng Hoài Ngọc
- Phùng Học Vinh
- Phùng Ngọc Kiên
- Phùng Nguyễn
- Phùng Quán
- Phùng Thành Chủng
- Phùng Thị Hạ Nguyên
- Phùng Thị Như Hà
- Phuong Ta
- Phương Hương
- Phương Phương
- Phương Thảo
- Phương Thuý
- Phương Uy
- Phương Xích Lô
- Pierre Darriulat
- Pierre Lemieux
- Prashanth Parameswaran
- Qladimir Pyljow
- Quách Hạo Nhiên
- Quách Tấn
- Quách Thoại
- Quảng Diệu Trần Bảo Toàn
- Quang Dũng
- Quang Đức
- Quang Minh
- Quang Phan
- Quảng Tánh Trần Cầm
- Quậy Nguyễn
- Quế Hương
- Quốc Dũng
- Quốc Phương
- Quốc Toản
- Quyên Di
- Quyên Hoàng
- Quỳnh Dao
- Quỳnh Hợp
- Quỳnh Iris de Prelle
- Quỳnh Vi
- Rabindranath Tagore
- Rachel Adams
- Rainer Maria Rilke
- Ralph Chaplin
- Rebecca Mead
- Rebecca Solnit
- Reiner Traub
- Remo Verdickt
- Riccardo Gazzaniga
- Richard C. Paddock
- Richard Millet
- Richard Serra
- Robert Desnos
- Robert McCrump
- Roger Vu
- Roland Barthes
- Romain Rolland
- Ronald F. Inglehart
- Ruben David Gonzalez Gallego
- Russell Edson
- Ruth Ingram
- Ryszard Legutko
- Salman Rushdie
- Salvatore Babones
- Sam Dresser
- Sạn chữ
- Sandra Kerschbaumer
- Sara Teasdale
- Sarah Pulliam Bailey
- Sarah Thornton
- Sáu Nghệ
- Sergio Bitar
- Shakespeare
- Shannon Van Sant
- Sheikha A
- Sheila Fischman
- Sheila Ngoc Pham
- Sheri Berman
- Shigeeda Yutaka
- Shirin Ebadi
- Shukshin
- Simon Johnson
- Sire Apm Lukwesa
- Slavoj Žižek
- Sohaniim
- Son Kieu Mai
- Song Chi
- Song Hà
- Song Nguyễn
- Song Phạm
- Song Phan
- Song Thao
- Số đặc biệt
- Sơn Ca
- Sơn Hoàng Liên
- Sơn Kiều Mai
- Sơn Nam
- Stalin
- Stefan Dege
- Stefano Harney
- Stephan Koester
- Stephen B. Young
- Steve Earle
- Susan Sontag
- Suzuki Katsuhiko
- Sương Nguyệt Minh
- Sương Quỳnh
- Svetlana Alexievich
- Svetlana Alexievitch
- Svetlana Alexiévitch
- Sylvia Plath
- T. Đ.
- T.Vấn
- Tạ Anh Thư
- Tạ Chí Đại Trường
- Tạ Duy Anh
- Tạ Tỵ
- Tạ Văn Tài
- Tạ Văn Thông
- Tạ Xuân Hải
- Tadeusz Rósewicz
- Tam Ích
- Tamarchenko
- Tàn Tuyết
- Tanaami Keiichi
- Taras Shevchenko
- Tarik Khaldi
- Tawada Yoko
- Tăng Quang
- Tâm An
- Tâm Bình
- Tâm Chánh
- Tâm Don
- Tâm Thường Định
- Tâm Việt
- Tấn An
- Teolinda Gersão
- Teresa Mỹ Chúc
- Thạch Đạt Lang
- Thạch Quỳ
- Thạch Thảo
- Thái Bá Tân
- Thái Bá Vân
- Thái Bảo
- Thái Hà
- Thái Hạo
- Thái Kế Toại
- Thái Kim Lan
- Thái Ngọc San
- Thái Phan Vàng Anh
- Thái Sinh
- Thái Thanh
- Thái Thăng Long
- Thái Tuấn
- Thái Văn
- Thái Văn Đào
- Thái Vũ
- Thạnh Đà
- Thanh Hằng - Anh Khoa
- Thành Lộc
- Thanh Nam
- Thanh Ngọc
- Thanh Phương
- Thanh Tâm Tuyền
- Thanh Thảo
- Thanh Thuỷ
- Thanh Trúc
- Thanh Tùng
- Thanh Xuân
- Thanhhà Lại
- Thảo Dân
- Thao Dinh
- Thảo luận
- Thảo Nguyên
- Thảo Trường
- Thảo Vy
- Thẩm Đống
- Thẩm Hoàng Long
- Thận Nhiên
- Thân Trọng Mẫn
- Thân Trọng Sơn
- Thế Dũng
- Thế Giang
- Thế Quân
- THẾ THANH
- Thế Uyên
- Thi Hoàng
- Thi Nguyên
- Thi sỹ ỦA
- Thi Vũ
- Thích Nhất Hạnh
- Thích Nữ Chân Không
- Thích Phước An
- Thích Quảng Độ
- Thierry Leclère
- Thierry Lentz
- Thiên Di
- Thiên Điểu
- Thiền Lâm
- Thiền Nguyễn
- Thiên Thai
- Thiện Tùng
- Thiện Ý
- Thiền Zen Paul Vân Thuyết
- Thiết Thạch
- Thiếu Khanh
- Thiều Mai Lâm
- Tho Nguyen
- Thomas A. Bass
- Thomas Bo Pedersen
- Thomas Mahler
- Thomas S. Mullaney
- Thông Đặng
- Thơ
- Thu Phong
- Thu Vàng
- Thuận
- Thuần Ngô
- Thuận Paris
- Thuận Thiên
- Thục Quyên
- Thụy An
- Thùy Dung
- Thụy Khuê
- Thùy Linh
- Thụy My
- Thủy Tiên
- Thư Bạn Đọc
- Thường Quán
- Thy An
- Tịch Ru
- Tiet Hung Thai
- Tiêu Dao Bảo Cự
- Tiêu Kiện Sinh
- Tiểu Tử
- Tillman Miller
- Timothy Brennan
- Timothy Garton Ash
- Timothy Snyder
- Tina Hà Giang
- Tom Fawthrop
- Tomas Tranströmer
- Tô Đăng Khoa
- Tô Hải
- Tô Hoàng
- Tố Hữu
- Tô Lan Hương
- Tô Ngọc Vân
- Tô Thẩm Huy
- Tô Thùy Yên
- Tô Văn Trường
- Tôi Đây
- Tôn Thất Thông
- Tống Văn Công
- Trà Bình
- Trà Đóa
- Trà Nhiên
- Tracy K. Smith
- Tran Dinh Dung
- Tran Nam Dung
- Trang Châu
- Trang Hạ
- Trang Thanh
- Trang Thế Hy
- Trangđài Glassey Trầnguyễn
- Trangđài Glasssey-Trầnguyễn
- Trao đổi
- Trầm Tử Thiêng
- Trần Anh Hùng
- Trần Bá Đại Dương
- Trần Bang
- Trần Bình Nam
- Trần C. Trí
- Trần Cao Lĩnh
- Trần Cao Tường
- Trần Công Tâm
- Trần Công Tín
- Trần Dạ Từ
- Trần Dần
- Trần Doãn Nho
- Trần Dũng Thanh Huy
- Trần Duy
- Trần Duy Phiên
- Trần Duy Trung
- Trần Đăng Khoa
- Trần Đăng Tuấn
- Trần Đĩnh
- Trần Đình Bút
- Trần Đình Hoành
- Trần Đình Lương
- Trần Đình Sơn Cước
- Trần Đình Sử
- Trần Đình Thắng
- Trần Đình Triển
- Trần Đình Trợ
- Trần Độ
- Trần Đồng Minh
- Trần Đức Anh Sơn
- Trần Đức Nguyên
- Trần Đức Thảo
- Trần Đức Tiến
- Trần Đức Tín
- Trần Đức Toản
- Trần Gia Huấn
- Trần Gia Ninh
- Trần Hà Linh
- Trần Hạ Tháp
- Trần Hạ Vi
- Trần Hải
- Trần Hạnh
- Trần Hậu
- Trần Hoài Anh
- Trần Hoài Thư
- Trần Hoàng Phố
- Trần Hoàng Trúc
- Trần Hoàng Vy
- Trần Hùng
- Trần Huy Bích
- Trần Huy Minh Phương
- Trần Huy Quang
- Trần Huỳnh Duy Thức
- Trần Hữu Dũng
- Trần Hữu Khánh
- Trần Hữu Quang
- Trần Hữu Tá
- Trần Hữu Thục
- Trần Khánh Triệu
- Trần Kiêm Đoàn
- Trần Kiêm Trinh Tiên
- Trần Kim Trắc
- Trần Kỳ Trung
- Trần Lam
- Trần Lê Sơn Ý
- Trần Lương
- Trần Lý Trí Tân
- Trần Mạnh Hảo
- Trần Mạnh Tuấn
- Trần Minh Phi
- Trần Minh Quốc
- Trần Mộng Tú
- Trần Nam Bình
- Trần Ngân Hà
- Trần Nghi Hoàng
- Trần Ngọc Cư
- Trần Ngọc Hiếu
- Trần Ngọc Tuấn
- Trần Ngọc Vương
- Trần Nguyên Đán
- Trần Nhã Thụy
- Trần Nhương
- Trần Phong Giao
- Trần Phong Vũ
- Trần Quang Đức
- Trần Quang Lộc
- Trần Quốc Nam
- Trần Quốc Thuận
- Trần Quốc Toàn
- Trần Quốc Trọng
- Trần Quốc Vượng
- Trần Quyết Thắng
- Trân Sa
- Trần Song Hào
- Trần Thành
- Trần Thanh Ái
- Trần Thanh Cảnh
- Trần Thanh Huy
- Trần Thanh Vân
- Trần Thắng
- Trần Thế Vĩnh
- Trần Thị Băng Thanh
- Trần Thị Diệu Tâm
- Trần Thị Lai Hồng
- Trần Thị Lam
- Trần Thị NgH.
