Danh ngôn

Trong mọi cộng đồng, chúng ta cần một nhóm thiên thần gây rối.

We need, in every community, a group of angelic troublemakers.

(Bayard Rustin – trích bài phát biểu tại New York City 1963)

Trong mọi trường hợp, chắc chắn rằng sự thiếu hiểu biết, đi kèm với quyền lực, là kẻ thù tàn bạo nhất có thể có của công lý.

It is certain, in any case, that ignorance, allied with power, is the most ferocious enemy justice can have.

(James Baldwin - No Name in the Street 1972)

Các cuộc cách mạng và các cá nhân có thể bị giết hại, nhưng bạn không thể giết chết các ý tưởng.

While revolutionaries and individuals can be murdered, you cannot kill ideas.

(Thomas Sankara, một tuần trước khi bị ám sát, 1987)

Không có cảm giác nào cô đơn hơn việc bị chính đất nước mình trục xuất.

There's not a more lonely feeling than to be banished by my own country.

(Kiyo Sato – Kiyo’s Story 2009)

Ban Biên tập

Địa chỉ liên lạc:

1. Thơ

tho.vanviet.vd@gmail.com

2. Văn

vanviet.van14@gmail.com

3. Nghiên cứu Phê Bình

vanviet.ncpb@gmail.com

4. Vấn đề hôm nay

vanviet.vdhn1@gmail.com

5. Thư bạn đọc

vanviet.tbd14@gmail.com

6. Tư liệu

vanviet.tulieu@gmail.com

7. Văn học Miền Nam 54-75

vanhocmiennam5475@gmail.com

Tra cứu theo tên tác giả

Thứ Ba, 19 tháng 5, 2015

VÀI NÉT VỀ KHÔNG KHÍ VĂN ĐÀN TRONG NƯỚC HIỆN TẠI

Văn đàn nhiều chuyển động, Hội vẫn quá phụ thuộc vào cấp trên
(Không khí văn đàn Việt Nam gần đây qua một số ghi nhận của nhà nghiên cứu Lại Nguyên Ân)


RFI Xin ông cho biết một số nét về không khí văn học tại Việt Nam trong thời gian gần đây, đặc biệt là vai trò của Hội Nhà văn Việt Nam đối với vấn đề tự do sáng tác.

Lại Nguyên Ân : Sáng tác trong nước hiện nay ngày càng trở nên đa dạng hơn, và rốt cuộc thì văn học, nói chính xác hơn là sách văn học, cũng đã trở thành một thị trường (nhiều loại hình khác như nghệ thuật tạo hình, ca nhạc đã trở thành thị trường sớm hơn, ngay đầu thời đổi mới, đầu những năm 1990s; văn chương thì muộn hơn, và cũng chỉ hình thành thị trường ở một số thể tài sách in chứ không phải toàn bộ văn học). Công chúng bây giờ là một thế hệ khác, có những quan tâm và thị hiếu khác trước; đối với công chúng bây giờ, ngay các tác phẩm có giá trị của những tên tuổi lớn của văn học thời 1930-45 cũng không hấp dẫn họ bao nhiêu, nói gì đến những tác phẩm thời chiến mà nay chỉ còn được in mới trong các bộ tuyển làm bằng ngân sách bao cấp, làm xong chỉ để biếu tặng. Tất nhiên cũng có chuyện “thị hiếu lệch lạc” − theo một số người quan sát nào đó, − và đó là chỗ cho những cây bút đầu cơ kiếm tiền. Nhưng nên thừa nhận: phải có tài mới chinh phục được công chúng; kiếm tiền từ việc người ta mua sách của mình không phải là việc dễ (nạn in sách lậu hay đánh cắp bản quyền là câu chuyện rất nan giải cần được bàn thêm vào dịp khác – Lại Nguyên Ân). Chung quy là chỉ những người thực sự có tài mới nổi lên được; văn học đang trở lại tình trạng đó là sáng tác của những cá nhân.

