Danh ngôn

Trong mọi cộng đồng, chúng ta cần một nhóm thiên thần gây rối.

We need, in every community, a group of angelic troublemakers.

(Bayard Rustin – trích bài phát biểu tại New York City 1963)

Trong mọi trường hợp, chắc chắn rằng sự thiếu hiểu biết, đi kèm với quyền lực, là kẻ thù tàn bạo nhất có thể có của công lý.

It is certain, in any case, that ignorance, allied with power, is the most ferocious enemy justice can have.

(James Baldwin - No Name in the Street 1972)

Các cuộc cách mạng và các cá nhân có thể bị giết hại, nhưng bạn không thể giết chết các ý tưởng.

While revolutionaries and individuals can be murdered, you cannot kill ideas.

(Thomas Sankara, một tuần trước khi bị ám sát, 1987)

Không có cảm giác nào cô đơn hơn việc bị chính đất nước mình trục xuất.

There's not a more lonely feeling than to be banished by my own country.

(Kiyo Sato – Kiyo’s Story 2009)

Ban Biên tập

Địa chỉ liên lạc:

1. Thơ

tho.vanviet.vd@gmail.com

2. Văn

vanviet.van14@gmail.com

3. Nghiên cứu Phê Bình

vanviet.ncpb@gmail.com

4. Vấn đề hôm nay

vanviet.vdhn1@gmail.com

5. Thư bạn đọc

vanviet.tbd14@gmail.com

6. Tư liệu

vanviet.tulieu@gmail.com

7. Văn học Miền Nam 54-75

vanhocmiennam5475@gmail.com

Tra cứu theo tên tác giả

Chủ Nhật, 8 tháng 3, 2015

THƠ MICHAEL PALMER

Cù An Hưng dịch

1285624-michael-palmer-125x125-1Mặc dù có mặt trong các tuyển tập "thơ ngôn ngữ", Michael Palmer vượt ra ngoài các tiêu chí của khuynh hướng thơ này. Ông thừa nhận tính không tránh khỏi của tự sự nhưng ngay cả khi mang tính tự thuật cởi mở, thơ ông vẫn có một vẻ ẩn kín và từ chối sự xác định.

Sinh ở New York, học ngành sử và văn học so sánh tại Đại học Harvard, Palmer sống ở San Francisco từ 1969. Ông cùng Clark Coolidge chủ trương tạp chí Joglars rất có ảnh hưởng tuy không sống lâu (1964-1965). Ông cũng biên soạn cuốn Code of Signals: Recent Writings in Poetics (Mã của ký hiệu: Nhữnh bài viết gần đây về Thi pháp) (1983).

Michael giảng dạy khoa Thi pháp học ở trường New College of California và đã có nhiều năm cộng tác với nhà biên đạo múa Margaret Jenkins, cung cấp kịch bản cho vũ đoàn của bà trình diễn.

Các tập thơ chính: Plan of the City of O (1971), Blake's Newton (1972), The Circular Gates (1974), Without Music (1977), Notes for Echo Lake (1981), First Figure (1984), Sun (1988)

độc giả yêu quí

Hắn vẽ núi vẽ đi vẽ lại

từ chỗ hắn trong hang, há hốc

trước ánh sáng, vắng ánh sáng, trên bệ cao

cái sọ với những hốc nhuốm mầu xanh,

con chim giống hồng tước giật trái mọng từ lửa

tóc nàng sáng bừng và vậy đó

lá sả trong cốc thủy tinh quán cà phê.

Độc giả yêu quí, từng có cây

làm bằng dây thép, những lối vào rộng

dưới ban-công dưới tháp nhọn

mái đầu trẻ trung tới nghỉ trên bãi cỏ

cạnh khúc quành con đường sỏi, im lìm

tấm thân bằng chất lỏng như sữa

tóc nàng sáng bừng và vậy đó

những sảnh nối nhau, thảm trải thêu hoa và cửa

hoặc bức ảnh chụp chỉ thấy toàn chim câu

với lũ sáo đen bên bóng râm một đài phun nước.