- Trần Thị Nguyệt Mai
- Trần Thị Phương Phương
- Trần Thị Thanh Thoả
- Trần Thị Trường
- Trần Thiện Đạo
- Trần Thùy Mai
- Trần Tiến
- Trần Tiễn Cao Đăng
- Trần Tiến Dũng
- Trần Tiễn Khanh
- Trần Tố Nga
- Trần Trọng Dương
- Trần Trọng Thức
- Trần Trọng Vũ
- Trần Trung Chính
- Trần Trung Đạo
- Trần Tuấn
- Trần Từ Mai
- Trần Vàng Sao
- Trần Văn Chánh
- Trần Văn Chung
- Trần Văn Đỉnh
- Trần Văn Khê
- Trần Văn Minh
- Trần Văn Nam
- Trần Văn Thọ
- Trần Văn Thủy
- Trần Văn Tý
- Trần Vấn Lệ
- Trần Việt Hà
- Trần Viết Ngạc
- Trần Vinh Dự
- Trần Vũ
- Trần Vũ Hải
- Trần Vương Thuấn
- Trần Vương Thuận
- Trần Wũ Khang
- Trần Xuân Hoài
- Trần Xuân Kiêm
- Trần Xuân Linh
- Trần Xuân Lĩnh
- Trần Xuân Thảo
- Trần Yên Hòa
- Trần Yên Nguyên
- Trên
- Trên Facebook
- Trên Facebook/Minds
- Trên kệ sách
- Trên trang diaCRITICS
- Trí Hiệu Dân
- Triều Anh
- Triều Hoa Đại
- Triêu Nhan
- Triều Sơn
- Triệu Tử Dương
- Trịnh Anh Tuấn
- Trịnh Bá Phương
- Trịnh Bách
- Trịnh Cao Hòa Thanh
- Trịnh Chu
- Trịnh Công Sơn
- Trịnh Cung
- Trịnh Duy Kỳ
- Trịnh Hữu Long
- Trịnh Kim Tiến
- Trịnh Lữ
- Trịnh Minh Tuấn
- Trịnh Sơn
- Trịnh Thanh Thủy
- Trịnh Thu Tuyết
- Trịnh Vĩnh Phúc
- Trịnh Xuân Thuận
- Trịnh Xuân Thủy
- Trịnh Y Thư
- Trọng Anh
- Trọng Phú
- Trọng Thành
- Tru Sa
- Trúc Giang
- Trúc Thông
- Trúc Ty
- Trump
- Trung Bảo
- Trung Dũng Kqd
- Trung Dũng Kqđ
- Trùng Dương
- Trung Trung Đỉnh
- Trư Sa
- Trường An
- Trương Anh Ngọc
- Trương Anh Thụy
- Trương Chính
- Trương Duy Nhất
- Trương Đăng Dung
- Trương Điện Thắng
- Trương Đình Phượng
- Trương Hồng Quang
- Trương Huy San
- Trường Minh
- Trương Ngọc Chương
- Trương Nguyên
- Trương Nguyện Thành
- Trương Nhân Tuấn
- Trương Phượng
- Trương Quang
- Trương Quang Đệ
- Trương Quang Nhuệ
- Trương Quang Vĩnh
- Trương Thanh Thuận
- Trương Thị Ngọc Hân
- Trương Thiên Phàm
- Trương Thu Hiền
- Trương Tố Hoa
- Trương Trọng Nghĩa
- Trương Tửu
- Trương Văn Dân
- Trương Văn Vĩnh
- Trương Vũ
- Trương Xuân Thiên
- Tú Mỡ
- Tù Quốc Hoài
- Tù Sâm
- Tú Trung Hồ
- Tuấn Duy
- Tuấn Khanh
- Tuân Nguyễn
- Tuấn Thảo
- Tuệ Anh
- Tuệ Đăng
- Tuệ Nguyên
- Tuệ Nhân
- Tuệ Nhật
- Tuệ Sĩ
- Tuệ Sỹ
- Tùng Dương Cola
- Tung Nguyen
- Turner
- Túy Hồng
- Tuyết Nghi
- Tư
- Từ Dung
- Tư liệu
- Tử Linh
- Từ Mai Trần Huy Bích
- Từ Quốc Hoài
- Từ Sâm
- Từ Thức
- Tưởng
- Tương Lai
- Umberto Eco
- Uông Tăng Kỳ
- Uông Triều
- Uyển Ca
- Uyên Nguyên
- Uyên Nguyễn
- Uyên Thao
- Uyên Vũ
- V. Erofiev
- Vàng A Giang
- Varlam Shalamov
- Vasco Gargalo
- Vasily Makarovich
- Văn
- Văn Biển
- Văn Cao
- Văn Chinh
- Văn Công Hùng
- Văn Giá
- Văn học
- Văn học Miền Nam 54-75
- Văn Như Cương
- Văn Quang
- Văn Tâm
- Văn Việt
- Văn.
- Vấn đề hôm nay
- Vận Động Ứng Cử Đại Biểu Quốc Hội 2016
- Vân Hạ
- Vân Phi
- Velcrow Ripper
- Veronica Melkozerova
- Vi Lãng
- Vi Trần
- Vi Yên
- Viet Thanh Nguyen
- Viên Linh
- Việt Bách
- Việt Bình
- Việt Dzũng
- Việt Khang
- Việt Lang
- Việt Phương
- Viktor Astafyev
- Viktor Maslov
- Vinh Anh
- Vĩnh Hảo
- Vĩnh Quyền
- Virginia Heffernan
- Virginia Woolf
- Vladimir Nabokov
- Vladimir Voronov
- Võ An Đôn
- Võ Anh Minh
- Võ Anh Thơ
- Võ Bá Cường
- Võ Đắc Danh
- Võ Định Hình
- Võ Đức Phúc
- Võ Hồng
- Võ Huy Tâm
- Võ Hương Quỳnh
- Võ Kỳ Điền
- Võ Ngàn Sông
- Võ Phiến
- Võ Thị Hảo
- Võ Thị Thu Hằng
- Võ Tiến Cường
- Võ Tòng Xuân
- Võ Trí Hảo
- Võ Văn Quản
- Võ Văn Tạo
- Võ Văn Thôn
- Võ Xuân Quế
- Võ Xuân Sơn
- Volker Weidermann
- Volodymyr Vynnychenko
- Volodymyr Zelenskyy
- Vũ Bằng
- Vũ Biện Điền
- Vũ Cao Đàm
- Vũ Cát Tường
- Vũ Đình Hòe
- Vũ Đình Huỳnh
- Vũ Đình Liên
- Vũ Đình Phòng
- Vũ Đức Khanh
- Vũ Đức Phúc
- Vũ Đức Sao Biển
- Vu Gia
- Vũ Hà Văn
- Vũ Hạnh
- Vũ Hoàng Chương
- Vũ Hoàng Thư
- Vũ Hồng Ánh
- Vũ Huy Ngọc
- Vũ Huy Quang
- Vũ Khắc Hoè
- Vũ Khắc Khoan
- Vũ Kim Hạnh
- Vũ Kim Thu
- Vũ Lâm
- Vũ Lập Nhật
- Vũ My Lan
- Vũ Ngọc Giao
- Vũ Ngọc Hoàng
- Vũ Ngọc Tâm
- Vũ Ngọc Tiến
- Vũ Nho
- Vũ Oanh
- Vũ Quang Việt
- Vũ Quí Hạo Nhiên
- Vũ Quốc Ngữ
- Vũ Quỳnh Hương
- Vũ Quỳnh Nh.
- Vũ Thành Sơn
- Vũ Thanh Tâm
- Vũ Thanh Tùng
- Vũ Thành Tự Anh
- Vũ Thế Khôi
- Vũ Thị Hải
- Vũ Thị Nhuận
- Vũ Thị Phương Anh
- Vũ Thị Phương Lan
- Vũ Thị Thanh
- Vũ Thị Thanh Mai
- Vũ Thư Hiên
- Vũ Tiến Lập
- Vũ Trọng Khải
- Vũ Trọng Phụng
- Vũ Tuấn Hoàng
- Vũ Từ Trang
- Vũ Tường
- Vũ Viết Tuân
- Vũ Xuân Tửu
- Vương Bích Ngọc
- Vương Đan
- Vương Hỗ Ninh
- Vương Huy
- Vương Ngọc Minh
- Vương Tiểu Nhị
- Vương Trí Nhàn
- Vương Trọng
- Vương Trùng Dương
- Vương Trung Hiếu
- Vy Thảo
- W. H. Auden
- Wa Praong
- Walt Whitman
- Walter Isaacson
- Wayne Karlin
- Wells
- Wendy Barker
- Wiesiek Powaga
- Wilhelm Schmid
- Will Nguyen
- William Carlos Williams
- William Nee
- William Stafford
- William Stanley Merwin
- Winston Phan Đào Nguyên
- Wislawa Szymborska
- Władysław Reymont
- Wolf Biermann
- Wolfgang Borchert
- Wynn Gadkar Wilcox
- Xie Tao
- Xuân Ba
- Xuân Diệu
- Xuân Dương
- Xuân Đài
- Xuân Minh
- Xuân Phượng
- Xuân Sách
- Xuân Thọ
- Xuân Vũ
- Xương Văn
- Y Chan
- Ỷ Lan
- Ý Nhi
- Y Uyên
- Yanis Varoufakis
- Yevgeny Yevtushenko
- Yên Ba
- Yên Khắc Chính
- Yến Năng
- Yên San
- Yên San Thụy Miên
- Yên Thao
- Yiyun Li
- Yoko Ogawa
- Yōko Ogawa
- Yoko Tawada
- Young Sang Lee
- Yuliya Ilchuk
- Yuno Bigboi
- Yves Sintomer
- Yvette Tan
- Zac Herman
Đọc lại Truyện Kiều
Xem lại một bài viết cách đây mười năm, cùng đọc lại Truyện Kiều trong trí nhớ.
Hiếu Tân
Truyện Kiều là một trong những tác phẩm luôn gợi ra những suy nghĩ mới mỗi lần đọc lại. Hơn hai trăm năm nay, về văn chương Truyện Kiều đã có hàng ngàn lời bình, tán; những khám phá, phát hiện góp vào việc đọc hiểu, thẩm, thụ cảm, thưởng ngoạn vẻ đẹp lộng lẫy của ngôn từ, văn phong, tình tiết, tâm lý. Góp, vì những bình tán ấy thường là hoà hợp, bổ sung cho nhau mà ít khi tranh giành loại trừ nhau, làm cho ta hiểu các tầng ý nghĩa của truyện ngày càng phong phú và sâu sắc thêm. Ngay cả khi các kiến giải khác nhau về cách hiểu, cách đọc một chữ, thì tất cả các lý giải vẫn còn đó bỏ ngỏ để người đọc người nghe tự mình lựa chọn, tâm đắc.
Còn về tư tưởng, triết lý Truyện Kiều? Các học giả chia làm nhiều phe, dùng vũ khí lý luận của mình nhất quyết chiếm lĩnh mảnh đất Truyện Kiều cho riêng mình, bằng cách loại trừ, đánh bại, đánh bạt đối thủ để giành phần thắng. Mỗi bên có cái lý của riêng mình, và Truyện Kiều còn đó.
Hãy hình dung Truyện Kiều là “vườn xuân một cửa”, thì cửa ấy đâu có ngăn cấm một ai. Bước chân vào đấy, ta có thể suy tư về đủ điều, mọi lẽ. Dựa trên những diễn biến, nhưng tâm tình trong truyện, ta có thể trầm tư về lẽ đạo hay ngẫm ngợi lẽ đời, và ta thấy mình có toàn quyền như thế. Còn nếu xác quyết rằng “Chính Nguyễn Du đã nghĩ thế này” hay “đây mới thực là tư tưởng Nguyễn Du”, thì xin hãy dè dặt, chậm rãi một chút. Tôi e rằng Nguyễn Du sẽ mỉm cười lặng lẽ: “Ta quả có viết 3254 câu thơ, nhưng ta có nói gì đâu?”
NGUYỄN DU VÀ THANH TÂM TÀI NHÂN – ĐOẠN TRƯỜNG TÂN THANH VÀ KIM VÂN KIỀU TRUYỆN
Bàn về nội dung và triết lý Truyện Kiều, nhiều học giả cứ vô tư viết: “Nguyễn Du đã để cho Kiều thế này, Nguyễn Du đã chọn cho Kiều thế kia”. Ví dụ: “Nguyễn Du đã không để Kiều lưu lại trong chùa trong quãng đời còn lại”, “Họ cho rằng Nguyễn Du nên nhân đạo hơn hay nên thoát khỏi tư tưởng phong kiến luôn luôn chà đạp đàn bà, bằng cách cho nàng Kiều chết thật”, v.v.
Nhưng thực ra Nguyễn Du có muốn chọn cũng không được, vì Thanh Tâm tài nhân đã chọn rồi. Xin cử một vài ví dụ so sánh:
- “Hai lần Nguyễn Du đã không để cho nhân vật của mình chết” (đính chính: Thanh Tâm tài nhân không để...).
Lần một: Kiều định tự tử trong đêm tân hôn với Mã Giám sinh:
Kim Vân Kiều truyện:
“Kiều thốn đạo: tha phí ngân thảo ngã, ngã nhược tử liễu, tha khởi cam tâm, tất liên luỵ ngã phụ thân. Bãi! Bãi! Phủ đắc nhất tử phóng tại hung trung’ tha đáo tha gia như bất thoả thiếp tử tại tha gia vị trì.”