Đối với nhiều người vào Hội Nhà văn từ những năm 1970-90, Hội Nhà văn bây giờ chỉ là điểm hẹn vui, để gặp gỡ nhau, chứ họ không trông đợi vào sự hướng dẫn, chỉ dẫn gì. Những người viết văn được ưu đãi, được nhà nước đầu tư chỉ chiếm số ít trong tổng số các hội viên Hội Nhà văn; vấn đề tài trợ cũng không có ý nghĩa lớn đối với số đông hội viên (chuyện đi « trại sáng tác » vẫn chưa khác thời bao cấp, người ta vẫn xem đi trại là những dịp may, có người biết tận dụng, có người không biết – Lại Nguyên Ân). Hội viên quá đông, trên dưới 1000, mỗi người ít nhất sau 5 năm mới được đầu tư 1 lần; mức cao nhất chừng vài chục triệu, ứng trước một nửa, nửa còn lại được lĩnh nốt khi viết xong tác phẩm, đưa bản thảo ra làm bằng cứ; mức thông thường là dăm triệu, khi nhận được người ta thường nói vui là “thêm vào tiền mua gạo mua rau” hay uống bia, tùy từng người!). Vẫn còn một số khu vực viết theo lối cũ được đầu tư khá, như nhà văn trong quân đội, trong công an, viết đề tài chiến tranh hay đề tài an ninh, nhưng cách viết cũng không đơn giản là phải tô hồng như trước, vì cái tác phẩm được đầu tư ở đầu vào cũng phải bán được ở đầu ra, tức là phải hấp dẫn.
Tất nhiên có hàng trăm nhà văn hội viên hiện vẫn có viết chút ít, đăng báo in sách chút ít, nhưng hầu như đã đứng bên lề đời sống văn chương hiện tại; có nhiều lý do, thông thường là họ đã già, phần làm được đã là quá khứ; họ là người của giai đoạn trước.

Hiện tượng đáng chú ý khác là khu vực thơ “quần chúng” phát triển rất mạnh, hàng năm ước tính có đến dăm bảy trăm tập thơ được xuất bản, nhưng thường không bán (cũng không bán được!) mà thường để cho tặng. (Một vài nhà nghiên cứu đang nói về xu hướng “đi ngược thị trường” của thơ Việt hiện nay!) Có cả những câu lạc bộ riêng của những tác giả thơ như thế, thành viên đông hơn Hội nhà văn, có chi nhánh ở các tỉnh, đôi lúc trong câu lạc bộ này xảy ra việc “cách chức” nhau gây ồn ào và gây cười trong dư luận. Đây là kiểu làm thơ in thơ cho tặng thơ như một nhu cầu thuần túy từ các tác giả, không tính đến công chúng, không cần thị trường; người ta nói đây là những người làm thơ để “xả stress”, như tập thở khí công vậy.

Về văn học chuyên nghiệp, có vài hiện tượng đáng lưu ý, theo tôi. Một là sự tái trình diện và thành công muộn của một số nhà văn từng bị nạn nhiều năm trước; đó là các trường hợp như Nguyễn Xuân Khánh, Bùi Ngọc Tấn; sinh những năm 1930, bị nạn những năm 1970-80; trở lại văn đàn và thành công lớn vào những năm 1990-2000. Một nữa là, trong lứa sinh những năm 1960 nổi lên một số tác giả, là hội viên Hội Nhà văn, viết và in sách khá đều đặn, được dư luận trong ngoài nước đánh giá tốt, ví dụ Hồ Anh Thái (hiện là quan chức ngoại giao), Nguyễn Bình Phương (hiện là tổng biên tập tạp chí “Văn nghệ quân đội”), Tạ Duy Anh, v.v. Nhìn vào thì có thể thấy các sáng tác ấy vị tất đã đặt vừa theo những quy cách quen thuộc mà đảng CS thường yêu cầu; tất nhiên trong đó cũng không có gì là chống đối một cách công khai. Điều thấy rõ là họ đã nói bằng tác phẩm và nói thành công về những vấn đề, những bệnh trạng của con người và xã hội người Việt, và mỗi tác giả ấy đều có khá đông công chúng.

Năm 2005 xuất hiện tập thơ “Dự báo phi thời tiết” của 5 nữ tác giả đều sống ở Tp.HCM. Tôi thấy ở tập thơ này tín hiệu về sự sống lại dòng tìm tòi của thơ ca ở miền Nam trước 1975 theo hướng hiện đại chủ nghĩa. Dòng thơ này đang phát triển mạnh hơn, có nhiều tác giả hơn, cũng được chú ý nhiều hơn. Dòng thơ này cũng là chỉ dấu về liên hệ ngày càng mạnh giữa sáng tác của các tác giả sống trong nước với sáng tác của các tác giả hải ngoại.
Tôi hiện nay giành thì giờ tìm các di sản cũ nhiều hơn đọc cái mới nên chỉ dám nêu vài hiện tượng như thế; nhưng tôi tin là người viết văn Việt Nam thế hệ nào rồi cũng sẽ có những tài năng, những đại diện xứng đáng của mình.

Việc Hội Nhà văn tỏ ra quá phụ thuộc vào cấp trên, ít lo thậm chí không làm được những việc ái hữu (nói đúng hơn là chỉ chăm việc tang tế, mà bỏ mặc việc bảo vệ quyền tự do sáng tác và xuất bản của các hội viên, tạo không khí trao đổi văn học), nên bị mất uy tín là đúng thôi! Đánh giá thế nào là quyền từng người. Nhưng cũng đừng nên nhìn một chiều vào các cơ quan của Hội nhà văn để cho rằng mọi tác phẩm đăng tải ở các cơ quan đó, xuất bản tại các cơ quan đó đều là rác, đều đáng vứt đi hết!