đoạn mở đầu

Hạn độ của bài ca là

đoạn mở đầu này cho một chuyến đi

tới những đảo xa ngoài ngoài, câu chữ

tự-sinh , dự án nhạc luân vũ, những hình thức,

phẩm chất, những mặt trời, những vầng trăng, những chiếc vòng,

cái trong- ngoài rồi

cái ngoài-trong nặn thành hình

bằng đất sét màu của nàng. Những ngày

còn chưa được nhận là hiển nhiên, mọi thứ nơi kia

mọi thứ nơi này

và anh đang đọc

trong cách đọc tự nhiên cho sân khấu

một bộ những lời chỉ dẫn

biết tự động chỉnh sửa

khi anh tiếp tục tiến hướng tây

từ cái chết đến cái thân thiện, hai

đề mục anh được quyền

suy tư

dưới những hạt mưa to

đầu tiên. Máy bay

sẽ do tổ tiên cầm lái

các cụ đã sống lại rồi.

Sao còn trì hoãn.

thấu kính

Tôi chịu không thể vẽ một bản đồ để anh cứ hoàn toàn theo nó mà đi

bởi cái từ với nghĩa ‘không thể’ đã tự nó in hằn nơi đây

định nghĩa một bầu không khí tin tưởng tuyệt đối

vẫn vừa buộc vừa cởi chúng ta

Những cành thông cong xuống, trĩu nặng

trong không khí ẩm và ấy là điều dễ chịu

tuy đôi khi vẫn hơi khó chịu

vì hắn không giữ nổi thăng bằng khi đứng lộn đầu

nơi nước rỉ thành dòng trên đá.

Vì thế mọi thứ dường không đáng kể, ngay cả vấn đề

nên mua xe mới

hay tân trang xe cũ

để giữ sĩ diện với xóm giềng. Hắn có vẻ

đã thấy cả đám lông đen và âm hộ

của một người đàn bà ngồi xổm đái ở kia,

có lẽ chính là mụ vú nuôi người Di gan

mụ chơi trò ma thuật

đang giữ đứa trẻ trên cao bằng cả hai tay.

Sương mù trước hết sẽ phủ nhoà hình dáng rừng

rồi mới để lộ mờ mờ những cành cây lớn

hoặc tiếng tích-tắc của đồng hồ bên giường ngủ, một

bông hồng đỏ một bông hồng trắng buộc vào vú mụ.

Mụ chìm trong một góc. Hắn kể rằng

cứ thẫn thờ nhìn mãi cái hồ trên núi

đã có lần hắn vào một giấc-ngủ-mà-vẫn-thức

rồi lại đến nhiều thứ khác nữa.

(“Tôi là người tình với nghĩa cát bụi”

là nguyên văn lời hắn, dịu dàng.)

Đứa trẻ đang khóc gọi và chảy máu.

Thản nhiên hắn vẫn bước đi – con đường ấy

có nghĩa gì đâu, xuôi hay ngược,

vài bước nữa thôi là đủ rồi.

bầu trời đêm

một cái ghế mọc từ sàn

bởi thời đại

điêu khắc cổ điển đã qua.

Xe lửa khởi hành nhưng chúng ta vẫn

ở đây, san sẻ cùng nhau

những khoảnh khắc cuối cùng ấy của giấc ngủ

trước khi giấc ngủ lại bắt đầu. Thấy rõ

trong bức ảnh chụp

một thành phố có tường vây hoặc con tầu gỗ

những mi mắt dán vào nhau

những dãy hành khách hài lòng

trong cảnh thiếu vắng chuyển động.

bài thơ hai đoạn

và tôi đã đến đó, hai mắt nhắm nghiền,

sẵn sàng chờ nghe một thứ nhạc không hề có thật,

ánh sáng bật rồi lại tắt, một bộ mẫu tự

của hình dạng hiện trên những mảng tường khách sạn,

bến cảng với những con tàu nằm nghiêng

và chiếc tắc-xi và những tháp nước phun có dáng gọng sườn ...

không sợ gì, vì đã được những bông hoa này bảo vệ...

Nàng bước xuống, có bốn

trợ tá chuột hộ vệ, luôn tay “bắt

không khí.” Đứa trẻ

không vui, đập phá đồ

rồi bị đồ đập vỡ. Mình mắc

cùng một bệnh, người bạn nói. Hắn nhấn

chân ga và đầu hắn bắn ra.

Nguồn: 15 nhà thơ Mỹ TK XX (NXB Hội nhà văn 2007)