Kiều ngẫm nghĩ: hắn bỏ tiền ra mua mình, nếu mình chết hắn đâu có chịu ắt rồi liên luỵ đến cha. Thôi, thôi, việc chết không để bụng nữa, đợi hắn về đến nhà, nếu không thoả mình chết tại nhà hắn cũng chưa muộn. (Thanh Tâm tài nhân)
Đoạn trường tân thanh:
“Nghĩ đi nghĩ lại một mình,
Một mình thì chớ hai tình thì sao
Sau dầu sinh sự thế nào
Truy nguyên chẳng kẻo luỵ vào song thân”
(Nguyễn Du)
Lần hai: (Ở nhà Tú bà, sau khi tự tử không thành, mơ gặp Đạm Tiên)
Kim Vân Kiều truyện:
“Kiều tưởng đạo tiền sinh nghiệp trái, kim nhật vị hoàn, hựu tăng lai sinh nhất trùng oan trái, hà thời hoàn đắc can tịnh.”
Kiều thầm nghĩ: nợ kiếp trước đến giờ chưa trả, lại để kiếp sau nợ chồng lên một tầng nữa, thì bao giờ gỡ cho xong.
(Thanh Tâm tài nhân)
Đoạn trường tân thanh:
Kiếp này nợ trả chưa xong
Làm chi thêm một nợ chồng kiếp sau
(Nguyễn Du)
Nguyễn Du đã chọn cho nhân vật của mình giải pháp sống lại (đính chính: Không phải Nguyễn Du mà Thanh Tâm Tài Nhân chọn).
Kim Vân Kiều Truyện:
“Đạm Tiên vị kiều tòng tiền khổ dĩ lịch tận, kim nhật kiếp hựu tiêu hoàn, tự thử phúc lộc chung thân, tình duyên như ý, đoạn trường hội tạc dĩ trừ danh, đoạn trường thi kim đương phụng bích”
Đạm Tiên bảo Kiều khổ trước đã hết, kiếp này được toàn vẹn, từ đây cả đời được phúc lộc, tình duyên như ý, hội đoạn trường đã xoá tên, thơ đoạn trường nay mang trả lại. (Thanh Tâm tài nhân)
Đoạn trường tân thanh:
Đoạn trường sổ rút tên ra
Đoạn trường thơ phải đem mà trả nhau
Còn nhiều hưởng thụ về sau
Duyên xưa tròn trặn phúc sau dồi dào
(Nguyễn Du)
Qua đây, có thể thấy Nguyễn Du đã theo khá sát cốt truyện của Thanh Tâm tài nhân. Tôi không đồng ý với những người cho rằng Nguyễn Du đã phóng tác ra Truyện Kiều. Khi nói đến những đỉnh cao tư tưởng xuất phát từ nội dung, cốt truyện Truyện Kiều, ta nên thận trọng trừ bớt đi phần của Thanh Tâm tài nhân, phần còn lại mới đích thực là của Nguyễn Du.
Hãy xem đoạn tả cuộc đối thoại Kiều - Kim trong đêm tân hôn:
Kim Vân Kiều truyện:
“Dĩ lang ái thiếp chi cách ngoại, cố hàm tu dĩ tương tòng, nhược bất cập vu tiết hiệp, sử thiếp vong tình thượng khả lược thi nhan đối quân tử. Nhược tất dĩ thiếp thụ nhục chi thời giả nhục thiếp, thị phi ái thiếp dã, cừu thiếp dã”
(Chàng yêu thiếp lối bên ngoài, thì thiếp cố gượng theo chàng, nếu không đến nỗi suồng sã quá trớn, không đến nỗi để thiếp quên tình, thì thiếp có thể mở mặt hầu quân tử. Còn như cứ lấy những điều thiếp đã bị nhục trước đây để sỉ nhục thiếp, thì không còn là yêu thiếp nữa, mà là thù thiếp đấy).
Chỗ này Đoạn Trường Tân Thanh viết thế nào:
Những như âu yếm vành ngoài
Còn toan mở mặt với người cho qua
Lại như những thói người ta
Vớt hương dưới đất, bẻ hoa cuối mùa
Cũng nhơ dở nhuốc bày trò
Còn tình đâu nữa chỉ thù ấy thôi!
Cùng một ý tưởng, mà một bên thì cục mịch, thô vụng; một bên thì ý nhị rõ ra ngôn ngữ của người có tâm hồn, và có học. Kiều của Thanh Tâm tài nhân là một cô gái điếm hoàn lương, rất nhạy cảm với vết ô nhục cũ chỉ sợ đến một lúc nào đó chàng Kim lại coi thường mình, giở những nỗi nhục cũ ấy ra mà làm mình nhục thêm lần nữa: đó là suy nghĩ thường tình của người trong cảnh ngộ ấy. Hai chữ “tiết hiệp” (“suồng sã, quá trớn, khinh lờn”) có ý ngăn đe, “chặn trước” khiến người đối thoại không khỏi cảm thấy ê chề.
Kiều của Nguyễn Du tự thẹn mình không còn “phong nhuỵ” để đối đãi tình nhân, Người yêu ta xấu với người, tuy rằng từ trong sâu thẳm cõi lòng trong sạch, Kiều luôn xứng đáng với Kim Trọng, như Phạm Quí Thích đã viết “Băng tâm tự khả đối Kim lang”. Ấy là vì nàng trân trọng mối tình cũ, đặt nó ở vị trí quá cao nên không muốn đem thân mình đã lấm bụi trần dự vào chuyện chăn gối làm thấp nó đi. Và nàng cũng rất hiểu người tình, hai bên đúng là “tương tri dường ấy mới là tương tri” không làm gì có cái ý “xấu với người thì người xấu lại”.
Người yêu ta xấu với người
Yêu nhau thì lại bằng mười phụ nhau.
Kiều không e sợ bị chàng đối xử thế nào, mà chỉ lo mình không còn đủ tư cách đáp lại tấm tình cao quí ấy. Xấu ở đây là xấu hổ, chàng vì quá yêu mà thiếp cố theo, miễn cưỡng mà theo thì khác gì phụ nhau.
Cái giống và cái khác, cái chung và cái riêng giữa hai văn bản là thế. Về nội dung, cốt truyện giống nhau đến từng chi tiết. Cái khác ở đây là khác giữa một câu chuyện kể thường với một kiệt tác văn chương, khác nhau về chiều sâu tâm lý, khác nhau giữa thơ và cái không thơ.
TRUYỆN KIỀU: HIỆN THỰC VÀ SIÊU HÌNH
Trong Truyện Kiều có hai mạch chuyện: mạch nổi và mạch ngầm.
Mạch nổi là cái mà ta có thể thấy bằng con mắt trần tục:
· Bọn sai nha gây oan khổ cho nhà Vương viên ngoại, đẩy Kiều đến bước bán mình;
· Mã Giám sinh, Tú Bà, Sở Khanh mưu mô hại đời Kiều;
· Hoạn Thư hiểm ác và cay nghiệt đày đoạ, Thúc sinh thực lòng yêu thương cứu chuộc, bà quản gia, vãi Giác Duyên thương tình cứu vớt;
· Từ Hải nâng nàng lên cao đỉnh chót vót vinh hoa và quyền thế;
· Hồ Tôn Hiến đạp nàng xuống đáy ô nhục.
Tất cả mọi khổ đau của Kiều đều có nguyên nhân trực tiếp do những con người bằng xương bằng thịt gây ra, nếu ta nhìn sự vật bằng con mắt tự nhiên của những người chưa bị vướng bận với những học thuyết về bản thể, sự vật thế nào cứ để nguyên như thế, không thêm bớt cái gì từ bên ngoài vào, và xét đoán mọi người mọi việc bằng lương tri thông thường. Từ cách nhìn này, thấy rõ ngườì lành kẻ ác, kẻ hèn hạ người cao thượng. Trước mỗi nhân vật, mỗi cảnh ngộ, Nguyễn Du đều bày tỏ bộc trực hay thâm thuý thái độ của mình, và những tâm cảm ấy qua lời thơ mà truyền vào người đọc, người nghe. Đối với người đọc bình thường, thế cũng đủ đáp ứng nhu cầu về phương diện nhận thức thực tại.
Một số lý luận gia “có tinh thần chiến đấu” muốn đi đến một kết luận khái quát đậm màu chính trị, mà Xuân Diệu là một trường hợp điển hình. Trong “Bản cáo trạng cuối cùng trong truyện Kiều” [i] chúng ta được thấy mối cảm thương trái khoáy của ông đối với nàng Kiều, và ngợi ca nhầm chỗ đối với Nguyễn Du. Trái khoáy và nhầm chỗ, bởi vì cái “sáng tạo thêm rất lớn” của Nguyễn Du. không phải ở “bản cáo trạng cuối cùng” do Xuân Diệu tưởng tượng ra một cách nực cười vì nó không đúng, mà ở hình tượng một nàng Kiều độc đáo, sâu sắc mà sự lựa chọn đã nâng nàng lên cao hơn tầm nghĩ của hàng “nữ nhi thường tình”. Điều đó có được chính là nhờ tài nghệ ngữ ngôn của một Nguyễn Du trác việt.
Xuân Diệu lo cho nàng Kiều “ba mươi tuổi sẽ sống như thế nào, thực chất là không chồng không con cho đến hết đời.” Chính Nguyễn Du đã nói rõ điều này: “Một nhà phúc lộc gồm hai”, nhưng Xuân Diệu không chịu nhận đó là hạnh phúc thực sự, vì nó là “buộc gioa”, tư sản, dù ông không hỏi Nguyễn Du và Kiều xem nàng có thoả nguyện với cái phúc lộc “buộc gioa” ấy không? Còn lại một điều là Xuân Diệu xót xa cho cái cảnh “chay tịnh”, “tình mà không dục” của Kiều cho đến hết đời. Nhưng đây chính là sự lựa chọn tự do của Kiều, đem nó ra làm cáo trạng để tố cáo xã hội, thật ra đã hạ thấp nàng Kiều ở cuối câu chuyện, từ vị trí một người ung dung làm chủ đời mình và thân mình, sống cái đời mà tự mình đã chọn, xuống thành ra một nạn nhân có cảnh ngộ và tâm trạng tủi nhục đáng thương; và như vậy, cái ý nghĩa của đoàn viên, tái hồi chẳng còn lại gì, cái kết có hậu lại thành không hậu. Cái đau hão, thương hờ của Xuân Diệu ở đây chỉ càng chứng tỏ ông không hiểu cả Kiều và Nguyễn Du.
Nhà thi sĩ mơ mộng xưa kia có lần đứng giữa đất trời mà cảm nhận cái huyền vi của “không gian như có dây tơ, bước đi sẽ đứt động hờ sẽ tiêu” lúc này hăm hở chiến đấu cho một lý tưởng “chống áp bức bóc lột”, lại đưa ra những ý tưởng thô thiển, kỳ cục và thật chẳng thơ chút nào.
Nhà thơ cho rằng mình đang chống áp bức bất công của xã hội. Tốt lắm. Vấn đề là bằng cách nào? Bằng cái lối của kẻ độc quyền chân lý: vơ nhận tất cả cái cao đẹp về phía mình và tống tất cả cái xấu xa bị ổi sang phía địch, cuộc “chiến đấu” thật quá dễ dàng.
Cái lôgích ở đây khá đơn giản: Chúng ta (tức là Xuân Diệu) tuyên chiến với mọi xã hội (cũ) áp bức bất công. Và Nguyễn Du, thi hào lớn của dân tộc, trong Truyện Kiều đã lớn tiếng tố cáo những tàn ác bất công của xã hội phong kiến. Có được một Nguyễn Du thiên tài làm đồng minh thì còn gì bằng. Ở đây cũng như nhiều nơi khác, sự tiện lợi là chân lý.