Hiện nay, đời sống văn nghệ trong nước, cũng như đời sống kinh tế xã hội, đang ở trong những cuộc biến chuyển, biến đổi…, không ít nhà văn cũng đang tự mình trải nghiệm nhiều sân chơi, nhiều vai trò; đừng nên nghĩ tất cả đều ở trong “đàn cừu” thụ động!

RFI : Thưa ông, cách nay hơn 30 năm, có nổi lên một số tiếp cận lý thuyết, mở đường cho một số nhận thức hoàn toàn khác về nền văn học trong nước, dẫn đến các thay đổi, đặc biệt nổi bật có Hoàng Ngọc Hiến, với khái niệm “văn học phải đạo” mà công chúng biết đến nhiều. Về vấn đề này, trong hiện tại, liệu những tiếp cận có tầm cỡ tương tự đã xuất hiện chưa ? 

Lại Nguyên Ân : Thời Hoàng Ngọc Hiến, xã hội Việt Nam khép kín. Nhiều điều trong tiểu luận kể trên của ông vẫn còn giá trị, nhất là trong việc nhìn lại bản chất văn học xã hội chủ nghĩa. Đến thời kỳ Đổi mới (cuối những năm 1980), giới lý luận phê bình sẽ luận bàn lại hàng loạt vấn đề: văn nghệ - chính trị, văn nghệ - hiện thực, v.v.
Điều thú vị là ngay sau lúc lãnh đạo ra mặt “dẹp” phong trào đổi mới trong văn nghệ, thì lại xảy đến sự kiện Liên Xô tan rã, phe xã hội chủ nghĩa tan rã! Toàn bộ cơ sở chính trị, cơ sở lý thuyết của chủ nghĩa xã hội “hiện thực”, đến đây, đã phá sản.
Bởi thế, dẹp Đổi mới không thể giống như dẹp “Nhân văn - Giai phẩm” và các vụ việc trong văn nghệ từ 1958 đến 1980 nữa.
Ngay sau lúc lãnh đạo đảng ra tín hiệu dẹp “văn nghệ đổi mới” thì chính họ vẫn đang loay hoay soạn “kịch bản” cho đổi mới kinh tế xã hội; từ chỗ chỉ chấp nhận hai thành phần kinh tế (“toàn dân” và “tập thể”) họ đã chuyển sang chấp nhận 5 thành phần kinh tế; rồi chủ trương mở cửa với đầu tư từ nước ngoài, v.v.
Kinh tế mở ra, văn hóa cũng phải mở ra, dù rất ngập ngừng, chậm chạp, đầy lo sợ (bị) “hòa tan”.
Thế thì lãnh đạo tuy dẹp đổi mới, nhưng đã không thể lập lại “trật tự” như thời bao cấp đóng cửa nữa. Họ không nói “chính trị quyết định văn nghệ” nữa; cũng không đem “tính đảng” làm thước đo để định tính phẩm chất tư tưởng các tác phẩm và sự trung thành với chế độ của tác giả nữa; lại cũng không đem hiện thực xã hội chủ nghĩa ra làm thước đo “lập trường nghệ thuật” của nhà văn nữa. Từ ấy, nhà văn dù có bảo mình viết kiểu “hiện đại” hay “hậu hiện đại” thì cán bộ tuyên huấn của Đảng có thể không thiện cảm nhưng cũng không được lườm nguýt nữa.