Với những luận đoán ấy, cách cảm cách nghĩ ấy, Xuân Diệu không phải là đơn độc trong cái thời đồng thanh đồng phục về tư tưởng, phần nhiều nặng về khẳng định lập trường chính trị của bản thân hơn là đưa ra những kiến giải, lập luận có tính khoa học. Với những nhà “chiến sĩ tư tưởng” ở những mức độ tự nguyện khác nhau ấy, chỉ xin có một câu hỏi thực tiễn cho mọi lý luận cao siêu: Vậy thì sau chừng ấy năm, cái xã hội lý tưởng không có người bóc lột người của quý vị, nó đang ở đâu rồi?
Cái mạch thứ hai trong Truyện Kiều, cái mạch ngầm, cũng khá rõ nét: bóng ma Đạm Tiên một lần hiển hiện và ba lần báo mộng là một sợi tơ xuyên suốt cuộc đời chìm đắm của Kiều, một thày phù thuỷ cao tay “phi phù trí quỷ”, một bà Tam Hợp đạo cô nhìn rõ bước đường đời vị lai của Kiều mà như đọc từ sách ra, đúng đến từng chân tơ kẽ tóc.
Mạch ngầm này phải được lý giải bằng thuyết siêu hình. Có hai thuyết được nhắc đến nhiều: thuyết “Tài mệnh tương đố” và thuyết nhân quả nhà Phật.
Thuyết “Tài mệnh tương đố” đậm màu sắc định mệnh, thật ra là một thứ triết lý của giới nho sĩ tài tử – đặc biệt những người đồng thời Nguyễn Du, hoặc sau một chút – là nơi gửi gắm tâm sự của những con người tự thấy mình có tài mà không thoả chí, tự cho mình lao đao lận đận vì tài. Ta có thể tán đồng hay bác bỏ nó, nhưng không thể phủ nhận sự có mặt của nó trong Truyện Kiều, từ nội dung đến hình thức, kết cấu, từ cốt truyện đến ngôn ngữ. Khác với các thuyết khác, thuyết này có một đặc điểm gọi là “đồng bệnh tương liên” của những người cùng hội cùng thuyền: Kiều khóc Đạm Tiên, Tố Như khóc Kiều, ba trăm năm nữa ai người khóc Tố Như? Chữ khóc ở đây không đơn giản đâu, khóc thương thì ai cũng khóc được, nhưng tiếng khóc của Trần Dần, Văn Cao chẳng hạn, khác với tiếng khóc của Tố Hữu, Xuân Diệu... nhiều lắm. Tất nhiên những Trần Dần, Phùng Quán, Phùng Cung, Bùi Ngọc Tấn, cũng như những M. Bulgakov, B. Pasternac, v.v. những tài hoa của thời hiện đại biết rõ tai hoạ của mình đến từ đâu, nên họ không kêu “trời xanh”, “hoá công” hay “con tạo” làm gì cho mất công; nhưng đó là vấn đề thời đại. Chỗ nương dựa của chủ nghĩa định mệnh là những “hoạ phúc khôn lường” trong thế gian, những chuỗi ngẫu nhiên của đời sống vô thường trước sự bất lực của lý trí, ở người thường thì không sao, nhưng hễ rơi vào những bậc tài hoa lỗi lạc thì luôn gợi lên lòng thương cảm mênh mang nơi những ai biết giá trị của “Tài” mà không làm được gì khác hơn là oán “Mệnh”.
Xem thân thế và văn chương Nguyễn Du, ta thấy cái tâm sự này xuất hiện hơi nhiều.
Nghĩ về mình:
“Bản vô văn tự năng tăng mệnh/ Hà sự càn khôn thác đố nhân?”
(Văn chương vốn chẳng căm hờn mệnh/ Cớ chi trời đất ghét ghen người – Bùi Hạnh Cẩn dịch). Độc Tiểu Thanh ký: “Phong vận kỳ oan ngã tự cư” (Ta tự thấy mình trong nỗi oan lạ lùng của con người phong vận)
Viếng mộ Đỗ Phủ:
“Nhất cùng chí thử khởi công thi”
(Có phải vì thơ hay nên mới nghèo đến thế)
Và sâu đậm hơn cả, thống thiết hơn cả chính là Truyện Kiều, đã nói hộ tâm sự của bao lớp ngườì, như Phạm Quí Thích, người bạn tâm giao của Nguyễn Du đã viết:
“Nhất phiến tài tình thiên cổ lụy, Tân thanh đáo để vị thuỳ thương?”
(Một mảnh tài tình là cái lụy chung của muôn đời, vậy thì cuốn Tân Thanh này cốt để thương xót ai?)
Về thuyết nhân quả của Phật giáo, chúng ta còn có dịp xem xét kỹ dưới đây.
SỰ LỰA CHỌN CỦA KIỀU TRÊN HAI BÌNH DIỆN
Trong đời mình, Kiều không phải con người thụ động mà luôn tự mình lựa chọn, quyết định. Ta có thể xem xét các lựa chọn của Kiều trên hai bình diện: hiện sinh và siêu hình.
Trên bình diện hiện sinh, con người hoàn toàn tự do (“buộc phải tự do”) lựa chọn hành vi thái độ của mình, mỗi lựa chọn cho thấy Ta là ai, Ta thế nào (“không phải lựa chọn hoàn cảnh cho TA, mà lựa chọn TA cho hoàn cảnh”)
Trên bình diện siêu hình, theo lý thuyết nhân quả và nghiệp của Phật giáo, lựa chọn là lựa chọn lấy một cái nhân và rồi quả sẽ đến sau, nhân nào thì quả ấy, lựa chọn bây giờ là nhân của mai hậu, hoạ phúc trong vị lai. Trần Trọng Kim viết:
“Theo cái lý thuyết ấy, thì phàm phúc hay họa là ở tự mình gây ra cho mình. Mình đã có cái hoàn toàn tự do mà làm việc thiện hay việc ác, thì mình lại có hoàn toàn trách nhiệm về những việc ấy”.
Lựa chọn đầu đời của Kiều là lựa chọn tình yêu:
Rằng trong buổi mới lạ lùng,
Nể lòng có dễ cầm lòng cho đang.
Chót lòng quân tử đa mang,
Một lời vâng tạc đã vàng thuỷ chung.
Cái lý lẽ “vì buổi mới lạ lùng nên khó lòng chối từ” nghe mới thật lạ lùng, nhưng nó thật dễ thương vì đúng là lý lẽ của con tim.
Trong sự lựa chọn ấy, ta thấy một nàng Kiều say đắm nhưng tự tin, thanh thoát và dường như cảm thấy được hoàn toàn tự do. Trong suốt quãng ngày đêm nhớ nhung, hò hẹn, kể cả ban ngày “Gót sen thoăn thoắt dạo ngay mái tường” lẫn ban đêm “Xăm xăm băng nẻo vườn khuya một mình” nàng chỉ nghĩ đến tình yêu và người yêu, không một thoáng bận lòng về những trói buộc cấm đoán của lễ giáo hay những đe doạ của miệng lưỡi thế gian. Đây là điều mà các nhà nho chính thống không thể nào chấp nhận, họ nổi xung vì trong cái vòng lễ giáo của họ, người phụ nữ làm gì có quyền tự do chọn tình yêu và hôn nhân cho mình. Sau Nguyễn Du cả gần thế kỷ mà những bậc quân tử ở ta còn cho rằng đạo đức chỉ là tuân phục sự cấm đoán, mà hành vi đẹp nhất là biết tự cấm mình “Khoan khoan ngồi đó chớ ra/ Nàng là phận gái ta là phận trai”, thì quả thật hành vi của Kiều đã vượt lên trên những dây dợ lằng nhằng của thời đại mình mà trở thành biểu tượng đẹp của tình yêu muôn thưở.
Trong cả đoạn thơ 22 câu (từ câu 501 đến câu 522) “Thưa rằng đừng lấy làm chơi… Còn thân còn một đền bồi có khi” – lời nàng Kiều khuyên ngăn Kim Trọng giống như một bài thuyết giảng đầy chữ nghĩa, ta thấy nàng là người có suy tư sâu sắc chứ không phải nặng tình mà nhẹ lý như có người nhận xét. Cũng là theo những ước lệ về “chữ trinh”, “bố kinh”, “tòng phu”, nhưng thấu đáo hơn, nàng cốt giữ cho tình yêu được vẹn toàn, những chữ “chán chường”, “rẻ rúng” cho thấy cái từng trải, nhìn xa của cô gái mới chớm tuổi “cập kê” đã không hoàn toàn là “vị thành niên” nữa. Về phương diện tình dục, trong suy nghĩ của Kiều, không phải bao giờ cũng chỉ đơn giản một chữ “không”. Trong đêm “tân hôn” trớ trêu với Mã Giám sinh, Kiều đã hối tiếc “Biết thân đến bước lạc loài, nhị đào thà bẻ cho người tình chung” cái ý nghĩ thầm kín nhưng rất táo bạo – ước vọng quyền tự do, làm chủ đối với thân xác của mình – nhất định sẽ bị các nhà đạo đức Khổng giáo kết tội là hư đốn, vì cam chịu và vâng phục mới là chuẩn mực đạo đức mà họ đề ra cho người nữ. Trong hành vi này Kiều có nét điển hình của người phụ nữ Phương Đông: yêu thiên về cho - hiến tặng, không màng nhiều đến nhận - thụ hưởng. Đây cũng là một nội dung chữ TRINH của nàng, ham muốn tình dục được dẫn dắt, định hướng bằng lý trí hơn là bản năng. Để ý đến tính nhất quán trong hành vi, ngôn ngữ, tâm lý của nhân vật Thúy Kiều từ lần gặp gỡ đầu tiên với Kim Trọng đến khi tái hồi như nhắc đến ở trên, ta càng thêm thán phục thiên tài Nguyễn Du.
Lựa chọn lớn nhất trong đời Kiều là “bán mình chuộc cha” cứu được gia đình nhưng đã đẩy nàng vào một bước ngoặt tăm tối trong đoạn đời tiếp theo với biết bao đau đớn nhục nhã giày vò. Khi lâm sự, Kiều là người dám có những quyết định khốc liệt. Nàng đã ba lần chọn cái chết. Hai lần định quyên sinh để giữ trọn danh tiết (lần một: ở Phường trọ với Mã Giám sinh “Cầm dao nàng đã toan bài quyên sinh/ Nghĩ đi nghĩ lại…”, lần hai: trong tay Tú Bà “Thôi thì thôi có tiếc gì/ Sẵn dao tay áo tức thì giở ra”) đó là những lựa chọn của phẩm giá (“Đến điều sống đục sao bằng thác trong”) nên không thể coi là tiêu cực. Lần cuối ở sông Tiền Đường, cái chết là lối thoát duy nhất sau những đớn đau nhục nhằn cùng tột của kiếp người. Hai lần nàng đã chọn lầm khi mong dựa vào người khác để tìm kế thoát thân khỏi chốn ô nhục: một lần với Sở Khanh “Cũng liều nhắm mắt đưa chân” là đưa chân vào cạm bẫy, một lần với Thúc sinh:
“Thương sao cho trọn thì thương
Tính sao cho vẹn mọi đường thì vâng”
thì kết cục là không trọn vẹn, và rất nhiều lần, trong nhiều hoàn cảnh (với mẹ Hoạn Thư, với Bạc Bà, Bạc Hạnh, với Hồ Tôn Hiến sau cái đêm hạ công ấy) nàng không hề được lựa chọn.
Những lựa chọn của nàng Kiều cho thấy nàng là một người đàn bà không tầm thường, vì dám sống bằng những ý nghĩ của riêng mình, dám là chính mình. Trên kia ta đã nhắc tới một nét tính cách điển hình của phụ nữ Phương Đông trong tình yêu. Trong tính cách của phụ nữ Phương Đông, còn có một nét khác cũng rất điển hình, đôi khi được hiểu như một đức hy sinh cao cả: đó là sự cam chịu nhẫn nại, suốt đời âm thầm như một cái bóng của người khác, của những người khác (cha, chồng, con), suốt đời sống cho người khác mà chưa một lần sống cho riêng mình. Kiều không thuộc type này.
Dù là lựa chọn hành vi ứng xử hay đường đi nước bước, từ những toan tính, đắn đo, hay trước thúc ép của hoàn cảnh, mỗi lựa chọn của Kiều một mặt dẫn đến bước tiếp theo trong số phận của nàng, mặt khác cho ta thấy Kiều là Kiều.
Trong các lần lựa chọn của nàng, có một lần sai lầm chết người: đó là lần xui Từ Hải ra hàng để rồi chui đầu vào thòng lọng của Hồ Tôn Hiến. Lựa chọn đó rốt cuộc đưa đến cái chết và làm tiêu vong sự nghiệp của Từ. Đối với một anh hùng như Từ Hải, trong chiến trận thắng bại sống chết tưởng cũng là chuyện thường. Riêng hình ảnh một Từ Hải “Khí thiêng khi đã về thần/ Nhơn nhơn còn đứng chôn chân giữa vòng” là dấu hỏi khủng khiếp chất lên lương tâm nàng Kiều – Lầm lỡ hay phản phúc? Thật dạ hay hai lòng? – và chỉ câu trả lời của nàng “thà cùng sống chết một ngày với nhau” mới giải được cái khí uất ngất trời kia, để Từ đi về nơi chín suối mà không phải ôm hận đã chết dưới tay nàng. Ý này đã hai lần dội lại lương tâm nàng Kiều, “Trong mình nghĩ đã có người thác oan”, và “Giết chồng mà lại lấy chồng” lương tâm nàng tự gánh lấy trách nhiệm do lầm lỡ trong lựa chọn của mình.
Trong các mối quan hệ, chẳng phải Kiều không bao giờ được người khác nghe và hiểu. Kiều đã được Hoạn thư nghe (cho ra ở Quan âm các). Thúc sinh lúc đầu cũng có ý định nghe (lời khuyên của Kiều), nhưng sau tự ý làm trái là do nhu nhược và vụng dại – điều mà Kiều đã tiên cảm. Chính vì Kiều được nghe mà những lựa chọn của Kiều mới được thực hiện, và dở hay thế nào, chính nàng phải chịu trách nhiệm, có khi không chỉ với bản thân nàng. Những lần lựa chọn mà không được nghe là những lựa chọn phản kháng. Còn những Tú Bà, Hoạn Bà, Bạc Bà, chẳng ai nghe lời cầu xin của Kiều, chính vì Kiều ở thân phận đang bị cưỡng bức, tuy sự cưỡng bức này cũng chỉ ở phạm vi dân sự. Chỉ dưới mắt Hồ Tôn Hiến, ta mới thấy cái thân phận hèn mọn của Kiều, kẻ không còn cái gì cả, ra sao dưới mắt cường quyền. Về phần Từ Hải, Từ Hải chưa hề tỏ ra không nghe lời Kiều, trừ cái lần “quyết lòng dứt áo ra đi”, cười rằng “Tâm phúc tương tri/ Sao chưa thoát khỏi nữ nhi thường tình” (mà không nghe như thế là đúng!). Trong cái mối tâm phúc tương tri ấy, Từ không phải lúc nào cũng chiều theo ý Kiều, nhưng luôn luôn hiểu cả đến những nỗi niềm sâu kín của nàng: “Xót nàng còn chút song thân/ Bấy lâu kẻ Việt người Tần cách xa”. Ngược lại, Kiều đã không thật sự hiểu Từ, để có lúc thì tán dương và khích lệ “Tấn Dương được thấy mây rồng có phen” rồi có lúc lại cảnh tỉnh “Nghìn năm ai có khen đâu Hoàng Sào”. Hồ Tôn Hiến đã biết đánh vào chỗ yếu nhất của cặp anh hùng - giai nhân này: Đứng trước nguy cơ và thử thách (sự chiêu hàng của Hồ Tôn Hiến) mà tâm tư hai người không đồng điệu:
Từ Hải:
Bó thân về với triều đình
Hàng thần lơ láo phận mình ra đâu?
Kiều:
Cũng ngôi mệnh phụ đường đường
Nở nang mày mặt rỡ ràng mẹ cha.
Hai hướng suy nghĩ ngược chiều nhau về cùng một khía cạnh của vấn đề: viễn cảnh của giải pháp ra hàng. Cuối cùng thì chàng đã nghe nàng và... ra hàng, và chết! Nếu lần này Từ Hải quyết đoán hơn và không nghe cái tâm sự nữ nhi thường tình kia, thì sự nghiệp của Từ chưa biết thế nào, (“sức này đã dễ làm gì được nhau”) có thể cũng sẽ tan vỡ, nhưng mối tình của hai người chắc không chia lìa, và cái ước nguyện “thà cùng sống chết một ngày với nhau” chắc có cơ thực hiện được.
Sự thiếu nhất quán trong tâm tư Kiều là điều hoàn toàn có thể hiểu được. Sau bao nhiêu sóng gió dập vùi, bao nhiêu bất trắc khôn lường, từ trong sâu thẳm tâm can, khát khao cháy bỏng nhất của nàng là khát khao cuộc sống yên bình, như mọi người dân thường. Đi theo Từ Hải, nàng đã cảm tất cả cái bấp bênh của kiếp phù hoa. Mong muốn của nàng chỉ là đánh đổi cái vinh hoa phú quí bấp bênh này lấy cái địa vị vững vàng bình ổn của một danh nghĩa chính thống. Những ngôi mệnh phụ, những phu quí phụ vinh, những rỡ ràng mẹ cha chẳng qua là cái hệ quả kéo theo nếu mong ước kia thành sự thật. Nàng biết đâu rằng cái bất trắc khủng khiếp nhất, sự dập vùi tàn tệ nhất đang rình nàng ở phía trước, trong những lời mời gọi đường mật kia. Nhưng Từ Hải, một khi đã dấn thân vào cuộc chơi, đã “rạch đôi sơn hà” Từ thừa hiểu cuộc đổi chác đâu có đơn giản như vậy. Dựng lên một nhân vật Từ Hải phản loạn trên đường đời của Kiều, dù có ý thức hay không, (những) người viết Truyện Kiều cũng đã đặt ra vấn đề chính thống và phản kháng. Và ở đây đã thể hiện toàn bộ mâu thuẫn trong tư tưởng Nguyễn Du. Giọng thơ của ông chưa bao giờ sảng khoái hào hùng như khi ngợi ca Từ Hải, và ai bảo cái chí
Phong trần mài một lưỡi gươm,
Những phường giá áo túi cơm sá gì.
không phải là của chính Nguyễn Du? Và rồi những “thánh trạch dồi dào”, “năm mây chiếu trời” làm ta thấy sự kính cẩn của ông đối với cửu trùng, niềm tin của ông vào cái vĩnh cửu chính thống “Bốn phương phẳng lặng hai Kinh vững vàng” vẫn không hề lay chuyển.
Để nhận rõ hơn thân phận nàng Kiều, chúng ta hãy xem những bộ mặt người đứng bên kia – những nguyên nhân trực tiếp của mọi nỗi thống khổ của nàng – qua cách miêu tả cũng là lối thể hiện thái độ của Nguyễn Du. Với Mã Giám sinh, Tú Bà, Sở Khanh, đó là những tiếng chửi dân dã: “giống hôi tanh”, “mặt mo”, “phường bán thịt, quân buôn người”. Bộ mặt Hồ Tôn Hiến thì lại được phác thảo trang trọng, uy nghi nhất: “Quan Tổng đốc trọng thần”, “kinh luân gồm tài”, “vâng chỉ đặc sai”. Trong khi những Tú Bà, Mã, Sở... là phản diện, thì Hồ Tôn Hiến là hình ảnh chính diện, đại diện chính thức của xã hội phong kiến. Ta đừng nên suy diễn theo lối dân gian gán cho hai chữ “quân tử” mọi nghĩa tốt đẹp ở đời để rồi gọi Hồ Tôn Hiến là nguỵ quân tử là không đúng: Hồ Tôn Hiến đáp ứng đầy đủ nội dung của các định nghĩa của Khổng Tử về “quân tử”. Tề gia, trị quốc, bình thiên hạ! Tu thân ư? Thì Hồ đã biết hổ thẹn cho cái phương diện quốc gia của mình sau khi chung đụng với gái giang hồ là nàng Kiều:
Phải tuồng trăng gió hay sao?
Hỡi ôi, chính cái nỗi hổ thẹn của Hồ Tôn Hiến mới thật sự chôn vùi vĩnh viễn nàng Kiều, mới diệt trừ tận gốc mọi niềm kiêu hãnh làm người của nàng, mới cho nàng nếm trải đến cái nhục nhã tột cùng của kiếp người. Sau cái lằn mức đó thì cái chết xem ra là giải thoát nhẹ nhàng thanh thản nhất.
Thái độ nàng Kiều trong cái đêm oan nghiệt ấy mới thật lạ lùng. Một nàng Kiều biết phản kháng và dám phản kháng, giờ chỉ còn khóc lóc và tuân phục. Một nàng Kiều có tâm hồn cực kỳ mẫn cảm, bây giờ như một cái máy vô hồn nhất nhất theo lời người khác.
Đôi hàng nước mắt đôi làn sóng,
Nửa đám ma chồng nửa tiệc quan
Tổng đốc ví thương người bạc phận
Tiền Đường chưa chắc mả hồng nhan
Cái bi phẫn của nhà nho thi sĩ kia về cách hành xử của nàng Kiều đêm ấy, dù hơi quá cay độc, chưa hẳn là không có lý. Tất cả diễn ra vào cái đêm ngay sau buổi chiều mà Kiều phục xuống tạ tội với Từ. Từ Hải, đối với Kiều, còn hơn một người chồng.
Người ta nói đến việc Kiều ngang nhiên ca tụng Từ Hải trước mặt Hồ Tôn Hiến. Và rồi người ta không thể hiểu nổi, và linh hồn Từ Hải sẽ ngỡ ngàng biết bao trước cái cảnh người phu nhân yêu dấu “tâm phúc tương tri” vốn được Từ vớt ra khỏi bụi lầm đưa lên ngôi hiển quý, nay đang hạ mình xin xỏ lòng thương hại nơi kẻ thù của Từ
Xin cho thiển thổ một đôi,
Gọi là đắp điếm lấy người tử sinh.
Ta nên lưu ý điều này: Hồ Tôn Hiến, với danh nghĩa chính thống đã tiêu diệt Từ, dập tắt Từ, là kẻ thù của Từ Hải, nhưng trước sau chắc chắn không hề là kẻ thù của Kiều. Hồ Tôn Hiến có ghi công nàng trong thắng lợi của mình. Kiều cũng đã nhận công ấy, dù chỉ là “công ít, tội nhiều”. Tam Hợp đạo cô cũng nhắc công ấy khi nói đến phán xét của Trời “hại một người cứu muôn người”. Nghĩa là cái việc vô tình của Kiều khi khuyên Từ Hải ra hàng, bây giờ trở thành hữu ý. Từ Hải và triều đình (thông qua Hồ Tôn Hiến) là hai phe đối nghịch. Vậy Kiều đứng về phe nào? Câu hỏi này xin gửi cụ Nguyễn Du. Không, Kiều không lựa chọn.
Một số nhà phê bình như Hoài Thanh cho rằng Từ Hải là hình bóng một lãnh tụ khởi nghĩa, và hình tượng Từ là giấc mơ tự do, mơ công lý. Đúng, chỉ đến khi với Từ Hải, Kiều mới có tự do, và mượn quyền uy của Từ, Kiều đã có lần nắm lấy cán cân công lý. Không sai, nếu ta cho rằng đây chính là giấc mơ của Nguyễn Du. Qua giấc mơ này, quyền làm người của Kiều đã được lập lại sau bao tan nát.