Về mặt lý luận và nghiên cứu văn học, từ thập niên 1990, nhất là sang thế kỷ XXI, nó liên quan đến một hiện tượng thú vị: Phần lớn người làm nghiên cứu xã hội nhân văn, trong đào tạo ở bậc sau đại học, không còn gắn với lý thuyết Mác-Lê nữa, mặc dù nhiều khi họ buộc phải qua kỳ thi môn Mác-Lê rồi mới được vào học sau đại học.
Ta biết, giai đoạn chọn đề tài luận văn sau đại học (thạc sĩ, tiến sĩ) thường phải gắn nội dung khảo sát lịch sử cụ thể (ví dụ đề tài thuộc văn học hay sử Việt Nam) với một lý thuyết nhất định.
Các lý thuyết thuộc khoa học xã hội nhân văn ở khu vực phe XHCN cũ tuy cũng có nhưng là quá ít ỏi nghèo nàn. Vì thời bao cấp ở quy mô toàn “phe XHCN” là độc tôn ý thức hệ, di sản lý thuyết xã hội nhân văn hầu như rất nghèo. Ở Liên Xô và Đông Âu còn có mấy trường phái như trường phái hình thức Nga, rồi nhóm Tartu (về ký hiệu học), nhóm Praha (về ngữ học), v.v. chứ vùng Đông Á CS (Trung Hoa, Triều Tiên, Việt Nam) nào có gì? Lấy đâu ra “truyền thống” để ngày nay “phát huy”?
Cho nên trong mắt các nghiên cứu sinh ở Việt Nam thời nay thì di sản ấy là vô hồn, không còn sức hấp dẫn gì hết. Cho nên họ hướng tới các lý thuyết được đề xuất ở khoa học xã hội nhân văn Tây Âu và Bắc Mỹ. Nếu có điều kiện du học thì sự “hướng ngoại” về lý thuyết càng mạnh. Đến những tìm tòi về nền ngữ văn “ngoại Hán” Á Châu thì người ta cũng đi Harvard Yenching, đi Tokyo, đi Seoul chứ không chỉ đi Bắc Kinh, Thượng Hải.
Vậy là, lớp người này đã không còn được đào tạo để trở thành “cán bộ tuyên huấn”, theo một chủ nghĩa Mác dung tục nữa. Họ đọc các học giả phương Tây, các luồng tư tưởng học thuật chính của châu Âu…; khi tiếp cận các vấn đề của văn học Việt Nam, họ sẽ tìm các góc nhìn mới, không chỉ “thi pháp học”, “phân tâm học” mà còn “nữ quyền”, “hậu thực dân”, v.v.
Cho đến nay, mặc dù mức kiến thức “sàn” ở họ có thể còn thô sơ, song cái nhìn của họ đã thay đổi rất nhiều, thay đổi căn bản so với thế hệ được đào tạo trước đây.
Mặc dù từ số người trẻ tuổi này chưa xuất hiện nhiều cây viết lý luận trẻ đĩnh đạc, thành thục, nhưng chiều hướng này đang phát triển.

Người ta biết trường hợp luận án Nhã Thuyên (tức thạc sĩ Đỗ Thị Thoan viết về thơ của nhóm Mở miệng) đột ngột bị những cây bút cực tả “tố giác”, rồi những quan chức quá sợ hãi vội vàng trấn áp (thu hồi bằng cấp, cho thôi việc một lúc mấy thầy trò) chỉ gây thêm một vết nhơ vào lịch sử cái trường sư phạm đã từng miễn nhiệm các bậc thầy Trần Ðức Thảo, Nguyễn Mạnh Tường, Trương Tửu hồi 1958.
Nhưng theo tôi, trường hợp Nhã Thuyên chỉ là tín hiệu phần nổi.
Cùng với Nhã Thuyên là rất nhiều bạn trẻ khác thực ra cũng đã nhìn theo cách khác trên hàng loạt đề tài lịch sử, xã hội, văn hóa, có điều là đề tài của họ không mang nhiều tính thách thức như đề tài Nhã Thuyên lựa chọn mà thôi.
Tôi nhìn thấy rất nhiều Nhã Thuyên trong các nghiên cứu viên trẻ tuổi tại các Viện thuộc Viện HL KHXH Việt Nam.

Những xu hướng cực đoan (cực tả mà cũng là cực hữu!) vẫn còn, nhưng ít lộ diện, thường co cụm lại trong một số nhóm.
Giới nhà văn nhà báo thấy rõ mấy địa chỉ như tờ “Văn nghệ TP Hồ Chí Minh” hay tạp chí “Hồn Việt” (Trung tâm nghiên cứu Quốc học), đều được tài trợ lớn từ ngân sách, nhưng ít người cộng tác, cũng không có mấy độc giả.
Hội đồng lý luận phê bình văn học nghệ thuật trung ương, tuy mượn oai Ban Bí thư, thực ra chỉ gồm một số cán bộ hưu trí đã từng có lúc là quan chức cấp cao; cái chủ yếu đối với họ là kéo dài được lối sống quan chức, tức là vẫn có trụ sở, có xe công, có những tài khoản lớn từ ngân sách, và để tỏ ra đáng được hưởng thì họ tiếp tục những chiêu trò dọa dẫm văn nghệ sĩ và trí thức, đồng thời vận động hành lang cho những biện pháp cứng rắn từ phía lãnh đạo đương nhiệm. Họ cũng muốn tập hợp một số trí thức và văn nghệ sĩ còn nhiều vương vấn với quá khứ bao cấp, mong có lúc thổi lên được ngọn lửa “phục tích”; nhưng năng lực thấp và tư cách kém của mấy bậc “đàn anh” này thường gây ác cảm nhiều hơn thiện cảm; số đông văn nghệ sĩ trí thức tránh xa họ, phạm vi ảnh hưởng của họ rất hẹp, không tác động được đến số đông.

RFI Xin cảm ơn ông.   


http://vi.rfi.fr/viet-nam/20150518-hoi-nha-van-viet-nam/