Bây giờ ta hãy xét cái quyền làm người ấy đã được tiếp nối thế nào dưới tay Hồ Tôn Hiến. Dưới mắt Hồ Tôn Hiến, Kiều là ai? Dĩ nhiên, sau khi (Từ Hải) thất trận, Kiều không hề là đại vương phu nhân, là người đàn bà tài trí “cũng dự quân trung luận bàn” mà nhờ đó kế của Hồ mới thành. Hồ công cũng có “ân cần hỏi han”, cũng “thương tình” nghe lời xin của Kiều mà cho quấn cỏ quanh xác Từ Hải vùi sơ sài ven sông. Rồi khi bắt nàng “thị yến dưới màn/ Dở say, lại ép cung đàn nhặt tâu”, rồi đến lúc “rạng ngày nhớ ra”, tất cả những việc mà người đời bảo là “dở trò dâm ô” ấy, Hồ làm một cách điềm nhiên, thản nhiên đến thế, ta mới hiểu ra rằng: dưới mắt Hồ, Kiều chỉ là một con hát, không hơn, không kém. Đó là điểm rơi của Kiều, kể từ khi mơ “được thấy mây rồng”, đến khi “phỉ nguyền sánh phượng đẹp duyên cưỡi rồng”, rồi lên nữa, đã có lúc cùng Từ Hải sánh vai ngồi giữa trướng hùm, lên đến đỉnh tót vời của tự do ý chí: vung ngàn vàng báo ân và hạ lưỡi đao báo oán, thì giờ đây: thân cát bụi lại trở về cát bụi, cái tấm thân khiến người dính dáng đến nó phải hổ thẹn, tìm cách xí xoá là gả cho thổ quan để đáp lại cái nguyện ước nhỏ nhoi của nàng “được thấy gốc phần là may”.
Khi bị Hoạn Thư vùi liễu dập hoa, làm cho không ngẩng được mặt lên, Kiều đau hơn là nhục, cái đau bị chia uyên rẽ thuý hơn là cái đau thể xác. Ghen với Kiều, Hoạn Thư còn coi Kiều là đối thủ, là tình địch, và những mưu chước hiểm ác lạ đời kia chính là để đối phó với sức quyến rũ mê hồn của Kiều mà Hoạn Thư tự biết mình không sánh nổi. Với Hồ Tôn Hiến, Kiều không có cái hân hạnh ấy. Từ Hải bị tiêu diệt, thân phận Kiều trở về con số không. Kiều đã được ân cần hỏi han ý kiến, và khi nghe cái ước nguyện của Kiều chỉ là
Hơi tàn được thấy gốc phần là may
thì đây
Quyết tình, Hồ mới đoán ngay một bài.
Lệnh quan ai dám cãi lời,
Ép nàng mới gán cho người thổ quan.
Phải rồi, lệnh quan thì ai dám cãi, và mọi đau đớn dập vùi chỉ là do ông tơ kia đã vơ quàng vơ xiên!
Hoạn Thư khi xem qua tờ thân cung biết được cảnh ngộ của Kiều, đã động lòng trắc ẩn
Rằng: tài nên trọng mà tình nên thương
cho ra ở Quan Âm Các, cách giải tình thế của Hoạn Thư cũng là mở cửa cho Kiều. Quyết sách của Hoạn Thư thật là sâu sắc: để cách ly Kiều, còn gì hay bằng cho nhờ Cửa Không, nếu thành tâm theo Phật, lửa lòng nào chả tắt! Đó chính là nguyện ước của Kiều, mà Kiều không theo được. So sánh với cách hành xử sau này của Kiều khi muốn báo oán, thi sĩ Bùi Giáng đã hài hước cho rằng Hoạn Thư có chỗ còn “quân tử” hơn Kiều. Vâng, ông thật chí lý, nếu như các nhà nho ta có thể nuốt trôi cái khái niệm “quân tử-gái”, thưa Bùi tiên sinh!
Sau khi
Kiệu hoa áp thẳng xuống thuyền
số phận Kiều diễn biến thế nào ta đã biết. Để thoát ra khỏi cái tình thế khó xử (sự này biết tính thế nào được đây?) Hồ đã quyết một bài được một công đôi việc: thổ quan được trả công hậu hỹ, mà cái “phương diện quốc gia” kia được bảo toàn trọn vẹn.
Qua bao thăng trầm, rõ ràng đây là điểm thấp nhất mà phận Kiều rơi xuống.
Ta thấy rõ ở đây, từ khi nói đến chuyện ra hàng, ý nghĩ của Kiều luẩn quẩn bao nhiêu, đụng đến chính thống và phản kháng, Nguyễn Du lại mâu thuẫn bấy nhiêu. Thuý Kiều bị giằng xé hay Nguyễn Du bị giằng xé?
Kiều đã ba lần thuyết phục các người tình của mình. Với Kim Trọng, là thuyết về chữ TRINH, hay là giữ gìn sự trong sáng và bền chặt của tình yêu. Với Thúc Sinh là phương sách để vừa giữ yên gia đạo vừa định rõ danh phận của Kiều. Hai lần ấy, lần nào lý lẽ cũng rạch ròi, phân minh, tỏ tường, sắc sảo, và cũng là những ý nghĩ của chính nàng. Nhưng đến lý lẽ thuyết phục Từ Hải ra hàng thì ta thấy không xuôi. Nó như một bài đọc thuộc lòng kinh sách. Với Từ Hải:
Dọc ngang nào biết trên đầu có ai
thì nàng có câu:
Ai ai cũng đội trên đầu xiết bao.
Với Từ Hải:
Vào luồn ra cúi công hầu mà chi
thì nàng đã có lý lẽ:
Công danh ai dứt lối nào cho qua
v.v.
Thật là ông nói gà bà nói vịt. Chưa hết,
Trên vì nước dưới vì nhà,
Một là đắc hiếu hai là đắc trung
phải chăng là tâm sự của nàng Kiều, chữ TRUNG phải chăng là bổn phận của một người con gái lê thân qua kiếp phong trần và gửi gắm cuộc đời vào kẻ phản loạn? Câu hỏi này xin gửi cụ Nguyễn Du. Không, chính cụ cũng chưa trả lời được câu hỏi ấy cho mình.
Không thể nào bảo rằng những dằn vặt này không phải là một phần quan trọng trong tư tưởng Nguyễn Du. Bằng hiển ngôn, Nguyễn Du không tố cáo, ông chỉ phơi bày. Nhưng nỗi lòng thật của mình, ông không giấu được, và cũng không muốn giấu.
CUỘC ĐỜI KIỀU QUA CÁI NHÌN PHẬT GIÁO
Những ai học Phật đều cảm thấy mình đi dưới bầu trời tự do tư tưởng. Phật không độc quyền nắm giữ chân lý. Dĩ nhiên người muốn theo Phật thì phải có niềm tin vào Phật, nhưng vẫn có thể tôn trọng những niềm tin khác. Qua hai mươi lăm thế kỷ hệ tư tưởng Phật giáo đã phát triển ra vô số hệ phái với nhiều cấp độ khác nhau. Cần phân biệt trong đạo Phật hai phương diện: triết học và tôn giáo; trong đó tôn giáo là nơi lý trí bất lực và chỉ còn lòng tin là chỗ dựa duy nhất. Cả hai phương diện ấy đều có trong Truyện Kiều, và phương diện triết lý thậm chí có phần mờ nhạt hơn.
1. Nghiệp
Ý niệm về nghiệp được bộc lộ rõ trong Truyện Kiều. Nguyễn Du viết: “Đã mang lấy nghiệp vào thân/ Cũng đừng trách lẫn trời gần trời xa”. Tuy nhiên, tư tưởng này không phải là chủ đạo, nó có thể chung sống với các tư tưởng khác chứ không hoàn toàn lấn át.
Ngẫm hay muôn sự tại trời
Trời kia đã bắt làm người có thân.
Bắt phong trần phải phong trần
Cho thanh cao mới được phần thanh cao
Có đâu thiên vị người nào,
Chữ tài, chữ mệnh, dồi dào cả hai.
Có tài mà cậy chi tài?
Chữ tài đi với chữ tai một vần
Ðã mang lấy nghiệp vào thân
Cũng đừng trách lẫn trời gần trời xa
Thiện căn ở tại lòng ta
Chữ tâm kia mới bằng ba chữ tài
Trong đoạn thơ trên đây, mở đầu bằng chữ Ngẫm hay, toàn là phát biểu của Nguyễn Du, chứ đâu phải chỉ bốn câu cuối nói riêng về nghiệp, như có người cho rằng tác giả hoàn toàn chủ trương theo Phật giáo.
Câu thơ “Trời kia đã bắt làm người có thân” được hiểu là thân nghiệp. Nếu đúng thế thì ở câu này đã là tư tưởng Phật giáo. Nhưng câu này lại liền mạch tư tưởng với bốn câu sau, nói về tài- mệnh. Ngay cả câu “Trời kia đã bắt làm người có thân” cũng gợi cho ta nghĩ ngay đến câu “Ngô sở dĩ hữu đại hoạn giả vị ngô hữu thân. Cập ngô vô thân, ngô hữu hà hoạn?” của Lão Tử, dù cho có thể đây là chỗ gặp nhau giữa Phật và Lão. Ngay chữ “thiện căn” cũng có thể thấy nó khá gần với “tính bản thiện” của Mạnh Tử.
Ở đây cũng như ở những chỗ khác, Nguyễn Du không dùng tư tưởng Phật giáo để phê bình Nho giáo. Ông chỉ nói lên tư tưởng của mình, một tư tưởng hỗn hợp cả Phật - Lão - Nho, cả những tâm lý đã tồn tại dài lâu trong dân chúng, niềm tin ngây thơ về một ông trời thưởng phạt, vốn rất xa với tư tưởng Phật học. Rất có thể Nguyễn Du thiên về Phật hơn Nho, nhưng điều đó ông không có hàm ý ở đây. Sự so sánh đánh giá nằm ở chủ quan người đọc.
2. Sự thuần nhất của tư tưởng Phật học trong Kiều
Một điều đáng chú ý là trong truyện Kiều, người nói lên cái tư tưởng về nhân quả, về nghiệp lại chính là Đạm Tiên, một bóng ma, Hội viên Hội Đoạn Trường, một hiện thân của thuyết Tài-Mệnh tương đố:
“Âu đành quả kiếp nhân duyên”
(câu 201, Báo mộng lần thứ nhất)
“Rỉ rằng: nhân quả dở dang
Đã toan trốn nợ đoạn tràng được sao,
Số còn nặng nợ má đào
Người dù muốn quyết, trời nào đã cho”
(câu 995-998, Báo mộng lần thứ hai)
Cái tiền oan nghiệp trái ở đây được xử lý bởi một ông trời!
Nhân vật thứ hai diễn giải về chữ NGHIỆP của Kiều là Tam Hợp đạo cô, là người mà Giác Duyên, người quan tâm đến vận mệnh của Kiều thường tham vấn. Bà đạo cô này là một tiên tri, thường hé hộ thiên cơ, cả đến sự cân nhắc thưởng phạt của trời, chính nhờ bà này mách trước địa điểm (sẽ) gieo mình của Kiều mà Giác Duyên đón vớt được nàng, tạo ra cơ hội tái sinh, chuyển nghiệp! Trên bình diện tư tưởng, Tam Hợp đạo cô (cái tên có nói lên gì về hợp lưu của ba đạo không nhỉ) phải được coi ngang hàng với thầy phi phù trí quỷ ở chỗ Thúc Sinh, một dạng mê tín dị đoan mà các bậc chân tu luôn bài bác.
Theo Hoàng Ngọc Hiến:
“Tư tưởng “nhân quả” khẳng định quan hệ nhân quả giữa kiếp này và kiếp trước, kiếp sau. Nội dung hình tượng Truyện Kiều chỉ nói về kiếp này của nàng Kiều. Như vậy, quan hệ “nhân quả” không được bộc lộ ở ngay nội dung của tác phẩm. Ðó là một quan hệ không có nội dung… Như vậy trong Truyện Kiều, triết lý Phật giáo là ngôn ngữ Phật giáo, là những lời giải thích nhưng không phải phải là ý nghĩa đích thực của nội dung hình tượng tác phẩm. [ii]
Theo chúng tôi, chỗ này Hoàng Ngọc Hiến nói đúng vì nhân “Hiếu Tâm” động đến Trời với quả “đoàn viên” phúc sau dồi dào, qua lời Tam Hợp, không phải là ý nghĩa chữ nghiệp của đạo Phật. Trong chữ nghiệp của đạo Phật không có ông trời.....
3. Tu là cỗi phúc, tình là dây oan
“Tu là cỗi phúc, tình là dây oan” lời phát biểu của đạo cô Tam Hợp đúng là tư tưởng đạo Phật, có lẽ cũng là suy nghĩ của chính Nguyễn Du. Lý trí nghe Phật dạy “tình là dây oan” là ái dục là vô minh che lấp bản thể, nhưng trái tim nghệ sĩ lại rung động sâu xa để viết lên những dòng thơ tả tình đẹp đến nao lòng, với những xúc động ngọt ngào gợi lên hạnh phúc đích thực của tình yêu trần tục.
Lựa chọn của Kiều giữa TU và TÌNH: Sau khi được cứu vớt, cùng Giác Duyên ở lều tranh bên sông Tiền Đường, với Kiều, tu là chuyện đương nhiên, nhưng trước đó Kiều đã có đến hai cơ hội để tu.
Lần đầu ở nhà Hoạn Thư, qua tờ thân cung nàng xin nhờ cửa Không, đã được chấp thuận cho ra ở Quan âm các, kiểu tu hành thật là sang trọng. Nếu nàng thật khôn ngoan và tỉnh táo, thì phải đủ sức cắt hẳn mối tình vô vọng ấy, và sự thể chắc đã khác. Nhưng mối tình với Thúc Sinh, một mối tình đã khiến Nguyễn Du viết nên những câu thơ đẹp nhất trong văn chương Việt
(Rừng phong thu đã nhuốm màu quan san /
Dặm hồng bụi cuốn chinh an,
trông người đã khuất mấy ngàn dâu xanh
...
Vừng trăng ai xẻ làm đôi /
nửa soi gối chiếc, nửa soi dặm trường,
hay:
Long lanh đáy nước in trời,
thành xây khói biếc non phơi bóng vàng…)
còn quá nặng, quá ám ảnh, tâm trạng nàng những là “nhân duyên đâu lại còn mong?” còn tiếc lắm, còn đau lắm, đến nỗi “Phật tiền thảm lấp sầu vùi”, vẫn “nói lời trước mặt, rơi châu vắng người”. Chủ tâm Hoạn Thư không phải muốn hành hạ Kiều, mà chỉ muốn cách ly Kiều khỏi Thúc Sinh. Nhưng chính sự chia cắt ấy đối với Kiều mới là đau đớn nhất. Đến khi có cơ hội lén gặp nhau, thì “nói rồi lại nói, lời chưa hết lời”, để lúc bị Hoạn Thư bắt gặp mới hốt hoảng đến thế, mới tính bài chạy trốn. Kiều xin Thúc Sinh “liệu bài mở cửa cho ra” nhưng cánh cửa ấy Hoạn Thư đã mở rồi mà Kiều không biết. Đây chính là lúc tình che mờ trí, đến nỗi không chỉ Thúc Sinh thấp cơ thua trí đàn bà mà cả Kiều cũng thua!
Lần thứ hai tu ở Chiêu ẩn am với Giác Duyên thì bị chính Giác Duyên vì quá khiếp sợ trước uy quyền nhà họ Hoạn mà vô tình đẩy vào tay họ Bạc.
Trong suốt quãng đời chìm nổi, thân phận Kiều đã gợi được niềm thương cảm của nhiều người, nhưng Kiều ít có dịp thể hiện lòng từ bi của mình với người khác. Vụ báo ân báo oán khi Kiều được tựa lưng vào quyền lực của Từ, đã gây thêm nghiệp xấu. Người ta thường đọc xuôi theo truyện Kiều “Đạo Trời báo phục”, “Lồng lộng trời cao, hại nhân nhân hại” rồi “trước sau trọn vẹn xa gần ngợi khen” để cho hành động báo ân báo oán ấy một danh nghĩa cao đẹp: thực thi công lý, thoả mãn nỗi khát khao công lý của chúng dân, mà không nhận ra rằng nó chỉ thoả mãn cá nhân nàng Kiều. Có thể hiểu được hành xử của nàng trong một xã hội không có pháp luật, công lý và lẽ phải ở trong tay kẻ có quyền, khi nàng một lúc đóng hai vai: người bị hại và quan toà. Tuy nhiên, lẽ ra sau bước chuyển biến to lớn của số phận – kết duyên cùng Từ Hải – và sau chừng ấy thời gian, Kiều đã có thể quên đi mọi hận thù để chỉ giữ trong lòng niềm thương nhớ cố hương và ước ao đoàn tụ. Nhưng nàng đã để nó đè nặng trong lòng đến nỗi chỉ sau khi có đầu rơi máu chảy, bể oan mới “dường đã vơi vơi cạnh lòng”. Hai chữ “khư khư” của bà Tam Hợp nói về Kiều đâu chỉ đúng với chữ Tình. Cái “phiên toà” mà Kiều làm chủ, nghĩa là sẽ gánh hết trách nhiệm ấy, nếu đúng, chưa chắc đã hay, thế mà còn có lầm, khi cho tuốt tuột từ Tú Bà đến Ưng Khuyển chịu chung một tội hình. Sai lầm ấy từ cõi lòng sân hận quá đỗi mà ra. Ngay cả việc đem ngàn vàng để trả ơn bát cơm Phiếu mẫu, và những lời đối đáp với Hoạn Thư chỉ bộc lộ rõ cái ngã mạn của Kiều. Câu nói chối tai nhất thốt ra từ miệng Kiều là câu “Xem cho rõ mặt biết tôi báo thù” và hành vi kỳ lạ nhất là mời sư Giác Duyên chứng kiến cuộc báo thù ấy! Nếu sau này có lúc nhờ Phật mà “túc khiên đã rửa lâng lâng sạch rồi” thì Kiều nên nghĩ lại để nhìn Tú Bà hay Ưng Khuyển, Thúc Sinh với cùng tấm lòng từ bi độ lượng như nhau. Sau cuộc báo oán, Kiều đã lạy tạ Từ Hải đến câu “Dễ đem gan óc đền nghì trời mây” nhưng rốt cuộc nàng Kiều có tiếng là “ân oán rạch ròi”, “trước sau trọn vẹn” ấy chỉ làm được cái việc cầu xin một nấm đất cho cái xác tàn của Từ, một việc mà nếu chứng kiến chắc Từ phải chết đến lần thứ hai. Nhưng ta cũng phải thể tất cho Kiều, trong tay Từ Hải và trong tay Hồ Tôn Hiến là hai hoàn cảnh khác nhau, với Từ là có tự do và có cả quyền lực nữa, còn với Hồ thì nàng có gì?
4. Đoàn viên và chuyển nghiệp
Có hai loại ý kiến khác nhau về các giải pháp có thể có cho số phận Kiều trong truyện: “kết thúc ở sông Tiền Đường” hay “tái sinh và tái hợp”. Giải pháp nghệ thuật “kết thúc ở sông Tiền Đường” là ý muốn trung thành với lôgích của hiện thực, đó là tâm trạng phải chấp nhận thực tế, dù nó cay đắng thế nào. Câu chuyện Giác Duyên vì biết được mệnh trời mà đón vớt nàng Kiều khó được những người có đầu óc thực tế chấp nhận. Giải pháp “tái sinh và đoàn viên” thể hiện ước mong, hy vọng thiết tha của tác giả và người đọc. Hy vọng, ước mong có đem đến giải thoát thực sự hay không lại là chuyện khác. Ở đây tác giả đưa yếu tố phi thực vào là do quá thương yêu con người, không nỡ nhìn nàng mãi đau khổ và không muốn kết thúc truyện trong bế tắc nên bằng tưởng tượng của mình đã mở ra lối thoát. Triển khai ý niệm đoàn viên, tác giả lại mở ra một hướng hiện thực mới, hiện thực của Tâm hồn. Giải pháp này phản ánh quan điểm nghệ thuật của Nguyễn Du (đúng hơn là của Thanh Tâm tài nhân – ta luôn luôn thấy Nguyễn Du chỉ diễn đạt các sự kiện bằng bút pháp và cái tâm của riêng mình, không có ý định sửa đổi nguyên tác).
Có ý kiến cho rằng Hiếu tâm của Kiều đã cảm động đến Trời, và là nguyên nhân đem đến “phúc sau dồi dào” – một tác nhân chuyển nghiệp trong hiện kiếp. Tôi chỉ thấy hành động hiếu (bán mình) của Kiều là điều kiện để cứu gia đình khỏi tai vạ nhất thời. Trước khi tai vạ xảy ra, đang là MỘT NHÀ êm ấm. Sau thời điểm ly tán ấy “người đàn ông” Kim Trọng một tay cáng đáng, khôi phục, nâng đỡ gia đình trong suốt 15 năm qua cảnh ngặt nghèo; Kim cùng bốn người nhà họ Vương luôn đi cùng một nẻo, còn Thuý Kiều lưu lạc nẻo khác. Khi đoàn viên, lại hợp MỘT NHÀ
“Một nhà phúc lộc gồm hai”
Chữ Phúc ở đây phải hiểu theo hai nghĩa: giàu sang vinh hiển trong cõi tục hay niềm hoan lạc của tâm linh đã được giải thoát? Đạo Phật cho rằng nghĩa thứ hai cao hơn nghĩa trước. Chúng tôi nghĩ rằng ở đây gồm hai cảnh: Kim - Vân hưởng giàu sang vinh hiển, do thành quả công lao của Kim. Kiều vui với cái tâm đang tìm đến Niết bàn (Chẳng tu thì cũng như tu mới là) sau khi đã bén mùi thiền. Bởi vậy “hợp” mà không “hợp” và theo nghĩa của đạo Phật, đó mới là “điều kiện của phúc sau dồi dào”. Hãy thử tưởng tượng nếu cả nhà không tìm được Kiều? Thì vẫn cứ “phúc lộc, quan giai lần lần” dù nhớ thương khôn nguôi! Hay nếu như Kiều cũng theo thói thường trở về với tục? Thì câu chuyện sẽ chẳng còn gì để nói! Vậy thì ở đây là chuyển nghiệp hay chuyển tâm?
5. Không và Thiền
Chúng ta biết rằng Nguyễn Du đã “nghìn lần đọc kinh Kim Cương”, như ông nói. Nhưng vấn đề là tư tưởng Phật học ấy được biểu hiện trong Truyện Kiều như thế nào? Tư tưởng bát nhã cao siêu ấy thể hiện ở đâu khác nhưng không phải bật lên từ chính hình tượng trong truyện Kiều. Cảnh tượng đoàn viên, xét cho cùng, cũng chỉ là cái kết thúc có hậu giống như trong Nhị Độ Mai, Lục Vân Tiên, Hoa Tiên, Tấm Cám, Phạm Công Cúc Hoa...
Về chặng đường “giác ngộ” của Kiều, Nguyễn Ðăng Thục viết:
Tâm hồn Kiều trước kia đang còn vọng động, bắt đầu bước vào trường đời, còn ngày nay thì bình tĩnh vì đã biết qua kinh nghiệm bản thân đến chỗ giác ngộ.
Đúng. Nhưng để giác ngộ đâu có đơn giản dễ dàng. Kinh nghiệm và khát khao là cần nhưng chưa đủ. Để đủ, còn cần có hai điều kiện: Một là, trên bình diện đạo, ngoài kinh nghiệm đời (bể khổ) điều quan trọng hơn là phải có kinh nghiệm tu (giải thoát). Hai là, trên bình diện đời, bể khổ của đời thật sự đã vơi đi. Nếu thân vẫn quằn quại trong bể khổ mà Tâm đã được giải thoát, thì phải là trình độ siêu việt, chẳng hạn như Mãn Giác thiền sư trong cơn bệnh trọng vẫn chỉ cho người khác nhìn nhành mai nở buổi xuân tàn hoa rụng hết. Chớ tưởng lầm rằng thần lực của tâm thiền có thể biến hoa tàn thành hoa nở, có thể đẩy lui cơn ác bệnh đang hành hạ thân mình. Chính là trong cõi tâm không vọng động có một bông hoa luôn mãi nở tươi cho dù ngoài kia, trong cõi vô thường có lúc hoa tàn hết. “Phải nhìn sự vô thường trong viễn tượng của một mùa xuân lại về…”. Cách nhìn đẹp đấy, nhưng nếu trong đời thực, trong cõi vô thường ấy nó không về, hay trong cái hữu hạn của một đời người, nó chưa kịp về? Thì xin hãy nhìn vào trong TÂM để tìm lấy mùa xuân trong ấy. Không thể lấy cái nhìn lạc quan, lấy ước mơ khát vọng thay cho cái nhìn thẳng vào mặt thật của đời sống, vì đó cũng là mê lầm không kém phần nguy hại.
Nguyễn Du chắc hằng tâm niệm lời dạy của Phật trong Kinh Kim Cương “ưng vô sở trụ nhi sinh kỳ tâm” nhờ đó mà Lục tổ Huệ Năng cũng như Trần Thái Tông đã bừng ngộ. Với Kiều, cái Tâm vướng luỵ nhất là ở cõi Tình, vậy trình độ tâm linh của Kiều đạt tới mức nào để được gọi là giác ngộ? Như trên ta đã biết, hai lần Kiều ở chùa đều là miễn cưỡng: ở Quan Âm các là tạm chấp nhận để thoát cảnh khổ nhục của kiếp hoa nô (Nhân duyên đâu lại còn mong/ Khỏi điều thẹn phấn tủi hồng thì thôi) lần sau ở Chiêu Ẩn am là tìm nơi độ thân khi bơ vơ chưa biết đi đâu (Gửi thân được chốn am mây/ Muối dưa đắp đổi […]). Ảnh hưởng của Phật không thể không có, nhưng nó đến từ từ. Lần đầu “Dường gần rừng tía dường xa bụi hồng” những tưởng “[…] giọt nước cành dương/ Lửa lòng rưới tắt mọi đường trần duyên” nhưng chưa tắt hẳn. Con đường tu Phật vừa đòi hỏi, vừa tạo điều kiện để thoát khỏi chữ Tình. Chỉ đến khi gặp lại gia đình, nàng mới có lời tiếp tục chọn đường tu khi trả lời cha:
Đã đem mình gửi am mây,
Tuổi này bạn với cỏ cây cũng vừa,
Mùi thiền đã bén muối dưa,
Màu thiền ăn mặc đã ưa nâu sồng.
Sự đời đã tắt lửa lòng,
Còn chen vào chốn bụi hồng làm chi
Lựa chọn của Kiều trong việc nối lại với Kim Trọng, “đem tình cầm sắt đổi ra cầm cờ” chính là lựa chọn của một tâm hồn đã bén mùi thiền, cũng có nghĩa là những khao khát duyên tình trong nàng đã thật sự nhạt phai. “Sự đời đã tắt lửa lòng” không phải chỉ là câu nói buông xuôi. Chỉ có nhờ nó mà nàng mới giữ được sự yên tĩnh của tâm hồn. “Khi chén rượu, khi cuộc cờ/ Khi xem hoa nở khi chờ trăng lên” là cái phong độ thanh nhàn không bị câu thúc vì những bức bách của đời sống hay khát khao bản năng. Có thể nghĩ Kiều đã tìm thấy tự do nội tâm, đã tìm được cách làm chủ đời mình, điều mà trong suốt quãng đời luân lạc trước kia, nàng chưa bao giờ có được. Có lẽ không chuyên tâm về tu Phật, nhưng cũng đã xa tục luỵ lắm rồi. “Chẳng tu thì cũng như tu mới là.”
6. Ái và Dâm
Khi cân nhắc công-tội Thuý Kiều, Tam Hợp đạo cô cho rằng Kiều có “tình tiết giảm nhẹ” là “mắc điều tình ái” (tội nhẹ hơn) “khỏi điều tà dâm” (tội nặng). Có công bằng không khi xã hội đẩy Kiều vào chỗ ô uế phục vụ cho những “giống hôi tanh”, trái ngược với ý chí của nàng muốn giữ “thân nghìn vàng”, mà lại luận về nàng Dâm hay không Dâm, trong khi cả linh hồn nàng, cả cuộc đời nàng là một biểu tượng chống lại nó. Người ta thường ca ngợi chữ Trinh ở Kiều, với nghĩa rằng ngoài việc bị bán làm trò mua vui thân xác cho kẻ khác, tình yêu ở nàng phải thuần tuý platonisme, còn nếu không thế là “dâm”.
Chúng tôi không hiểu nội hàm của chữ “dâm” ở đây. Nếu chỉ là “quan hệ xác thịt” giữa những người yêu nhau, thì đó cũng chính là tình yêu, sao có thể gọi là tà dâm? Và khi yêu thì cả hai đều có quyền tự do lựa chọn. Nếu là quan hệ “không có tình yêu”, chẳng hạn quan hệ mua bán (như Mã Giám Sinh) hay cưỡng bức (như Hồ Tôn Hiến), thì đó là dâm, là vô đạo đức, nhưng trong trường hợp này người đàn bà là nạn nhân, là nô lệ.
Trong đời người đàn bà đa tình Thuý Kiều đã có ba cuộc tình đều sâu nặng ơn nghĩa, đều yêu bằng cả tâm hồn. Chỉ riêng với Kim Trọng là chưa chăn gối, còn với Thúc Sinh, Từ Hải, đã là vợ chồng. Tình chăn gối với Từ Hải được miêu tả thật cao sang lộng lẫy: “Đặt giường thất bảo, vây màn bát tiên”. Đó là hôn nhân có tình yêu mãn nguyện “Phỉ nguyền sánh phượng, đẹp duyên cưỡi rồng”. Nếu trong cuộc hợp hôn ấy Kiều không hề cảm thấy ham muốn tình dục của chính nàng thì có gì là đẹp?
Hãy nên cảnh giác với chữ TRINH vì nó rất gần, dễ lẫn với ý đồ nô dịch nữ giới, hạn chế người phụ nữ trong cái vòng là phương tiện hay tài sản sở hữu của người chồng. Chữ TRINH trong Truyện Kiều có ý nghĩa đặc thù là sự trong trắng của tâm hồn nàng Kiều, mà Nguyễn Du có ý thức trân trọng gĩư gìn (hay đúng ra không phải Nguyễn Du, mà Thanh Tâm tài nhân đã giữ, nhưng Nguyễn Du đã nâng cao lên) cho nàng suốt cuộc trầm luân.
“Bắt phong trần phải phong trần/ Cho thanh cao mới được phần thanh cao”
Theo tôi hiểu thì Trời chỉ bắt được phần xác, còn Kiều vẫn giữ được phần hồn (“Tâm”). Cái thanh cao trong tâm nàng Kiều, đâu phải Trời cho. Nếu là bắt và cho thì phong trần hay thanh cao chỉ là đày đoạ hay cho nhẹ nhàng phần thể xác, còn phần tâm hồn của Kiều, luôn mãi thanh cao, không hề thay đổi (Bụi nào cho đục được mình ấy vay).
7. Chữ Tâm
“Chữ Tâm kia mới bằng ba chữ Tài”.
Nhiều người ra sức ca ngợi chữ “Tâm” trong truyện Kiều, thậm chí coi nó là đỉnh cao nhất trong tư tưởng, triết lý Nguyễn Du: Nguyễn Du có nói tâm, nhưng có rõ cái TÂM nào đâu? Sự mù mờ về ngữ nghĩa của khái niệm – nội hàm thì mông lung nên ngoại diên cũng nhập nhằng – vốn là điểm yếu của cách tư duy phương Đông thiếu tính khoa học chặt chẽ, đôi khi lại được nâng lên thành ưu việt. Chính vì để mở như thế nên mỗi người đọc có quyền hiểu theo cách của mình. Trong “Linh sơn chỉ tại nhữ tâm đầu” – có một chữ tâm, nghĩa là “Phật chỉ có trong tâm của ngươi, chứ không đâu khác”, hay đơn giản hơn, “Phật tại Tâm” nhưng không thể coi nó cũng là chữ “Tâm” của Nguyễn Du khi ông đem so nó với “Tài”. Không chỉ Phật mà giới Nho cũng nói nhiều nhất đến tâm, có rất nhiều trường phái, nói chung tâm được hiểu là ý thức chủ quan, thường do trời phú vì Trời với Người là một. Trong dân gian cũng hay nói chữ Tâm, với nghĩa tấm lòng. “Chữ Tâm kia mới bằng ba chữ Tài”. Tâm được so với tài trong quan hệ với vận mệnh, hạnh phúc con người. Để tìm kiếm hạnh phúc trong cuộc đời này thì đừng trông cậy nhiều vào tài, vì nó rất dễ gây nhiều trắc trở tai hoạ. Trong mọi hoàn cảnh, hãy cứ trông vào cái Tâm, vào tấm lòng vốn thiện của mình mới mong tìm thấy hạnh phúc đích thực.
Kết
Nguyễn Du là một trong những người học vấn uyên bác nhất trong thời đại mình, bởi vậy tư tưởng của ông thể hiện trong tác phẩm, dù là tác phẩm dịch, hết sức phong phú, đa dạng, đa chiều có khi mâu thuẫn, nhưng không cột chặt vào một lý thuyết duy nhất nào. Nguyễn Du là một nghệ sĩ, không phải nhà tư tưởng, Truyện Kiều cũng không phải tiểu thuyết hay kịch luận đề như “La Nausée” hay “Les Mouches” của J. P. Sartre. Là một nghệ sĩ lớn đồng thời là một tri thức uyên thâm, ông đã thể hiện nhiều tư tưởng của thời đại mình (Phật, Lão, Nho) và bộc lộ những thái độ, những quan điểm đôi khi vượt trên thời đại. Đó cũng là triết lý, vả chăng, triết lý nào chẳng mang đến một thái độ? Cái hay của Truyện Kiều dường như vô tận. Cách của Nguyễn Du là miêu tả sự vật như nó có, tự nó nói lên và gây xúc cảm mãnh liệt nơi người đọc. Truyện Kiều cũng như bất kỳ tác phẩm lớn nào, không chỉ có một tư tưởng, dù là cao siêu. Nó luôn luôn chỉ là gợi ý để ta đào sâu suy ngẫm về Đạo và đời, nó không chứng minh cho đạo và không thể dùng nó để chứng minh, vì nó rộng lớn, phong phú hơn nhiều cái được chứng minh. Đọc lại Truyện Kiều hay đọc các tác phẩm viết về Truyện Kiều đối với tôi bao giờ cũng thú vị vì nó cho thêm cơ hội để suy ngẫm, thêm một lần thưởng ngoạn.
HT 2005 - 2015
[i] Xuân Diệu, “Bản cáo trạng cuối cùng trong Truyện Kiều”, tuyển tập “Kỷ niệm 200 năm Nguyễn Du”, Nhà xb Khoa học Xã hội, 1965.
[ii] Hoàng Ngọc Hiến, “Triết lý Truyện Kiều” trong “Kỷ niệm 200 năm Nguyễn Du (1765-1965)”, tr. 279, 281, 284.